XI - Chương 6
-
6 Người Đi Khắp Thế Gian (Trọn bộ 2 tập)
- James Albert Michener
- 8660 chữ
- 2020-05-09 03:40:01
Số từ: 8644
Thể Loại: Tiểu Thuyết Hư Cấu
Người dịch: Nguyễn Thị Bạch Tuyết
NXB Văn Học
Từ mấy tháng nay tôi đã có ý định xem xét lại các mối đầu tư của chúng tôi ở Lourenço Marques, đồng thời tìm cơ hội vươn tới Swaziland, một vương quốc da đen gần bên, và sự có mặt của bốn bạn trẻ ở Moçambique lúc này càng khích lệ tôi thực hiện chuyến đi. Đó là một chuyến du hành thoải mái bằng máy bay phản lực từ thủ đô đến Beira, sau đó chính quyền ở đó cho mượn chiếc phi cơ nhỏ để tới khu bảo tồn động vật.
Hạ cánh ở Zambela bao giờ cũng nguy hiểm vì mặc dù khu bảo tồn động vật duy trì một đường băng khá lớn được để mắt đến thường xuyên, nhưng cỏ dại ở đó vẫn sạch sẽ tươi tốt đến nỗi không thể ngăn thú rừng mở đường qua hàng rào vào kiếm cái ăn, và khi máy bay xuống gần đường băng, tôi phần nào lo sợ khi nhận thấy nơi này đã có sẵn mười bảy con trâu rừng, mỗi con nặng gần một tấn, hơn hai chục con linh dương sừng cong màu xanh, một đàn ngựa vằn khá đông, rất nhiều hươu cao cổ và ba con voi. Tôi giơ cả hai tay lên ra chiều bất lực, nhưng anh phi công không hề lộ vẻ lo lắng. Anh chỉ lượn ba vòng sát đất là đã đuổi được bọn thú đi chỗ khác, rồi lúc chúng tôi lướt trên đường băng tiến về phía các tòa nhà hành chính, đàn ngựa vằn và trâu rừng đã lại gặm cỏ như thường.
Các bạn trẻ được Lourenço Marques báo tin tôi sắp đến nên đã ra đường băng chờ đợi, vô cùng biết ơn tôi đã gợi ý cho họ tới Moçambique, và dành cả tiếng đầu gặp gỡ tranh nhau kể về hai bức thư của Britta và Yigal, về những việc họ đã làm cùng ông Gridley. Tôi cho rằng ông đã giúp họ có bước đầu làm quen đáng tin cậy với châu Phi, và mặc dù ông là người Rhodesia, Cato nói về ông với vẻ kính trọng. Kế hoạch của ngày hôm sau là chuyến thám hiểm sâu trong rừng để xem liệu họ có thể phát hiện ra một đàn linh dương đen chạy trốn cho đến nay vẫn lảng tránh họ không, và tôi cũng được mời đi cùng...
nếu chú có thể dậy lúc sáu giờ,
Gretchen nói thêm.
Tôi lui về căn nhà tròn của mình để dỡ hành lý ra thì ba người bạn Mỹ lần lượt tới chơi. Joe đưa cho tôi xem bức thư mà lãnh sự quán Mỹ ở Lourenço Marques chuyển cho anh. Thư này do hội đồng tuyển quân ở California gửi và là một lời thông báo lạnh lùng rằng từ nay Joe bị coi là kẻ trốn quân dịch, hộ chiếu của anh sẽ bị bất cứ viên chức chính quyền Mỹ nào tịch thu, và anh có thể ngồi tù rất lâu nếu không ngay lập tức quay về dưới sự điều khiển của hội đồng. Kèm theo là ý kiến hợp pháp của một cố vấn pháp luật thuộc chính phủ tuyên bố là Joe, vì lợi ích của chính mình, nên nhanh chóng quay về California.
Tôi nên làm gì?
anh hỏi.
Còn làm gì nữa? về đi.
Nhưng nếu chiến tranh là bất hợp pháp và do đó không thể biện hộ được?
Không cá nhân nào đủ tầm để nhận định như vậy.
Thế thì ai khác chăng?
Chúng tôi tranh luận một lúc, rồi Joe nói,
Tôi đi Marrakech thì hơn. Tôi nghe nói ở đó có người chuyên xử lý những việc thế này.
Tôi sẽ tránh xa Marrakech. Tôi sẽ đi California.
Đối với ông California là nơi thích hợp. Đối với tôi, nó sẽ là số lùi. Sai lầm tuyệt đối.
Và anh xé bức thư của hội đồng tuyển quân.
Anh đi được một lúc thì Gretchen rẽ vào tìm tôi, một cô gái rõ ràng đã tìm được trong cuộc đời mình cảm giác tự do phóng khoáng mà trước kia cô chưa từng biết đến. Khi cô kể về Zambela, gương mặt cô rạng rỡ:
Hôm ở Pamplona chú đã rất có lý khi bảo chúng cháu phải thiết lập lại mối liên hệ với tự nhiên. Cháu chưa từng mơ rằng những nơi như thế này tồn tại thật. Chúng cháu dành cả chiều hôm qua chỉ để quan sát đàn sư tử lén đuổi theo một con ngựa vằn.
Rồi vẻ hài lòng biến mất và cô nói tiếp,
Chú Fairbanks, vấn đề là Monica. Cháu lo cho bạn ấy kinh khủng. Bạn ấy bắt đầu sử dụng heroin rồi. Đầu tiên chỉ hít. Bây giờ bạn ấy đã tiêm dưới da và bị một chỗ mưng mủ khá nghiêm trọng. Cháu cho rằng tiếp sau đây bạn ấy sẽ tiêm vào tĩnh mạch, và cháu thực sự không biết bạn ấy sẽ gặp phải chuyện gì.
Tôi hỏi làm sao Monica lại chuyển sang heroin, Gretchen đáp,
Tự bạn ấy cả thôi. Theo cháu biết chẳng ai ép buộc bạn ấy cả. Ở Lourenço Marques, bạn ấy có gặp một vài thủy thủ kể với bạn ấy về một tay Ấn Độ đang lén lút bán lẻ ở đó. Nhưng cháu tin chắc chính bạn ấy ép lão Ấn Độ kia.
Sau đó cô nói thêm rằng Cato cũng đang dùng thứ này nhưng chỉ hít thôi. Tôi hỏi cô học được từ ngữ như vậy ở đâu, thì cô đáp,
Thanh niên chúng cháu ai mà chẳng biết về Big-H. Tức là chúng cháu biết những gì cần phải biết.
Tôi nói với cô tôi nghi ngờ điều đó, rồi hỏi tại sao cô tin chắc là Cato chỉ mới hít thôi, cô liền đáp đơn giản,
Cháu hỏi anh ấy. Và cháu nhìn tay anh ấy. Anh ấy cũng tiêm chích một thời gian, nhưng bây giờ thì có vẻ sợ việc đó rồi.
Gretchen nhờ tôi nói chuyện với Monica, cố gắng thuyết phục cô ấy, tôi nói,
Tôi làm gì được đây? Cô ấy đã là cô gái trưởng thành mà tôi không có quyền kiểm soát,
nhưng Gretchen chỉnh lại:
Bạn ấy mới mười bảy tuổi và cần được giúp đỡ.
Tôi nói với cô rằng trong những vấn đề liên quan đến ma túy, tôi hoàn toàn bất lực, nhưng cô bảo cô sẽ nhắn Cato đến trao đổi với tôi.
Cato đến, trên người chỉ mặc độc quần soóc, và nhìn thấy hai cánh tay không vết sẹo của anh, tôi hy vọng anh đã không quá lậm vào heroin. Tôi nhận thấy những trải nghiệm ở châu Phi đã làm anh mềm tính đi nhiều, nhưng tôi không được thoải mái lắm và cảm thấy khó mà đề cập đến đề tài ma túy. Anh nhanh chóng tháo gỡ khó khăn:
Với tôi heroin không còn là vấn đề nữa. Tôi đã dùng thử và ban đầu cứ tưởng dễ chơi. Nhưng rồi một hôm nó làm tôi sợ. Thế là tôi cai nghiện chay tịnh luôn.
Tôi nhận xét câu này nghe hơi giống một lời nói khoác kiêu căng ngạo mạn, nhưng anh lại hỏi,
Ông không tin những chuyện bịa về người tiêm một mũi morphine trong bệnh viện rồi đâm ra mắc nghiện suốt đời đấy chứ? Tôi đã từng hít, từng chích và rồi cai hẳn được rồi.
Cậu thấy tự mãn vì đã học đòi chơi với heroin và rồi thoát khỏi nó dễ dàng?
Tôi đã làm được. Tôi sẽ không bao giờ mắc nghiện vì tôi sẽ không cho phép việc đó xảy ra. Vì vậy chúng ta đừng nói đến vấn đề này nữa.
Tôi hy vọng anh đúng,
tôi nói.
Đột nhiên anh nói,
Monica đang gay go, không phải tôi. Cô ấy thích heroin, cần nó. Cô ấy dùng thường xuyên, và tôi khá chắc chắn cô ấy đang tiêm vào tĩnh mạch. Dù sao đi nữa, cô ấy thường xuyên mang đồ nghề bên mình - nắp chai để hơ nóng heroin, ống tiêm dưới da mà cô ấy mua ở Pamplona.
Hai người có sử dụng heroin ở Bar Vasca không?
Không. Cô ấy mua kim tiêm... chỉ để đùa cho vui thôi. Rồi, khi đã có kim, cô ấy lại muốn thử xem sao... Một số thủy thủ Mỹ đã dụ cô ấy bắt đầu ở Lourenço Marques. Và cô ấy cứ rầy rà bắt tôi phải thử. Cô ấy hầu như không ăn uống gì. Rồi khi chúng tôi lên giường, cô ấy gần như chỉ ngủ suốt. Cô ấy sụt cân ghê lắm.
Anh tiếp tục bản miêu tả kinh điển về một cô thiếu nữ trong giai đoạn đầu nghiện ngập, và qua những gì anh nói, tôi sẵn lòng tin tưởng lời cam đoan của anh là quả thực anh đã đi đến bờ của vực thẳm ấy và tự nguyện lùi lại. Tôi mừng cho anh.
Trong bữa tối hôm đó, lần đầu tiên tôi có cơ hội quan sát kỹ Monica, và nhìn bên ngoài trông cô hấp dẫn hơn trước, một cô thiếu nữ đáng yêu mười bảy tuổi với nhan sắc siêu phàm. Thân hình thon thả quá mức khiến cô càng thêm quyến rũ, vì lúc này khuôn mặt nhợt nhạt trông lại xinh đẹp bội phần. Cô mặc chiếc váy mini kiểu dáng khác lạ khiến tất cả khách đến tham quan khu bảo tồn đều phải nhìn cô chằm chặp. Dấu hiệu duy nhất tiết lộ các cuộc thám hiểm mới của cô là miếng băng dính nhỏ màu da mà bà Gridley đã khăng khăng dán vào chỗ mưng mủ.
Monica ngồi bên phải tôi và cố gắng làm tôi hài lòng, kiềm chế sự hóm hỉnh sắc sảo đôi lúc khiến người lớn tuổi phật ý. Cô ăn nhỏ nhẻ, và đến lúc cô gẩy đi gẩy lại mãi món tráng miệng, tôi nhận ra cô lặng lẽ thế là vì đang ở giai đoạn mệt mỏi trong chu trình phởn phơ-trầm cảm.
Ăn xong, chúng tôi tới thăm ông bà Gridley, người tôi quen từ hồi còn ở các khu bảo tồn tại Rhodesia, và sau khi ông thông báo tất cả chúng tôi phải đi ngủ sớm vì sáng mai sẽ khởi hành từ lúc sáu giờ để săn lùng linh dương đen, bà Gridley tìm được cơ hội dụ tôi vào bếp và nói thẳng,
Nếu quen Ngài Charles Braham, tốt hơn hết ông nên đánh điện bảo ông ấy đưa con gái rời khỏi châu Phi và gửi nó vào viện điều dưỡng đi.
Ngài Charles không có ảnh hưởng gì lên cô ấy.
Nhưng cô ấy đang bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng... do heroin. Có mười bảy tuổi đầu. Tôi muốn khóc quá.
Bà đã trò chuyện với cô ấy về vấn đề này chưa?
Tôi không cần phải làm thế. Khi tôi xử lý vết mủ, cô ấy cũng hiểu là tôi đã biết. Ông Fairbanks, ông có nhận ra rằng cô ấy có thể mất cánh tay không? Cô bé hoàn toàn không có sức đề kháng và không chịu chữa trị gì cả.
Bà ngừng lời rồi hỏi thẳng tôi,
Cậu thanh niên da đen kia. Cậu ta có vẻ là người tử tế. Cậu ta không rủ rê con bé, phải không?
Ngược lại thì đúng hơn.
Cậu ấy mạnh mẽ hơn. Cậu ấy có thể chịu được một trải nghiệm như vậy. Cô ấy thì không. Họ có định cưới nhau không?
Tôi không nghĩ vậy.
Tạ ơn Chúa. Cô ấy sẽ hủy hoại cậu ta mất, và cậu ta sẽ cho rằng cô ấy làm vậy vì cậu ấy là người da đen. Thực ra, cô ấy sẽ hủy hoại bất kỳ người đàn ông nào cô ấy lấy làm chồng.
Tại sao bà nói vậy?
Vì cô ấy nằm trong số những kẻ bệnh hoạn của thế hệ này. Ông tưởng chúng tôi không gặp họ ở Rhodesia sao? Thế giới của chúng ta đã trở nên quá sức họ chịu đựng. Họ đã đến ngày tận số, và nói như một nhà di truyền học, họ bị loại bỏ khỏi xã hội này sớm chừng nào hay chừng ấy.
Rồi bà quay về với khách khứa của mình, một người đàn bà can đảm, nhìn mọi người đúng với bản chất của họ.
Sáu giờ sáng hôm sau, chúng tôi tập trung tại cánh cổng ngăn cách dãy nhà tròn với khu vực thú rừng tự do rong chơi, và tôi hài lòng thấy Monica tràn đầy sinh lực như thể bữa sáng đã vực tinh thần cô lên, nhưng Gretchen bảo tôi,
Chúng cháu mang theo một ít bánh mì kẹp thịt, vì Monica chưa ăn gì.
Sau đó, khi chuyến đi đã được một lúc, Cato mới nói riêng với tôi là cô đã tiêm heroin trước khi lên giường và bây giờ đang phê. Tôi tìm dấu hiệu cho thấy điều đó, nhưng không phát hiện được gì.
Chúng tôi lái hai chiếc xe băng qua những vùng đồng cỏ bình thường cho phép khách du lịch tham quan, dọc những con đường lấm bụi mở ra cảnh sắc kỳ thú này tiếp cảnh sắc kỳ thú khác.
Chú để mắt đến chỗ rẽ sắp tới nhé,
Gretchen nhắc tôi.
Voi đấy.
Chúng tôi đang ở trên một khu đất nhiều cây lùn mọc cách nhau chừng hai mươi thước, quãng quãng lại xen cỏ cao ở giữa và chúng tôi vừa ngoặt vào chỗ rẽ thì chiếc xe dẫn đầu do ông Gridley lái từ từ giảm tốc độ. Phía trước, chắn ngang giữa đường là ba con voi khổng lồ. Ông Gridley nói với ra sau trong khi ba con vật to lớn chăm chú nhìn chúng tôi không nhúc nhích.
Chúng chính là ba con trên đường băng hôm qua.
Chúng tôi lái đến gần, cách chúng chưa đầy chục thước, hai chiếc xe sát bên nhau, và ông Gridley nói tiếp,
Hai tuần trước chúng đã tóm được một chiếc Volkswagen nhỏ và lật nó đổ kềnh đấy. Các bạn cứ cài sẵn số lùi nhé.
Chúng tôi bị ba con vật màu xám to lớn ấy chắn ngang đường mất khoảng mười lăm phút, nhưng cuối cùng chúng thong thả bỏ đi; chúng tôi đang ở giữa một vùng đất nơi thú rừng làm chủ, như thời xa xưa. Cảm giác này càng rõ rệt hơn khi chúng tôi rời vùng rừng mà tiến vào một loạt đồng bằng rộng lớn, và rồi trông thấy trước mặt một đàn trâu rừng có lẽ phải hàng nghìn con, những con thú đen trũi, bộ sừng uốn cong lạ mắt khiến chúng trông như đang đội chiếc mũ chụp thịnh hành hồi cuối thập niên hai mươi. Khi chúng tôi đi qua, lũ trâu đực đứng thành một vòng tròn bảo vệ, vai kề vai, vũ khí đồ sộ của chúng hạ thấp như đang chuẩn bị tấn công.
Trên những đồng cỏ gần bờ sông chúng tôi tìm thấy đàn đàn lũ lũ ngựa vằn, linh dương và linh dương đầu bò đứng ken nhau. Tôi nhớ như in phản ứng của Joe và Cato. Joe phát biểu,
Một nghìn con trâu rừng châu Phi làm phong cảnh hấp dẫn hơn hẳn so với một nghìn con người,
và Cato, khi nhìn thấy các nhóm thú rừng túm tụm về một nơi, đã nói,
Tôi lúc nào cũng nghĩ đến châu Phi toàn con người... luôn da đen... luôn trần truồng. Lourenço Marques và nơi này chắc chắn đã làm thay đổi nhiều hình ảnh. Người đáng kể là người da trắng, còn sự sinh tồn vĩnh cửu là muông thú.
Tôi không ngồi cùng xe với hai cô gái, nên không biết các đàn thú tác động đến họ như thế nào, nhưng chắc chắn cánh trai trẻ đều bị cảnh tượng làm cho sửng sốt. Lúc chúng tôi tình cờ gặp đàn sư tử đầu tiên đang xé xác một con trâu, trong khi lũ kền kền và linh cẩu đứng rình gần đó, Cato, sau khi chứng kiến hai con sư tử đánh nhau để giành lợi thế, thốt lên,
Làm sao các vị lại thích thú cảnh kia được chứ?
Tôi có thể thấy anh xúc động sâu sắc trước sự man rợ của bọn thú và bản tính bất cần của chúng trước mọi thứ ngoại trừ cái bụng no nê.
Tới gần con sông, nơi chúng tôi sẽ đi dọc bờ hơn một tiếng đồng hồ cho đến một khúc cạn dẫn lên khu đồi cao hơn, tôi được biết các bạn trẻ vẫn chưa hề trông thấy một đảo hà mã, vậy nên vừa có cơ hội, tôi liền đề nghị ông Gridley,
Chúng ta ghé thăm lũ hà mã nhé,
rồi chúng tôi đi theo con đường vòng khá xa, một quyết định có thể coi là sáng suốt nhất trong ngày hôm đó, vì lối đi ấy đã dẫn chúng tôi băng qua một thế giới thần tiên đích thực, nơi cư ngụ của tất cả các loài chim con người có thể tưởng tượng ra: kền kền khổng lồ, đại bàng bắt cá oai hùng, hồng hạc, sếu có mào với vẻ duyên dáng hiếm có, và hàng trăm loài chim bay thấp lông cánh sặc sỡ. Đi lại giữa bầy chim là những đàn linh dương chân đen đông đúc, vừa nhảy vọt lên, vừa lượn vòng vèo mỗi khi chúng tôi tới gần, thân hình màu nâu vàng của chúng ánh lên trong nắng. Buổi sáng hôm ấy chúng tôi đã được thưởng thức kết hợp màu sắc và chuyển động mà thiên nhiên thỉnh thoảng vẫn ban tặng cho người quan sát may mắn; bất cứ ai yêu âm nhạc, hội họa hay khiêu vũ sẽ linh cảm được rằng mình đang ở trong thế giới của nền nghệ thuật khác. Khi chúng tôi dừng xe lại để uống nước mát, Gretchen phát biểu,
Giống như bộ não ta giảm số xuống chuyển động chậm còn mắt ta thành kính vạn hoa. Tôi có thể ngắm linh dương chân đen cả ngày.
Tôi bảo họ vài dặm nữa thôi, một hình ảnh trái ngược đang chờ đợi họ, một hình ảnh họ sẽ không bao giờ quên, và khi hai chiếc xe đến gần một vùng trũng lầy lội, hai cô gái phát hiện ra thứ mà họ cho chính là thứ tôi vừa nói đến; một đàn năm con cá sấu lớn đang phơi nắng trên bờ sông. Trông chúng như những khúc gỗ trôi từ trên núi xuống, những sinh vật gớm ghiếc thân đầy u bướu và toát lên vẻ hiểm ác.
Đứng tránh xa ra,
ông Gridley dặn dò khi ông và hai viên gác rừng da đen lái xe cho chúng tôi lấy súng ra. Lũ cá sấu khổng lồ quan sát chúng tôi đến gần, nhìn ánh nắng lấp lánh trên nòng súng, rồi lặng lẽ trườn xuống sông. Có thể nói, chúng trông như biến mất; một con vẫn nằm lại trên bờ, ngụy trang khéo đến nỗi không thể bị phát hiện, chiến thuật mà loài bò sát thấy hữu hiệu, và khi Monica hứng chí vì cảnh tượng trước mắt, xuống xe, chạy ngang qua bờ đầm cỏ mọc dày, vẻ mặt phấn chấn vì cảnh tượng trước mắt, con vật to lớn để cho cô tới ngay bên cạnh, rồi, với một phát trời giáng bằng cái đuôi dài nung núc, nó quật cô ngã sát mép nước, và từ dưới sâu hai con khác lập tức lao lên, mõm há rộng ngoác, trong khi con đã quật cô ngã cũng từ trên bờ xông đến.
Nhìn thấy những hàm răng nhọn hoắt đang ào đến từ cả ba phía, Monica rú lên, nhưng ông Gridley và hai người gác rừng, có Joe bám theo gần như sát nút, đã lao ngay đến chiến đấu với lũ cá sấu.
Đừng bắn!
ông Gridley thét bảo hai người gác rừng khi họ dùng báng súng phang vào mấy con thú, còn Joe thì đá mũi giày ống Texas cứng ngắc vào đầu chúng. Cũng nhanh như lúc tấn công, lũ cá sấu lùi lại và biến mất dưới làn nước đã bị chúng khuấy thành một màu nâu đục ngầu.
Trong cả nhóm chúng tôi, Monica ít hoảng sợ nhất. Ngoài tiếng thét báo động lúc đầu, cô tỏ ra bình tĩnh rõ rệt, lúc này cô phủi quần áo và nghiêng mình trước bốn người đàn ông đã cứu cô.
Có khối cô gái bị chó sói tấn công,
cô nói,
nhưng cá sấu thì chẳng mấy người bị.
Không đùa đâu,
ông Gridley nói.
Nếu Joe không đá vào đầu nó thì cô đã mất một chân... có khi còn tệ hơn nữa.
Tất cả chúng tôi vẫn còn bàng hoàng, Gretchen nói,
Chú Fairbanks, điều chú dành cho chúng cháu quả là bất ngờ thật,
tôi thì đáp,
Tôi có định thế đâu,
rồi sau đó Monica kêu,
Đi thôi,
và chúng tôi tiếp tục vượt qua vùng đầm lầy cho đến khi tới một gò đất thấp nhìn xuống sông. Tôi chờ xem ai sẽ là người đầu tiên phát hiện ra những gì nằm trước mắt, và cuối cùng Gretchen thốt lên,
Ôi Chúa ơi!
Ở đó, trên một hòn đảo khá nhỏ giữa sông, ít nhất một trăm năm mươi con hà mã khổng lồ nằm xúm xít bên nhau, một núi thịt phập phồng, một trong những cảnh tượng lạ thường nhất ở châu Phi. Thật sự khó tin, bầy thú rừng đông đúc này, con nọ đè lên con kia thành một cộng đồng nằm ườn uể oải. Thỉnh thoảng, con hà mã nào đó lại tách đàn nặng nề lội bòm bõm xuống sông, trong khi các con khác, hài lòng với trận tắm buổi sáng, bèn chậm chạp bước từ dưới sông lên tìm cho mình một chỗ giữa núi thịt.
Quan sát một lúc, chúng tôi mới nhận ra số hà mã nằm chìm dưới sông - chỉ để lộ mắt và lỗ mũi trên mặt nước - đông hơn số chúng tôi nhìn thấy trên đảo nhiều, hai cô gái thử ước tính có bao nhiêu con ở đó.
Bốn hoặc năm trăm?
Monica hỏi, và ông Gridley gật đầu.
Chúng tôi quay về qua khu đầm lầy và bắt đầu hành trình dài lên đồi, đến trưa thì tới nơi. Chúng tôi bày bữa trưa ngoài trời ra và ăn uống dưới bóng cây râm mát trong khi ông Gridley cầm ống nhòm quan sát khu đất rộng bao la phía dưới và tả hết đàn thú này đến đàn thú khác mà chúng tôi không thể nhìn được bằng mắt thường. Chúng tôi đang chuyền tay nhau chiếc ống nhòm để tận hưởng cuộc tham quan từ xa đó thì ông Gridley chộp lấy ống nhòm, chăm chú quan sát một khoảnh đất rậm rạp cách chúng tôi không xa lắm và nói,
Ở kia có mấy con vật đẹp thật. Có ai biết chúng không?
Mỗi người một lượt, chúng tôi nhìn qua ống nhòm thấy một đàn độ bốn mươi con thú lớn mà tôi dám nói là nai sừng tấm, vì đã nhìn thấy loài này ở vùng núi Bắc Mỹ. Gretchen hỏi,
Chúng có phải chồn zibelin không?
và ông Gridley tiếp lời,
Linh dương đẹp hơn nhiều. Đây là linh dương châu Phi và chúng tôi hiếm khi nhìn thấy chúng đông đúc thế này.
Thế rồi, như thể cũng tò mò về chúng tôi chẳng kém chúng tôi tò mò về chúng, những con thú to lớn chậm chạp tiến về phía chúng tôi, hơn ba mươi con đẹp đẽ vừa đánh hơi vừa thận trọng thăm dò địa hình. Chúng đến rất gần, hầu như thành hàng một, rồi bỗng sững lại ít nhất năm phút, trong khi chúng tôi vừa ăn nốt bữa trưa vừa thích thú thưởng thức màn trình diễn lạ lùng kia. Cuối cùng con linh dương đầu đàn cảm thấy điều gì đó mà nó không thích, thế là trong chớp mất cả đàn quay lưng biến mất.
Ôi, ước gì chúng ta có ít âm nhạc!
Monica reo.
Như thế ngày hôm nay của chúng ta sẽ thật hoàn hảo,
và ba thanh niên Mỹ nhất trí rằng cái mà họ thực sự cần trong buổi cắm trại này là chiếc máy ghi âm của Harvey Holt.
Tôi sẽ bằng lòng ngay cả với những ca khúc ngớ ngẩn của ông ấy,
Cato tuyên bố, nhưng Monica phản đối,
Không phải thứ đa cảm ấy. Em sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì để anh Clive cưỡi linh dương đến đây, mang theo đĩa hát cho chúng ta có thể nghe lại các ca khúc của Octopus, Cream hay Blind Faith. Anh biết đấy, thứ gì đó thật sự khí thế, với một nhịp điệu mà anh có thể cảm nhận được.
Cả bốn người đều nói về nỗi khát khao mà họ dành cho một bản nhạc sôi nổi nào đấy; và khi nhớ ra tôi thích bài
MacArthur Park
đến thế nào, Gretchen bèn làm bộ chơi guitar và cất tiếng hát:
Someone left the cake out in the rain...
Cả nhóm tập trung lại thành một ban nhạc với những nhạc cụ tưởng tượng và trình bày một tiết mục mà tôi nghe riết đã thành quen, và trong lúc nghe họ hát, tôi lại một lần nữa thấy rõ thứ âm nhạc này đã động viên họ ra sao. Ông Gridley bối rối đứng nhìn, nhưng khi Cato bắt đầu hát
Sic ’Em, Pigs,
trong đó cảnh sát bị nhạo báng bằng tiếng kêu ủn ỉn và đủ loại âm thanh giả tiếng lợn khác, ông sững người lại. Ở Rhodesia vai trò của cảnh sát hết sức quan trọng, và kẻ nào phỉ báng họ là đã tự xếp mình vào hàng ngũ chống đối các lực lượng kiến thiết xã hội. Ông không nói gì, và một lúc sau, khi cả bốn ngả lưng trong bóng râm giữa buổi trưa nồng nực, vẫn tiếp tục bàn luận về âm nhạc, ông nháy mắt với tôi, một hành động mà khi đó tôi không hiểu rõ ý nghĩa.
Những bài ca làm cho Monica hay chuyện hẳn lên, cô nói,
Em vẫn còn nhớ những gì Gretchen nói với chúng ta hôm cắm trại ở tu viện... là luôn có những người như chúng ta đi hành hương. Những ca khúc chúng ta vừa hát mà ông Gridley không thích... ồ, em đã thấy ông cau mày. Em dám cược những người có địa vị sống trong các lâu đài cũng không thích thú gì kẻ hát rong. Mọi người biết không, đêm hôm nọ em đã ngẫm nghĩ về cách sống của dòng họ em từ đầu thế kỷ trước. Phu nhân Wenthorne, cầu Chúa cho linh hồn bà được yên nghỉ, đã quở trách em phí hoài cả cuộc đời lang thang khắp châu Phi. Nhưng tổ tiên em đã phí hoài cuộc đời lang thang khắp châu Âu. Như cụ Christopher Braham, bạn của Keats và Shelleyh[118] đấy. Cụ đã lang thang khắp châu Âu suốt mười một năm trời. Sống trong một ngôi nhà gần khu di tích Tam cấp Tây Ban Nha ở Rome. Và cụ Pittenweem Braham, tên được đặt theo ông chú ở Scotland. Phát âm tên mình thành Pinnim và đi du lịch châu Âu với một lũ đồng tính luyến ái. Và một Braham nổi danh nữa, cụ Fitzwilliam, từng làm việc trong nội các của thủ tướng Gladstone. Cho đến tận năm ba mươi bảy tuổi, cụ vẫn là một kẻ hoàn toàn vô tích sự, nhưng sau đó, với những kinh nghiệm giang hồ ở Tây Ban Nha và Đức, cụ lại thành tài sản vô giá cho chính phủ. Em cho rằng thời nào cũng thế thôi. Người giỏi thì sống sót và càng ngày càng giỏi hơn nhờ kinh nghiệm. Người kém cỏi thì lẹt đẹt mãi. Không, ý em không phải thế. Chính kinh nghiệm biến họ thành người giỏi. Người ta mất cụ Pittenweem vào tay bọn đồng tính luyến ái nam. Người ta giữ được cụ Fitzwilliam cho nội các.
Cô trìu mến nhìn Cato, như thể gợi ý rằng một ngày nào đó anh cũng có thể là thành viên nội các, rồi nói thêm,
Em vẫn chưa nêu được vấn đề em đang bận tâm. Hồi thế kỷ trước chỉ người giàu mới đủ khả năng đi du lịch khắp châu Âu. Bây giờ thì ai cũng làm được việc này. Và điều khiến nhiều người khó chịu là hồi đó chỉ nam thanh niên mới đi được. Bây giờ thì con gái cũng đi được.
Cô bật cười, hơi có phần kích động, và nói,
Chẳng phải là một uyển ngữ hết sức thú vị sao? Tua du lịch bao quát thủ đô các nước châu Âu? Tua đời sống hạ lưu qua các nhà thổ ở châu Âu? Hơn một nửa tổ tiên của em trở về Anh mang theo bệnh giang mai. Ngày nay trở về ta mang theo những thứ khác.
Chúng ta nên quay lại xe thì hơn, muộn rồi,
ông Gridley nhắc, thế là chúng tôi bắt đầu đoạn đường khám phá gian nan, băng qua một vùng cây bụi lộ thiên không con đường nào chạy qua. Chừng nào chúng tôi còn bám sát những khu vực không bị voi và trâu quần đảo trong mùa mưa thì mặt đất còn khá bằng phẳng, nhưng đến những chỗ bị chân của đám thú ấy cày thành ổ gà, đường đi gồ ghề đến nỗi chúng tôi gần như bị xóc nảy khỏi ghế. Thật là một giờ đồng hồ căng thẳng, chỉ có thể chịu đựng được nhờ những lời trấn an luôn miệng của ông Gridley,
Sắp hết đến nơi rồi!
Cuối cùng chúng tôi thoát ra một đồng cỏ bằng phẳng, dọc mé đồng cỏ là một hàng cây, và khi đến cách trăm thước, chúng tôi dừng lại còn ông Gridley chĩa ống nhòm nhẩn nha quan sát địa hình. Sau đó, lẳng lặng, ông giơ tay phải lên chỉ, và phía trước chúng tôi, đứng nửa dưới nắng, nửa trong bóng râm, nửa trên đồng cỏ, nửa trong rừng cây là hai mươi con thú tuyệt đẹp. Joe nhìn ông Gridley như thể muốn hỏi,
Linh dương đen ư?
Người đàn ông Rhodesia gật đầu.
Chúng thật đáng xem, đủ bù đắp cho mọi cú xóc chúng tôi đã phải chịu, những viên ngọc quý giá thanh tao của châu Phi. Chúng cỡ một con ngựa lớn, và mỗi lúc chúng bước vào và ra khỏi bóng râm, chúng tôi thấy bộ lông của chúng chuyển từ màu vàng nâu nhạt sang tía sẫm, nhưng cái khiến người ta không thể nào quên được là cái mặt chúng vằn vện: những dải trắng sáng cắt ngang một bề mặt gần như đen kịt. Khi nhìn những khuôn mặt lạ thường đó, Cato thì thầm,
Mọi mặt nạ của châu Phi đều từ đó mà ra cả,
và anh nói đúng. Sừng của chúng là những thanh mã tấu khổng lồ lượn về phía sau theo các đường cong ngoạn mục. Muốn sử dụng sừng, con vật sẽ phải cúi đầu song song với mặt đất. Ông Gridley nói nhỏ,
Với bộ sừng đó, một con linh dương có thể giết cả sư tử đấy.
Chúng tôi quan sát đàn thú khoảng nửa tiếng đồng hồ, cầu mong chúng sẽ di chuyển hẳn ra ánh nắng, nhưng có lẽ vì đã phát hiện ra chúng tôi, chúng chỉ quanh quẩn nửa khuất nửa lộ, và có lẽ thế lại hay, vì chúng tôi phải vận dụng trí tưởng tượng để hoàn chỉnh nốt những đường nét lẩn trong bóng râm. Với ông Gridley, cảnh tượng lại thật buồn.
Lần cuối cùng tôi được trông thấy chúng trong năm nay,
ông nói và chỉ những đám mây đã bắt đầu tụ lại ở đằng Tây.
Sắp mùa mưa rồi.
Mưa có làm cho đường xá thành không thể đi được không?
Gretchen hỏi. Ông Gridley bật cười, rồi đáp,
Không thể đi được? Gần như tất cả các con đường chúng ta đi hôm nay đều sẽ ngập mét rưỡi đến hai mét nước... suốt năm sáu tháng liền. Ở đây, đã mưa rồi là cứ mưa mãi.
Lúc này đàn linh dương đen đã tiến lại gần hơn, tuy vẫn loanh quanh trong thế giới nửa sáng nửa tối của chúng, và không lần nào chịu nhô ra ngoài nắng. Chúng tôi nhìn chúng như những bóng ma, với mặt nạ trắng đen, với bộ đao lấp lánh uốn cong ra sau, với bộ lông màu nâu vàng, xanh lơ và đồ tía. Vẻ đẹp và sự duyên dáng của những con vật thanh nhã này thật là choáng váng, và một lúc sau, chúng biến mất cứ như không vào trong rừng, lần lượt từng con một mà chẳng có chuyển động bất thình lình nào.
Đàn linh dương biến mất - tức là đối với tất cả chúng tôi, trừ Joe. Hiển nhiên đã bị mê hoặc bởi thoáng nhìn vào trong lòng châu Phi vẫn y nguyên một nghìn năm trước và chần chừ không muốn thoát khỏi bùa mê của nó, anh bỏ chúng tôi lại, rồi di chuyển như một thợ săn người bản địa, băng qua bìa rừng, nơi vài con linh dương vẫn còn nấn ná, và suốt một lúc đứng sững, chằm chằm nhìn vào bóng râm, và cứ đứng im tư thế này gần nửa giờ, quan sát đàn linh dương trong khi chúng cũng đang quan sát anh.
Chẳng phải thế nguy hiểm sao?
tôi hỏi.
Rất nguy hiểm,
ông Gridley đáp.
Nơi nào anh nhìn thấy linh dương, nơi đó anh sẽ nhìn thấy sư tử.
Chúng ta làm gì đây?
Đối với một chàng trai, có những chuyện còn quan trọng hơn sư tử.
Ông giơ ngón cái chỉ thứ mà chúng tôi đã không ai để ý: hai người gác rừng da đen đã lặng lẽ vác súng ra đó đứng canh.
Khi quay lại, Joe hỏi ông Gridley,
Chúng sẽ sống sót chứ?
và nhà sinh thái học đáp,
Chúng chẳng còn được bao nhiêu. Nhưng mật độ sinh sống dày sẽ cho phép chúng sống sót... nếu chúng ta hành động đúng.
Vẻ xúc động lộ rõ, Joe nói,
Chúng mà tuyệt chủng thì đúng là tội ác.
Chúng ta phải đi tiếp,
ông Gridley nhắc nhở, chỉ lên bầu trời phía Tây tối sầm, nơi những cơn mưa sắp chấm dứt một chu kỳ để bắt đầu chu kỳ tiếp theo. Lúc chúng tôi về đến trại, cả hai chiếc xe đều đã bị bùn đất phủ kín.
Chúng tôi định đêm hôm đó sẽ là bữa tiệc tạm biệt Zambela, nhưng mệt rã rời sau chuyến tham quan ban ngày, có ý kiến bàn bỏ qua kế hoạch ấy mà lên giường đi ngủ.
Sáng sớm mai chúng ta đã phải rời khỏi đây rồi,
Gretchen nhắc.
Con tàu Hy Lạp sẽ không chờ đâu. Chúng ta nên đi ngủ thì hơn.
Nhưng Monica, vốn là người cần nghỉ ngơi nhất, lại phản đối:
Bà Gridley đã mất công chuẩn bị. Chúng ta sẽ tắm nước nóng, chợp mắt một lúc, khỏe lại ngay thôi.
Bước vào phòng tắm, tôi nghe có tiếng một chiếc phi cơ nhỏ bay qua, lượn sát đường băng để dọa lũ thú rừng, nhưng đến lúc lên giường, tôi quên khuấy mất chuyện đó.
Một giờ sau tôi bị Monica khua dậy khi cô trên đường lượn một vòng qua các căn nhà tròn để kéo chúng tôi đến bữa tiệc. Cô bước vào phòng tôi, người hầu như trần truồng, trông không khác gì một tiên nữ chốn rừng xanh, thoải mái như chú linh dương.
Đến giờ vui chơi rồi!
cô vừa nói vừa giật phăng chăn của tôi ra và hôn tôi một cái. Cô đang định chạy đi thì tôi chộp lấy cánh tay cô kéo lại, bất chợt nảy ra quyết định thử nói lý với cô xem sao, và trong một thoáng chắc hẳn cô tưởng tôi định làm tình với cô, vì mắt cô sáng lên như thể muốn nói,
Chuyện này thật điên rồ, nhưng có khi cũng vui đấy.
Tôi dập tắt ngay những suy nghĩ đó bằng cách khoác cho cô chiếc áo choàng tắm của mình và kéo cô ngồi xuống giường.
Kiên quyết buộc cô phải đối mặt với mối nguy hại của ma túy, tôi đi thẳng vào vấn đề,
Monica, cháu phải cai heroin đi thôi.
Chú có quyền gì mà ra lệnh cho cháu?
Chú là bạn cha cháu. Chú là bạn cháu.
Kéo chiếc áo choàng tắm của tôi sát vào người, cô nóng nảy nhún vai và đáp lại,
Cháu không đòi hỏi tình bạn của chú... hay những lời răn dạy của chú. Và nếu chú định thuyết giáo như cha cháu thì cháu lại càng không muốn.
Phải có người làm việc này.
Tôi tóm lấy cánh tay trái cô và lắc cho lớp áo tuột ra. Chỉ vào miếng băng dính, tôi nói tiếp,
Cháu có nhận ra nếu để nó mưng mủ thêm hai ngày nữa là cháu có thể mất cả cánh tay không?
Ai bảo thế?
Bà Gridley. Bà ấy chăm sóc rất nhiều con thú bị thương, nhớ chứ? Và cháu là một con thú nhỏ bị thương nặng đấy, Monica.
Cháu có bị sao thì Marrakech cũng xử lý được hết.
Chú không cho phép cháu đi Marrakech.
Cháu thích đi đâu thì đi,
cô cãi với giọng hỗn xược.
Câu nói làm tôi điên tiết đến nỗi tôi vặn cánh tay cô, và mắt tôi bắt gặp một hình ảnh mà tôi tin chắc sẽ có ở đó - vết tím nhạt do một mũi kim tiêm để lại khi nó đi vào mạch máu.
Cháu điên rồi!
tôi quát lên.
Cháu đã tiêm ma túy vào mạch máu chính!
Cháu tiêm rồi thì sao nào?
cô hỏi với vẻ thách thức.
Không thể kiềm chế được cơn giận dữ đau đớn, tôi tát vào mặt cô.
Cháu đang tự giết mình đấy - vì Chúa, cháu không thể nhận ra điều đó được sao!
Cô hét lên, vùng khỏi tay tôi đến nỗi rơi cả chiếc áo choàng,
Ôi, cút xéo đi!
và đùng đùng lao ra khỏi căn nhà tròn, nhưng khi chúng tôi tụ tập để ăn tối, cô vội chạy đến nắm lấy tay tôi thì thầm,
Cháu xin lỗi, ông chú thân mến hay lo lắng. Cháu sẽ cẩn thận. Cháu hứa đấy.
Khi chúng tôi đến nhà ông bà Gridley, tôi mới hiểu tại sao lúc trước lại có tiếng máy bay: đang chờ sẵn trong phòng khách là hai chàng sĩ quan Bồ Đào Nha điển trai, đại úy Teixeira và trung úy Costa Silva từ doanh trại Vila Gonealo, và tôi thấy họ rớt cả mắt ra ngoài khi hai cô gái của chúng tôi xuất hiện trong chiếc váy ngắn. Ngay lập tức không khí buổi tối sôi nổi hẳn lên, nhưng sự hiện diện của hai sĩ quan không chỉ là xã giao; nó minh chứng cho sự chu đáo của hai vợ chồng Gridley, vốn đã không ít lần nghe các bạn trẻ than thở về nỗi thiếu thốn âm nhạc. Chiều hôm đó bà Gridley đã gọi điện đến doanh trại hỏi xem có ai có đĩa nhạc hiện đại không, và đại úy Teixeira nói,
Tôi có một ít, nhưng Costa Silva có nhiều đĩa hay lắm.
Anh còn có cả máy bay và máy quay đĩa, vậy nên lúc này đây, trước bữa tối, anh xếp đĩa thành chồng, đặt loa ở khoảng cách vừa phải, và mỉm cười.
Thử đoán xem bài gì đầu tiên nào,
anh nói tiếng Anh khá lưu loát. Tôi có thể nhận thấy nét ngại ngùng trên khuôn mặt các bạn trẻ, dường như thể họ đang nghĩ đến Glenn Miller hay Benny Goodman. Khi bài
Aquarius
bật lên, với giọng ca mạnh mẽ và nhịp điệu sôi động, họ ồ lên mừng rỡ, và Monica nắm tay Costa Silva xoay vài vòng, hét vang át cả tiếng nhạc,
Anh được thăng chức đại tướng!
Ngay sau đó giọng hòa âm của ban nhạc Fifth Dimension gào thét,
Let the sunshine in!...
và chúng tôi yên vị nghe một chương trình âm nhạc lặp lại những gì chúng tôi đã được thưởng thức ở Torremolinos bốn tháng trước đây, chỉ khác là các đĩa hát mới hơn.
Tôi hỏi đại úy Teixeira làm sao có được những đĩa đó, vì anh vốn đóng quân tại một trong những vùng xa xăm nhất của châu Phi, thì anh giải thích,
Trong một tạp chí âm nhạc từ London chuyển đến, chúng tôi thấy danh sách những bài hát được ưa thích, vì thế mỗi lần lái máy bay đưa khách lạ đến khu bảo tồn động vật hoặc xuống con đập ở Cabora Bassa và được hỏi, ‘Chúng tôi có thể gửi gì từ New York cho các anh?’ chúng tôi lại đưa cho họ một danh sách đĩa hát và địa chỉ của hãng Sam Goody. Ông xem đây!
Anh lật qua các album và tôi thấy có Octopus, Cream, Led Zeppelin và The Mamas and the Papas. Trước sự ngạc nhiên của ông bà Gridley, những người vốn không quen nghe thể loại nhạc này, tôi đề nghị Silva Costa bật bài
Creeque Alley
trong album cuối cùng, và khi những giai điệu quen thuộc của nó tràn ngập gian phòng khách nhỏ, tôi lại nghĩ bài hát này thật đương đại: không hay ho, không đặc sắc, không cống hiến bất cứ gì hảo hạng ngoại trừ tính toàn diện, và cả thực tế là nó mô tả những gì xảy ra cho các bạn trẻ mà tôi quen biết.
Đĩa hát tiếp theo mang đến một quãng thời gian giải lao thú vị. Nó bắt đầu khi Cato tuyên bố,
Đây là nhạc hiệu của chúng tôi.
Các hợp âm đầu tiên vừa vang lên, Monica đã nhảy đến trước máy quay đĩa để bảo vệ nó theo đúng cách một con hổ mẹ bảo vệ đàn con của mình. Tôi không hiểu cô định làm gì, nhưng các bạn trẻ khác thì biết, vì họ đã nhận ra khúc nhạc ấy và phá lên cười giễu cợt. Hiển nhiên sự trêu chọc nhắm vào tôi, và rốt cuộc tôi cũng vỡ lẽ. Bài hát ấy là
Lucy in the Sky with Diamonds
, và nó cũng có vẻ vô hại như lần đầu tôi được thưởng thức.
Savonarolad[119] của chúng ta sẽ đập nát cái này cho mà xem,
Monica cảnh báo Costa Silva. Rồi, như thể chưa hề có cuộc tranh cãi trong căn nhà tròn, cô xoay người hôn lên má tôi, và bất chấp cơn giận lúc nãy, tôi vẫn muốn tiếp tục trông nom cô.
Sau bữa ăn tối chóng vánh, chúng tôi nghe nhạc cho tới tận nửa đêm, rồi tôi nói,
Các sĩ quan này phải về doanh trại, chúng ta cũng phải ngủ một chút,
nhưng đại úy Teixeira nói,
Trời mưa thế này thì chúng tôi không thể bay khỏi đây được,
còn hai cô gái kêu lên,
Ai cần ngủ chứ?
Tôi nhìn bà Gridley, bà nhún vai nói,
Ngày mai không ai bận công việc gì mấy,
vì vậy chúng tôi nán lại, Joe mải mê lục tủ sách của ông Gridley để tìm kiếm thông tin về linh dương đen, rồi khoảng ba giờ sáng Costa Silva tình cờ đặt vào máy một ca khúc mới nói về hành xử của các bà nội trợ ở Pompell trong những ngày trước khi núi lửa hoạt động - tên bài này là
The Yard Went On Forever
- và ông bà Gridley đột nhiên nghe rất chăm chú, khi bản nhạc kết thúc, bà Gridley hỏi,
Anh bật lại một lần nữa được không?
vậy là chúng tôi ngồi đó, chín người cả thảy, lần đầu tiên trong đêm tất cả cùng hiểu một giai điệu chung.
Bài này hay lắm,
bà Gridley phát biểu.
Bài nào cũng hay,
Monica nói.
Tôi cho hẳn là thế,
bà Gridley tán thành.
Giá tôi hiểu được cái thứ inh ỏi ấy, chắc tôi sẽ thấy nó hay thật.
Bà là một phụ nữ cứng cỏi, quen thuộc rừng rậm và sa mạc, và cứ hễ liên quan đến châu Phi là bà lại có giác quan thứ bảy. Hướng ánh mắt về phía Cato, bà nói,
Tôi đồ hai chúng ta có thể nghe cùng loại nhạc, giả sử có bao giờ tai chúng ta hòa điệu được với nhau.
Không phải trong thế kỷ này,
Cato đáp.
Tôi không nghĩ đến thế kỷ này,
bà nói.
Tôi đã năm mươi hai tuổi rồi và sẽ chết trong hai mươi năm nữa. Cậu hai mươi hai và sẽ chết trong năm mươi năm nữa. Có vẻ như chúng ta xong thế hệ của chúng ta rồi, nhưng chúng ta có thể hy vọng là đến năm 2050 điều hợp lý nào đó sẽ được thực hiện.
Bà cho rằng sẽ thế sao?
Cato hỏi.
Không. Thế thì quá sớm. Nhưng chúng ta có thể lấy đó làm mục tiêu chung.
Bà rơm rớm nước mắt khi đến lúc hôn từ biệt Monica. Hai sĩ quan Bồ Đào Nha đã thiếp ngủ trên trường kỷ và một trong hai chiếc ghế tựa lúc chúng tôi rời khỏi đó, còn trên đường băng máy bay của họ vẫn đậu dưới mưa.
Từ bây giờ sẽ chẳng còn mấy khách tham quan,
bà Gridley vừa nói vừa quan sát bầu trời. Bà hỏi chúng tôi định đi đâu. Tôi đáp,
Quay về Geneva,
còn Gretchen nói,
Con tàu Hy Lạp cập cảng Casablanca và đêm hôm nọ chúng cháu đã quyết định sẽ đi Marrakech.
Đó không phải nơi thích hợp với Monica,
bà Gridley nói, nhưng Gretchen thông báo,
Anh Joe phải giải quyết một vài vấn đề với hội đồng tuyển quân ở đó.
Khi chuẩn bị lên đường, Cato bắt tay ông bà Gridley nói,
Đây là chặng dừng chân tuyệt nhất ở châu Phi,
và bà Gridley đáp lại,
Thật hữu ích, được nói chuyện với một thanh niên có thể thể hiện bản thân mình giỏi như vậy. Có thể đến khi cậu chết, tình hình sẽ sáng sủa hơn một chút... không nhiều lắm... nhưng cũng một chút.
Cato nói,
Kể cũng lạ. Ở châu Phi tôi đã gặp người Bồ Đào Nha và Boer, các thẩm phán Anh, thánh nhân Ả rập, thủy thủ Mỹ, và đầu bếp Tàu. Nhưng tôi chưa gặp một người da đen chết tiệt nào... tức là, qua giao tiếp xã hội.
Họ vẫn chưa sẵn sàng lộ diện,
bà Gridley nói.
Họ sẽ sẵn sàng thôi,
Cato tiên đoán.
Chuyến thăm Moçambique đáng lẽ phải kết thúc bằng vẻ đẹp của đàn linh dương đen hay không khí thân mật trong đêm nghe nhạc tại nhà ông bà Gridley, nhưng thực tế lại không phải vậy.
Khoảng năm giờ sáng, tôi tỉnh giấc vì bị lay mạnh và bởi giọng hoảng hốt của Joe.
Ông Fairbanks! Chúng tôi cần ông! Cato có chuyện.
Cậu ấy đã làm gì?
Cậu ấy đã chích vào tĩnh mạch. Tôi e cậu ấy sắp chết.
Tôi vội mặc quần vào rồi phóng sang căn nhà tròn phía bên kia bãi cỏ. Tôi lao qua Monica lúc này đang đứng trên ngưỡng cửa vò đầu bứt tai, nhìn chằm chằm vào khoảng không với đôi mắt trống rỗng. Gretchen thì vừa khóc vừa cúi xuống giường đắp khăn lạnh lên vầng trán đẫm mồ hôi của Cato.
Trời ơi, anh ấy sắp chết rồi!
cô khóc nức nở, và tôi có thể thấy những cơn co giật khủng khiếp đang hành hạ thân xác anh.
Việc đầu tiên tôi làm là chộp lấy cánh tay trái anh rồi nhìn vào mạch máu, và bằng chứng hiện lên rõ rành rành. Ngay cả trên làn da sẫm màu của anh, một chấm nhỏ hơi sưng vẫn cho thấy dấu vết của một mũi tiêm dưới da. Bất chấp lời hứa với Joe và cam đoan ngạo nghễ với tôi, anh lại làm chính điều anh đã thề sẽ không bao giờ làm. Tôi ngước mắt lên, và Gretchen nói,
Monica quấy rầy anh ấy hơn một giờ. Bạn ấy bảo sẽ không sex siếc gì nữa nếu Cato không theo kịp bạn ấy. Từ trong nhà chúng cháu vẫn nghe thấy tiếng bạn ấy la hét.
Tôi quay lại nhìn Monica, lúc này vẫn run rẩy cạnh cửa, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi những muốn lay gọi cô, đưa cô ra khỏi thế giới tối tăm đáng sợ đó, làm cho cô nhận thức được hành động kinh khủng của cô.
Tôi quay lại với Cato, anh đã bắt đầu một loạt cơn co rút dữ dội, mà bất cứ cơn nào cũng có thể chấm dứt bằng cái chết. Có vẻ như anh đã tiêm một liều độc hại, và tôi cũng đâm hoảng sợ không kém các bạn trẻ. Tôi ra hiệu cho Joe và bảo anh,
Tốt hơn cậu nên mời bà Gridley đến. Chuyện này chúng ta không đủ khả năng xử lý đâu.
Joe chạy đến ngôi nhà nhỏ của ông trưởng trạm và quay về cùng với bà Gridley, mang theo cả đồ sơ cứu. Bà tiến thẳng đến bên giường và bắt đầu kiểm tra tình trạng của Cato,
Cậu ấy sắp chết rồi!
bà khiếp sợ kêu lên.
Cậu ấy đã làm cái quái gì thế này?
Bà quan sát tay anh và thấy vết chích vào mạch máu chính.
Dìu cậu ấy đi quanh xem,
bà hướng dẫn Joe và tôi.
Làm như vậy có thể không đúng cách, nhưng chàng trai này sắp chết rồi, ít nhất nó cũng có thể khôi phục khả năng tuần hoàn máu.
Vậy là chúng tôi vực anh ra khỏi giường, quàng hai tay anh qua cổ chúng tôi và dìu anh đi tới đi lui. Anh không nặng lắm vì trọng lượng không vượt quá mức, và một lúc sau anh đã bắt đầu thở sâu được.
Đến rạng sáng, có vẻ như anh sẽ qua khỏi, vì vậy chúng tôi nhẹ nhàng đặt anh trở lại giường. Chỉ lúc ấy chúng tôi mới nhận thấy Monica đã ngủ ngon lành trên sàn nhà. Trông cô giống như chú mèo con chơi đùa đã mệt, và Joe giúp bà Gridley nâng cô lên đặt nằm bên cạnh Cato. Nhưng trong lúc dém chăn quanh khuôn mặt xinh đẹp xanh xao của cô, người đàn bà Scotland nói,
Đáng tiếc cô ta không phải người nhận liều thuốc chết người ấy.