• 1,742

XII - Chương 16


Số từ: 7893
Thể loại: Tiểu Thuyết Hư Cấu
Người dịch: Nguyễn Thị Bạch Tuyết
NXB Văn Học
Thanh tra cảnh sát Ahmed là một sĩ quan to xương, nước da ngăm đen, từng phục vụ trong lực lượng an ninh địa phương từ hồi Tangier còn là một thành phố độc lập không thuộc bất kỳ quốc gia nào. Thời ấy đó là nơi phức tạp nhất thế giới, bị một hội đồng lãnh sự ngoại quốc cai trị bất chấp đạo lý; dàn xếp một vụ án mạng ở Tangier còn dễ dàng hơn hối lộ để thoát khỏi vé phạt vi phạm an toàn giao thông ở Chicago. Ma túy, giấy tờ giả, tống tiền, bán dâm do bị cưỡng ép và in ấn hộ chiếu giả là những nét đặc trưng được thừa nhận công khai, và thanh tra Ahmed đã làm tất cả những gì có thể để giữ tình trạng đồi bại đó trong giới hạn.
Lúc này Tangier đã là một phần của Marốc, và nhiệm vụ của ông cũng nhẹ nhàng hơn, nhưng không đáng kể.
Nếu là ngày xưa,
ông nói khi chúng tôi đã ngồi trong văn phòng của ông,
có lẽ cô ấy đã bị đưa qua biên giới vào một nhà chứa quản lý nghiêm ngặt rồi. Ngày nay chuyện như vậy không xảy ra nữa. Thông tin chúng tôi tìm hiểu được là thế này. Cô ấy chưa rời khỏi Tangier bằng máy bay và cũng không bị ai bắt gặp trên phà tới Algeciras hay Malaga. Cô ấy phải ở đâu đó trong thành phố này. Vì vậy các ông đừng lo lắng.
Ông không phải người đa cảm, không trấn an chúng tôi là mọi việc rồi sẽ ổn, nhưng ông làm chúng tôi tin rằng nếu có thể tìm thấy Monica, nhất định ông sẽ tìm thấy.
Ngày thứ nhất ông không làm được gì, gần như mọi công việc tìm kiếm hiệu quả đều phải nhờ đến Big Loomis, vốn là người hiểu biết khá rõ về Tangier và quen biết khá nhiều. Chúng tôi lang thang từ quán bar này sang quán bar khác, hỏi han bất cứ khách quen nào từng nhìn thấy cô gái Anh, và xác định được cô đã dành đêm đầu tiên tại thành phố này để dạo một vòng các quán bar nhỏ cùng với một người đàn ông không phải kẻ đã đưa cô tới Tangier. Hình như cô đã tình cờ quen hắn trong thành phố này, nhưng không người nào từng gặp có thể nhận ra hắn.
Chúng tôi sục sạo khắp quảng trường Zoco Grande nhưng không thấy dấu vết nào của Monica nên đành băng qua các ngõ hẹp để ra Zoco Chico, một quảng trường nhỏ, được bao quanh bởi các quán bar vốn là chốn tụ họp của dân hippy Tangier. Chúng tôi hỏi thăm các bạn trẻ thuộc đủ mọi quốc tịch và ăn mặc đủ mọi kiểu quần áo xem họ có trông thấy Monica không, thế rồi hai cô gái Thụy Điển trông có vẻ như hàng tháng trời chưa tắm nói rằng họ đã gặp Monica trong một quán trọ tồi tàn tên là Lion of Morocco. Với tiền công năm mươi xen họ dẫn chúng tôi đi qua một loạt ngõ ngách bẩn thỉu đến một tòa nhà xiêu vẹo. Cửa sổ tầng trên của tòa nhà trông xuống cảng, và trong khi chúng tôi đứng chăm chú nhìn xuống cảnh tượng đã từng khiến du khách bao đời nay xốn xang, một người Ả rập mắc bệnh suyễn leo lên cầu thang để đón chào chúng tôi.
Có đấy,
ông ta thừa nhận,
tôi có cho cô gái Anh trọ ở đây. Một đêm. Đúng, cô ấy ở cùng mấy thanh niên Marốc và ngay ngày hôm sau họ đã rời khỏi đây.

Tất cả chỉ có thế. Chúng tôi vội vã quay lại sở cảnh sát để báo cho thanh tra Ahmed, nhưng chính ông ta mới là người có tin mới cho chúng tôi.
Chúng tôi đã tìm được cô ấy,
ông nói.
Nhưng tôi phải báo trước là tình trạng sức khỏe của cô ấy rất xấu.


Đã có chuyện gì vậy?
Cato hỏi.

Không có gì bất thường cả. Suy dinh dưỡng, ma túy. Cô ấy đang nằm trong bệnh viện.

Ông dẫn chúng tôi tới vùng ven thành phố, tại đó, trên một vách đá trông xuống vịnh Tangier vô song, một nhóm nữ tu Cơ Đốc vẫn ở lại trông nom một bệnh viện phục vụ cho cái đất nước hầu như đã đuổi giáo hội của họ đi. Mẹ bề trên đón tiếp chúng tôi với sự niềm nở y như thái độ của các bà xơ khi tiếp xúc với người theo tôn giáo khác, nhưng bà không lạc quan về Monica.

Cô gái này ốm thập tử nhất sinh,
bà báo trước khi chúng tôi đến gần phòng bệnh.
Chỉ một người vào thì hơn.

Chúng tôi nhìn nhau và nhất trí để Cato đi gặp Monica, nhưng anh chưa kịp vào, thanh tra Ahmed đã đưa ra một quyển hộ chiếu Anh:
Tôi đoán đây đúng là cô gái đó.
Cato cầm tấm hộ chiếu mở ra, rồi thở dài não nề khi nhìn thấy khuôn mặt thon gầy quý phái của Monica đang mỉm cười với anh.

Đúng là cô ấy,
anh thốt lên, vậy là bà xơ dẫn anh vào phòng, nhưng chỉ vài giây sau anh đã quay lại, khuôn mặt nhăn nhó:
Không phải Monica!

Ông Ahmed và tôi băng qua mẹ bề trên chạy vội vào phòng bệnh, nhìn thấy trên giường là một cô gái tóc vàng khoảng hai mươi tuổi trông không giống Monica chút nào. Chúng tôi đoán cô là người Thụy Điển, nhưng với tình trạng sức khỏe tồi tệ của cô có thể thấy rõ chúng tôi chẳng thể hỏi han gì được. Thực ra, thoáng nhìn thấy quai hàm cô trễ xuống, tôi còn chẳng biết cô sẽ sống được bao lâu nữa.
Chúng tôi leo lên xe của ông Ahmed phóng về quán trọ Lion of Morocco, được ông chủ ho hen cho hay tuần vừa rồi có mấy cô gái Thụy Điển đã trọ ở chỗ ông ta, nhưng ông ta không biết gì về họ cả. Có thể là một người trong số đó đã lấy cắp hộ chiếu của cô gái Anh, nhưng khả năng này không lớn lắm vì theo như cảnh sát xác minh, nhà trọ ông ta trông nom khá tử tế.
Cato đề nghị quay lại quảng trường Zoco Chico để xem liệu có gặp được hai cô gái Thụy Điển lúc trước đã cho biết Monica từng trọ ở Lion of Morocco không, và chúng tôi tìm thấy họ ở đó, đang ngồi tắm nắng trước cửa một quán bar.
Trong nhóm các cô có ai mất tích không?
ông Ahmed hỏi theo đúng nghiệp vụ, và hai cô gái bắt đầu điểm danh qua loa đám bạn, nhưng hiển nhiên họ đã ăn bánh hashish và chẳng tập trung vào việc gì được, vì vậy ông Ahmed đẩy họ lên xe để đưa đến bệnh viện, nhưng khi chúng tôi đến đó, mẹ bề trên thông báo,
Cô ấy chết rồi.

Ông Ahmed gạt thông tin đó đi như thể không quan trọng, và dẫn chúng tôi tới nhà xác, nơi cô gái chúng tôi mới gặp chưa đầy một tiếng đồng hồ trước đang nằm cứng đơ dưới một tấm vải, chỉ để lộ khuôn mặt: hốc hác, bệnh hoạn, vô hồn. Hai cô chỉ cần nhìn thoáng qua:
Đây là Birgit.


Birgit gì?


Từ Uppsala tới.


Nhưng họ của cô ấy là gì?


Birgit người Uppsala.

Thanh tra Ahmed giật tấm vải ra, xem xét tĩnh mạch ở cánh tay, miết vào lớp mô đầy sẹo đã bị hành hạ quá mức, bình thản nhìn chúng tôi, đoạn đắp tấm vải lại.
Heroin,
ông nói.
Trên đường về trung tâm thành phố, tôi thấy Cato run lên bần bật nên quay sang định an ủi, nhưng anh ngoảnh mặt đi và ngồi tránh xa tôi. Chúng tôi về đến phòng khách sạn, anh ngồi sụp xuống ghế, hai tay ôm đầu, mắt chăm chăm nhìn xuống sàn, lẩm bẩm,
Lạy Chúa, hãy để chúng con tìm được cô ấy... mau chóng.


Ông có ý kiến gì không, ông Loomis?
tôi hỏi.

Một. Ở quảng trường Zoco Chico, tôi quen một người phục vụ quán bar. Hắn chỉ làm việc ban đêm và là con người đồi bại nhất Bắc Phi. Giờ hãy chợp mắt một chút đi, vì hắn là hy vọng cuối cùng của chúng ta.
Mười giờ đêm hôm đó chúng tôi đi xuống đồi tới quảng trường Zoco Chico, thấy đèn đuốc sáng trưng và khách du lịch nườm nượp. Nó không khác gì một quảng trường ở thành Baghdad cổ kính, hoặc ở Damascus hiện đại, hoặc ở Cairo cả trăm năm trước, chỉ khác một điều là năm nay nó đông nghịt những kẻ trôi dạt từ khắp mọi nơi trên thế giới, đa số là sinh viên manh nha ý định đến thăm Marrakech nhưng sẽ không bao giờ đi xa hơn Tangier. Họ không mấy ưa nhìn vì phần lớn đều mắt u tối, đầu tóc bù xù, dáng đi mệt mỏi, như thể họ là những ông bà già hơn sáu mươi tuổi chẳng còn gì để trông đợi ở cuộc đời chứ không phải lớp người tràn trề hy vọng đang độ tuổi mới lớn.
Big Loomis tiến thẳng đến quán bar cần tìm, bước vào văn phòng phía trong, và một lát sau quay ra cùng một người hầu bàn không xác định được tuổi tác; anh ta chắc hẳn chưa quá ba mươi lăm nhưng trông như bảy mươi, vì đã toàn phần sa đọa, và tôi lấy làm lạ là anh ta vẫn giữ được việc làm. Tuy nhiên, khi nói, anh ta lại tỏ ra linh lợi và có sức thuyết phục:
Thưa các ông, các ông tìm đến tôi là đúng người đúng việc rồi đấy. Anh bạn Big Loomis của tôi là người có thể tin cậy được và tôi có tin tốt lành cho các đối tác của anh ấy đây.
Anh ta hạ giọng, len lét đi đến bên chúng tôi và thì thào qua hàm răng đen xì,
Hoa ở Lebanon chưa bao giờ thơm hơn.


Gì cơ?
Cato hỏi.

Từ Lebanon, đậm đà không gì sánh được,
anh ra nháy mắt nói.

Gì cơ?
Cato hỏi một lần nữa.

Cần sa!
anh ta gắt.
Cần sa chất lượng từ Beirut.


Kasim,
Big Loomis lên tiếng, quàng tay qua vai người hầu bàn,
việc chúng tôi quan tâm đêm nay là chuyện gì đã xảy ra với một cô gái Anh, Monica Braham.
Kasim không để lộ dấu hiệu nào cho thấy đã hiểu, nhưng Loomis đã nói tiếp,
Cô ấy là cô gái danh giá nhất đấy. Mười bảy tuổi. Con gái Ngài Charles Braham, London.


Và Vwarda,
Kasim nói, nét mặt không hề thay đổi.

Cùng là một người thôi,
Loomis nói.
Và tối nay chúng tôi sẽ điện thoại cho Ngài Charles. Ngài sẽ vô cùng quan tâm đến nơi ở của con gái.


Ngài sẽ trả công cho những thông tin hữu ích chứ?
Kasim hỏi.

Tôi sẽ trả,
tôi cắt ngang.
Nhẹ cả người khi tìm được một người Mỹ có tiền nhận trách nhiệm, Kasim nói,
Tôi không biết gì về cô gái này. Con gái Anh phải không? Chính các ông cũng thấy rồi đấy. Có hàng trăm. Nhưng tôi sẽ hỏi cho.


Chúng tôi cũng chỉ mong có thế,
Loomis nói để làm yên lòng anh ta.
Chúng tôi ngồi vào một bàn bên lề đường, và trong khi Kasim đứng bên cạnh như thể chỉ đơn thuần là một bồi bàn, chúng tôi kể cho anh ta nghe tất cả những gì mình biết, nói tên hai nhà trọ mà Monica đã nghỉ lại và tên cô gái Thụy Điển xấu số đã sử dụng hộ chiếu của cô. Nghe xong những thông tin này, Kasim biến mất.
Trong lúc chúng tôi chờ anh ta về, Big Loomis cố hết sức giải khuây cho chúng tôi bằng cách tuyên bố ông ta có thể tính được mỗi người nước ngoài đi qua đã ở Tangier bao lâu. Người Đức với bước đi nhanh nhẹn và đôi mắt say mê tìm hiểu kia mới đến trong tuần này. Người Anh với bước chân lần chần và vẻ mặt đờ đẫn đã ở đây hơn một tháng rồi. Người Mỹ đang lê chân đi, mắt liếc ngang liếc dọc, đầu tóc không chải và quần áo không giặt, đã ở đây nửa năm. Và một vài người khó nhận dạng có thể đến từ bất cứ nơi đâu - California, Thụy Điển, Sydney, Vancouver - là những khách quen sẽ không bao giờ bỏ đi chừng nào còn gom được tiền từ một người họ hàng nào đó. Trong đám cuối cùng này, Loomis nói, phần đông là kiều dân sống bằng tiền trợ cấp từ Anh hoặc Pháp, và một vài người trong số đó đã nhận ra ông da đen to béo mà tự bản thân xét về mặt luật pháp cũng là một kiều dân được gia đình chu cấp, vậy là bọn họ đến ngồi cùng, thông báo cho chúng tôi biết mọi việc ở Tangier không còn tốt đẹp như bốn năm trước nữa.
Khi nghe nói lý do chúng tôi ở đây, họ không hề tỏ ra quan tâm đến sự biến mất của một cô gái Anh; việc này xảy ra quá thường xuyên và họ đã nhận ra cách khôn ngoan nhất là tránh xa những rắc rối như vậy, bởi vì nếu anh không làm thế, chắc chắn cô gái chết tiệt đó cuối cùng sẽ chình ình trong căn hộ của anh, còn anh lại bị cha mẹ cô ta buộc tội quyến rũ cô gái. Tức giận trước thái độ thờ ơ như vậy, Cato nói,
Đừng có hờ hững như vậy nữa đi,
nhưng anh bạn người Anh hỏi,
Cô ấy là bạn gái anh à?
và khi thấy Cato gật đầu, anh nói tiếp,
Chắc chắn cô ấy ở với người khác rồi, anh có thể làm được gì chứ?
Cato nói,
Đồ chó đẻ, cô ấy có thể đang hấp hối đấy,
nhưng anh bạn người Anh buông một câu,
Chẳng phải tất cả chúng ta cũng đang như vậy sao?
Cato định tát anh ta, nhưng Big Loomis nói,
Bình tĩnh nào. Có thể chúng ta phải ở đây mấy ngày nữa đấy.
Như để xác nhận cho kết luận đó, Kasim quay về lúc hai giờ sáng với một tin đáng buồn,
Không ai biết cô ấy đang ở đâu.

Cú điện thoại của chúng tôi cho Ngài Charles Braham ở Sussex không hề hiệu quả. Ông không có nhà... đã đi tham dự một cuộc hội nghị nông nghiệp nào đó; và trong lúc chờ cô trực máy hoài công cố tìm ông, tôi ngẫm ra rằng mỗi lần con gái ông gặp khó khăn ông đều vắng mặt. Chúng tôi không thể trông chờ gì vào sự giúp đỡ của ông nữa.
Cả ngày hôm sau, chúng tôi lần theo những đầu mối không hiệu quả và khi đêm xuống lại đến quảng trường Zoco Chico, nhưng Kasim không đi làm. Loomis hỏi thăm xem anh ta ở đâu, nhưng ông chủ đáp, vẻ vô vọng,
Với Kasim thì ai mà biết được?
May là chúng tôi chịu khó chờ, vì sau nửa đêm anh chàng tinh ranh ấy xuất hiện, mặt mũi hớn hở.
Tôi tìm được cô ấy rồi! Cảnh sát không làm gì được, nhưng tôi lại tìm được đấy.

Chúng tôi châu đầu lại và anh ta thông báo,
Chuyến này tốn kém lắm. Tôi phải sai một thằng bé đến tận Chechaouèn.
Nghe nhắc đến thị trấn cổ xưa trên vùng đồi này, Big Loomis liền huýt sáo vì nó ở phía Đông Nam Tangier, cách khá xa, và không thể giải thích nổi làm sao một cô gái Anh lại đến đó được.
Cato là người đầu tiên lên tiếng.
Chúng tôi đi xe đến đó được không?


Tôi thấy các vị nên làm thế,
Kasim đáp.

Ý anh là gì?

Kasim nhìn Cato, rồi nhìn tôi.
Có lẽ tôi nói chuyện với quý ông này thì hơn,
anh ta đề nghị và dẫn tôi ra phía sau quán cà phê.
Tin tức không được sáng sủa lắm,
anh ta thì thầm.
Hai thanh niên ở đây làm quen với cô ấy... cho bảy đứa bạn mượn tạm cô ấy... hết đứa này đến đứa khác. Sau đó bọn chúng đưa cô ấy đến một vùng quê ở Chechaouèn. Cô ấy trở nên rất yếu, vì vậy bọn chúng bỏ trốn.
Anh ta dừng lại, rồi bổ sung một mẩu tin mà anh ta biết là sẽ tóm tắt được vụ này nhưng lại quá dữ dội để có thể chia sẻ với Cato.
Thằng đàn em của tôi nói qua điện thoại, ‘Bọn chúng hiếp cô ấy tám chín lần một ngày nhưng lại không cho cô ấy bất cứ thức ăn gì.’

Khi chúng tôi báo cho thanh tra Ahmed biết Monica đang ở đâu, ông liền trưng dụng một chiếc xe hòm công vụ, cho ba người chúng tôi lên, và lao theo hướng Đông về phía Tétouan, thị trấn đã được Tây Ban Nha đặt tên lại một cách khoa trương thành Tetuán-de-las-Victorias để kỷ niệm một cuộc đụng độ vặt vãnh nào đó. Rạng sáng hôm sau, chúng tôi đến đó và rẽ về hướng Nam đi dọc con đường uốn khúc đưa chúng tôi lên vùng đồi thấp ở chân núi Atlas. Trời đã sáng bạch chúng tôi mới tới Chechaouèn, một trạm dừng chân cổ xưa cho khách bộ hành nằm lọt thỏm trong một vòng cung đồi. Chúng tôi lái xe vào gần bãi chợ và được cảnh sát địa phương đón sẵn, họ ngay lập tức tiến hành tìm kiếm cậu bé đàn em của Kasim. Cậu ta đang ở trong một quầy hàng, và khi xuyên qua cái chợ hình dáng chẳng theo một quy chuẩn nào hết ấy, chúng tôi tưởng như mình đang ở tại một thành phố nào trong Kinh Thánh hai nghìn năm trước. Ngay trang phục của những người Ả rập đang mở cửa quầy hàng cũng không thay đối, tập quán của họ không hề bị thế giới hiện đại tác động vì đây là một thành phố với những lợi ích tôn giáo vô cùng lâu đời, và quan điểm hiện đại không được chào đón.
Người dẫn đường cho chúng tôi là một cậu bé mười lăm tuổi, được Kasim đào tạo trong thế giới ngầm của Tangier, và am tường về những thói tật có thể thành ra hữu ích. Trong lúc đưa chúng tôi qua bãi chợ tiến vào một khu phố cổ, một khu vốn hàng bao thế kỷ nay vẫn là cấm địa với người ngoại đạo, cậu ta lựa chọn tôi là người có nhiều khả năng đứng đầu nhóm và thổ lộ,
Con gái ông yếu lắm. Có lẽ chúng ta nên mời bác sĩ.

Tôi định nói mình không phải cha cô, nhưng rồi lại quyết định không làm mọi việc rắc rối thêm.
Thế thì tìm bác sĩ nào đang rảnh đi,
tôi bảo, và cậu ta đưa chúng tôi đi vòng một đoạn ngắn đến nhà một bác sĩ trẻ vốn được đào tạo ở Casablanca, bây giờ được cử đến Chechaouèn phục vụ ở bệnh viện công. Anh nói tiếng Pháp rất giỏi và hỏi ai trong chúng tôi bị ốm. Khi cậu bé dẫn đường giải thích là con gái tôi đang trong tình trạng tệ hại, anh nghiêm trang gật đầu nói với tôi,
Ở Casablanca, chuyện như vậy không hiếm. Phần lớn là con gái Thụy Điển.

Cậu bé dẫn chúng tôi qua một vài ngõ ngách hết sức chật hẹp, tôi hỏi anh bác sĩ,
Mọi thứ ở đây không mấy thay đổi trong hai nghìn năm nay, phải không?
Anh buồn bã lắc đầu.
Đây là vùng đất phía sau của Marốc. Và mọi thứ sẽ vẫn không thay đổi trong hai nghìn năm nữa.
Chúng tôi dừng lại trước cửa một ngôi nhà nhỏ vách đất chắc ít nhất cũng hai trăm năm tuổi, và tôi tự dưng cảm thấy bi thương tột độ khi nghĩ rằng Monica đã đi đến nước phải ở một nơi tồi tàn như thế này. Tôi đang định bước vào thì anh bác sĩ ngăn lại,
Để tôi vào trước thì hơn,
đoạn anh đi theo cậu bé vào trong.
Trong khi mọi người lo lắng đứng chờ ở ngoài, tôi có thể thấy Cato đã căng thẳng sắp gục đến nơi. Tất nhiên là đối với thanh tra Ahmed, Monica chỉ đơn thuần là một cô gái Âu châu nữa mà ông cần theo dấu; nếu hôm nay tìm được cô rồi, ngày mai ông sẽ lại phải lên đường kiếm một người khác thôi.
Lúc này anh bác sĩ đã đi ra, vẻ mặt rất trang nghiêm, và nói,
Tốt hơn cả là một người trong các vị vào đây với tôi.
Tôi dợm bước tiến lên nhưng Cato, đầu vẫn đội cái mũ fez đỏ, chen lên trước tôi và biến vào sau cánh cửa nhỏ. Ngay sau đó chúng tôi nghe thấy tiếng kêu thất thanh - một tiếng rú đau khổ tột cùng. Ahmed lao vào trong nhà, nhưng tôi chưa kịp chạy theo thì Cato đã xuất hiện trong hành lang tối, trên tay là xác Monica.
Cô đã chết, chân tay thõng thượt, teo tóp như cành cây khô héo, mái tóc đen rối bù bao quanh khuôn mặt từng một thời xinh đẹp. Cánh tay trái của cô để lộ vét lở loét ghê sợ và quen thuộc mà tôi đoán rốt cuộc đã gây ra cái chết của cô.
Anh bác sĩ lắc đầu với vẻ phẫn nộ của người trong nghề,
Chỗ áp xe này chữa trị đơn giản lắm.
Anh nhìn Cato và tôi,
Các ông có ai để ý đến mặt cô ấy không? Màu da ấy? Đó là nguyên nhân cái chết đấy. Viêm gan vi rút. Chắc chắn cơ thể cô ấy đã ủ bệnh nhiều tuần nay rồi và có thể đã bùng phát dữ dội do thiếu dinh dưỡng.


Cô ấy đã chết?
thanh tra Ahmed hỏi theo đúng nghiệp vụ.
Cô ấy không bị giết chứ?


Cô ấy đã chết.


Vậy là chúng ta không phải đối mặt với vấn đề luật pháp,
thanh tra Ahmed nói, tỏ ra không quan tâm đến vụ này thêm nữa.

Cô ấy mắc bệnh viêm gan như thế nào?
tôi hỏi.

Nhiễm trùng dưới da. Rất nhiều thanh niên tự kết liễu đời mình bằng cách này.
Anh bác sĩ quay lại đối diện chúng tôi:
Có ai dùng chung kim tiêm với cô ấy sáu tuần... bảy tuần trước không?
vẫn bế cái xác trên tay, Cato đờ đẫn lắc đầu.
Anh bác sĩ nhổ nước bọt xuống đất, nói,
Bi kịch nằm ở chỗ, nếu bất cứ ai trong các vị biết cách xử lý đúng đắn, cô ấy có thể được cứu sống dễ dàng.

Đến lúc chúng tôi phải trở lại Tangier thì mới nảy sinh vấn đề xử lý cái xác của Monica như thế nào, và thanh tra Ahmed gợi ý,
Chúng ta sẽ để cô ấy trong thùng xe,
nhưng khi cái chỗ chứa tối om đó được mở ra, Cato phản đối dữ dội,
Không! Cô ấy sẽ ngồi cùng chúng ta.
Ông Ahmed nhún vai nói,
Thế thì bất tiện lắm đấy.

Cato cởi áo sơ mi ra bọc quanh người Monica, rồi chúng tôi lên xe, đặt xác cô nằm trên đùi chúng tôi, đầu cô tựa vào ngực Cato.
Khi chiếc xe tăng tốc chạy dọc con đường dẫn về Tangier, tôi giả bộ không nhận thấy là Cato, co rúm lại trong một góc, hai tay vòng quanh vai Monica, đang lặng lẽ khóc. Đôi vai thỉnh thoảng rung rung của anh đã để lộ cảm xúc trong lòng, và tôi nghĩ những trải nghiệm tình yêu của anh mới cay đắng làm sao: Vilma bị đấm đá đến chết, một cách vô nghĩa, trên đường phố Philadelphia; Monica chết ở Marốc vì một mũi tiêm dưới da nhiễm trùng, trong khi ngay cả sự quan tâm thông thường nhất cũng sẽ ngăn ngừa được chuyện này. Trong khi tiếp tục trông chừng anh, tôi có cảm giác Cato chính là đại diện cho thế hệ của mình, dũng cảm xây dựng những lối ứng xử mới nhưng lại không có khả năng tự bảo vệ trước những tấn bi kịch xưa nay không ai tránh khỏi.
Động lòng trắc ẩn, tôi giơ tay chạm vào người anh, nhưng anh phản ứng như thể bị đánh.
Đừng có đụng vào tôi!
anh thét.
Tôi không cần người da trắng thương hại,
và tôi nói với anh,
Tôi đâu có chìa tay ra với tư cách một người da trắng.
Trên hàng ghế trước, Big Loomis làu bàu,
Bình tĩnh lại đi.

Cato hơi xoay người nhìn tôi, chiếc mũ fez đỏ lệch sang một bên, đôi mắt đen đẫm lệ. Tôi tin anh đang muốn nói câu gì đó để giảng hòa. Anh muốn đáp lại cử chỉ thân thiện của tôi, vì tay anh đã rời khỏi vai Monica mà bắt đầu với lấy tay tôi, nhưng ngay lúc đó nỗi sầu bi lại ập đến khiến anh gục xuống run lên bần bật, chẳng buồn che giấu tiếng nức nở nữa. Cứ như vậy, cùng nhau chia sẻ trọng lượng của cô gái xấu số mà cả hai đều yêu quý, chúng tôi quay về Tangier.
Khi chúng tôi đến gần đồn cảnh sát, tôi nhận ra ngay chiếc pop-top màu vàng. Gretchen và Joe chạy ra đón chúng tôi, và chưa kịp nhìn thấy cái bọc trong lòng Cato và tôi, Gretchen nôn nóng hỏi,
Mọi người tìm thấy cô ấy không?


Chúng tôi tìm thấy rồi,
Big Loomis nói.

Britt! Họ tìm thấy cô ấy rồi,
Gretchen reo lên khi Holt và Britta đến gần.
Họ nhìn Cato và tôi, cả hai đều nghiêm trang và im lặng, rồi sau đó, đưa mắt xuống dưới, thấy cái hình hài bất động trong lòng chúng tôi.

Lạy Chúa tôi!
Gretchen kêu thất thanh.
Chuyện gì thế này?


Cô ấy chết rồi,
Cato nói.
Gretchen đưa tay lên bụm miệng, ngây người đứng nhìn trong lúc chúng tôi xuống xe, để lại cái xác nằm duỗi dài trên ghế. Cato và tôi đã đưa Monica về đến nơi; chẳng thể làm gì hơn được nữa, chúng tôi đứng sang một bên.
Thanh tra Ahmed và một cảnh sát nữa quay lại khiêng cái xác ra khỏi xe, coi như một chuyện thường tình, nhưng trong lúc họ làm thế, cái áo sơ mi bị lật lên để lộ khuôn mặt Monica ra trước mắt tất cả những người đang quan sát.

Lạy Chúa!
Joe bật lên tiếng kêu khi nhìn thấy cảnh tượng khủng khiếp đó.
Thanh tra Ahmed nhanh tay che cái áo sơ mi vào chỗ cũ. Nhưng Britta, với thái độ lạnh nhạt, bước tới bên ông Ahmed lúc này đang xốc nách cô gái bạc mệnh, thận trọng níu cái xác lại và cúi xuống nhìn mặt bạn. Monica trông thật ghê rợn, khủng khiếp, mắt mở trừng trừng nhìn chúng tôi, miệng há hốc, lưỡi thè lè. Đây không phải cái chết; đây là một sự nhạo báng không khoan nhượng.

Che cô ấy đi,
Holt nhắc, nhưng Britta đã choàng một cánh tay quanh đầu Monica. Cô âu yếm vuốt mắt và gỡ những lọn tóc rối cho bạn. Cô cúi xuống hôn lên đôi má hóp, rồi quay về phía chúng tôi vừa khóc vừa nói,
Chúng ta đã không giúp được gì cho bạn ấy.
Holt định nói là không ai có thể giúp Monica, nhưng Britta đã áp tay lên miệng anh, rồi ông Ahmed cùng với người của mình khiêng cái xác tới chỗ chiếc hòm gỗ đơn sơ đang đợi sẵn.
Marốc chẳng còn gì hấp dẫn chúng tôi nữa.
Chúng tôi ngồi quanh cái bàn ngoài trời quen thuộc ở quảng trường Zoco Chico, nhận thấy đoàn thanh niên trôi dạt đang diễu qua trước mắt thật đáng sợ và khó coi. Mỗi cô gái mái tóc xõa xượi đều nhắc chúng tôi nhớ đến chuyện đã xảy ra với Monica.
Không ai lên tiếng đề nghị quay về Marrakech, còn ở lại Tangier là việc không tưởng tượng được. Mà ở đây cũng chẳng có gì cần đến chúng tôi nữa. Các nhà chức trách không có ý định truy tìm, nói chi đến việc truy tố, mấy thanh niên Marốc đã đưa Monica đến Chechaouèn vì cô tự nguyện đi theo họ. Còn về tội ngược đãi, chẳng ai có thể chứng minh bọn họ đã thu tiền của đám bạn được họ gọi đến để lợi dụng cô, và thanh tra Ahmed thì sáng suốt suy đoán rằng cha cô, Ngài Charles, sẽ không tha thiết bay đến Tangier để hối thúc một vụ kiện cáo chỉ khiến ông mang tiếng. Ông nói với chúng tôi,
Năm ngoái chúng tôi gặp phải hai mươi chín vụ thiếu nữ tử vong. Y như cô bạn của các vị. Thuộc đủ mọi quốc tịch. Và chỉ có vài ba vụ, cha mẹ họ muốn chúng tôi hoãn việc chôn cất để họ có thể đến kịp. Vụ này coi như khép lại rồi.

Đối với chúng tôi thì không. Vụ này sẽ không bao giờ khép lại. Tôi có thể thấy Gretchen và Britta đều cho rằng mình thật may mắn vì đã gắn bó với người đàn ông che chở cho họ, và tôi nhận thấy cả hai đã xích lại gần người đàn ông của mình hơn. Về phần mình, hai người đàn ông đều hết sức phẫn nộ dù rằng bất lực khi thấy một cô gái yếu ớt như Monica bị ngược đãi đến vậy. Một tên dẫn khách đang đi thơ thẩn, thấy Joe tách ra khỏi nhóm chúng tôi trong chốc lát bèn len lén tiến lại gạ gẫm,
Anh muốn qua cả đêm với em gái tôi không? Rất trẻ, rất sạch sẽ.
Joe giáng cho hắn một đón hiểm vào bụng khiến hắn phải gập người lại vì đau. Ngay lúc đó, tôi lên tiếng,
Chúng ta nên đi khỏi thành phố này thì hơn.

Lúc này Gretchen bất ngờ làm mọi người ngạc nhiên. Nghiêng người qua mặt bàn, cô với lấy tay Joe nói,
Đã đến lúc chúng ta làm những gì cần phải làm rồi. Em tặng anh chiếc pop-top. Hãy tới nơi nào anh phải tới, rồi bán nó đi.

Mọi người im lặng khá lâu. Joe đỏ bừng mặt không nói được lời nào, bối rối trước ý tứ rõ ràng thể hiện trong hành động bột phát của cô. Britta mỉm cười đồng tình. Chỉ có Holt là hỏi một cách thực tế,
Cô sẽ thu xếp giấy tờ chuyển nhượng bằng cách nào?
Tôi gợi ý lãnh sự Mỹ, nhưng Kasim, từ đầu đến giờ vẫn theo dõi cuộc trao đổi của chúng tôi, vội gợi ý,
Tôi có một anh bạn làm thợ in. Với giá mười đô la, anh ta sẽ làm giả giúp cô giấy tờ mua bán hoàn chỉnh... mọi tài liệu đều hợp lý.


Nước nào chuyển sang nước nào?
Big Loomis hỏi.

Ông muốn nước nào cũng được. Đức chuyển sang Thụy Điển, Ai Cập sang Tanzania. Đối với anh ta thì thế nào cũng xong.

Tôi ngạc nhiên thấy Holt chấp nhận ngay.
Chắc là cách tốt nhất rồi. Cô dính vào một lãnh sự Mỹ... không có nhiều thời gian đâu.
Vậy là Gretchen dốc ví đưa ra một lô giấy tờ để Kasim nhét vào túi trong.

Có lâu không?
Gretchen hỏi.

Đối với anh bạn tôi thì trường hợp nào cũng khẩn cấp hết,
Kasim trấn an.
Bốn mươi phút.


Nhanh thế sao?


Ở Tangier... đúng vậy,
Big Loomis nói, nhưng Kasim vẫn chần chừ chưa đi ngay. Quay sang Joe, anh ta hỏi,
Một tấm hộ chiếu thì sao? Có lẽ hộ chiếu đặc biệt?


Bao nhiêu?
Joe cảnh giác hỏi.

Tùy thuộc vào việc chúng tôi có sẵn hộ chiếu nước nào. Nhân tiện tôi muốn hỏi, có ai trong các vị muốn bán hộ chiếu không? Giá cao đấy.

Sợ rằng Joe có thể nghiêm túc tính đến chuyện đổi hộ chiếu Mỹ lấy một tấm khác nhằm tránh bị các quan chức Mỹ phát hiện, Holt từ chối dứt khoát,
Chúng tôi sẽ tiếp tục dùng hộ chiếu hiện thời.


Nếu có vấn đề gì phát sinh,
Kasim nói ngọt xớt,
tôi sẽ quay lại trong bốn mươi phút nữa.


Em có nói nghiêm túc về chuyện chiếc xe không đấy?
Joe hỏi.

Có. Đây là một món quà... cho một thanh niên vô cùng đặc biệt.
Rồi Gretchen nói tiếp bằng giọng dịu dàng,
Một thanh niên đàng hoàng.


Cậu sẽ đi đâu, Joe?
Holt hỏi.

Tối hôm trước tôi có nghe mấy bạn ở khách sạn Bordeaux nói chuyện. Họ bảo thú vị nhất là Shinjuku.


Ý kiến hay đấy,
Holt nói.
Rất nhiều con gái... rất nhiều hoạt động.


Shinjuku ở đâu?
Britta hỏi, vẫn luôn muốn xác định rõ danh tính các nơi chốn.

Ở Tokyo,
Holt đáp.
Khu phố náo nhiệt nhất Tokyo.

Gretchen gợi ý,
Sao anh không đi Ấn Độ? Rất nhiều người đã tìm được lời giải đáp... sự mở mang... ở Ấn Độ.

Big Loomis xen ngang:
Cậu có bị mất trí mới lãng phí bất cứ phút giây nào của cuộc đời ở đất nước ấy. Không có câu chuyện hoang đường nào trong thời đại chúng ta lại nực cười hơn câu chuyện Ấn Độ có lời giải đáp cho bất cứ vấn đề nào.


Tôi đang nói về tính chất tinh thần cơ mà,
Gretchen đối đáp.

Tôi cũng vậy,
Loomis nói.
Tôi đã sống ở Ấn Độ gần một năm... cả ở Sikkim và Nepal... cần sa chất lượng cao... những cuộc chuyện trò tâm đầu ý hợp giữa người châu Âu với nhau. Nhưng sự khai sáng mà các bạn trẻ mơ mộng hão huyền ở Greenwich Village và Bloomsbury nói đến thì... ở đó làm gì có. Đó là một ảo tưởng mà các giáo sư ấm ớ ở các trường đại học Mỹ ấm ớ đưa ra.

Holt xác nhận luận điểm của người đàn ông to béo:
Như Tyrone Power đã lang bạt khắp châu Âu và cuối cùng lưu lạc đến Ấn Độ. Anh ấy chẳng học được gì cả.

Mọi con mắt đều đổ dồn về phía Holt, nhưng anh không chịu nói chi tiết hơn. Joe định hỏi xem Tyrone Power thì liên quan gì tới cuộc thảo luận này, nhưng rồi lại nhún vai và quay về phía Loomis để nghe ông ta nói.
Tôi hiểu rằng các cô cậu đang trải qua một thời kỳ khó khăn... cái chết của Monica... và tôi xin lỗi về những gì sắp nói, nhưng vì chuyện vô lý mà Gretchen mới nói, tôi cho rằng các bạn phải nghe. Khi đặt chân đến Calcutta - cầu Chúa đừng để ai phải gặp chuyện như vậy nữa - tôi đã dự định thực hiện hành trình tìm kiếm sự khai sáng. Tôi đã trải qua ba ngày ở nơi bẩn thỉu kinh khủng đó, với lũ trẻ con đói khát luôn chế nhạo thân hình béo tốt của tôi, với đám đàn ông đàn bà chết ngay giữa đường, với những gia đình tất tật thành viên chỉ sống nhờ một thùng rác, nhưng tôi vẫn có thể bỏ qua tất cả những chuyện đó vì tin rằng chính từ tình trạng khốn khổ như vậy mà đôi khi chúng ta đạt được sự khai sáng. Các lãnh tụ tinh thần vĩ đại tuyệt đối không xuất thân từ các nhà băng hoặc những câu lạc bộ giảng viên đại học. Tôi chấp nhận nhượng bộ bất cứ khi nào có thể và cuối cùng cũng bắt đầu cảm thấy thích thú với không khí chết chóc và kinh hoàng ở Calcutta. Tôi còn thiết lập mối quan hệ với một đạo sĩ khổ hạnh nổi tiếng tự nguyện giảng cho tôi nghe những điều huyền bí của thế giới. Ông ta cao gần mét chín, nặng hơn bốn mươi cân, kể cả bộ râu. Ông ta từng nhìn thẳng vào mặt trời suốt bốn mươi tám ngày không nghỉ và có một sự khiêm tốn nhất định khi đánh giá bản thân, vì đối với trường hợp của tôi ông ta cảm thấy nên trao đổi ý kiến với hai đạo sĩ khổ hạnh khác có vóc dáng y chang và bộ râu dài không kém của ông ta. Ba thánh nhân đó - họ làm việc theo giờ hành chính tại một ngôi làng gần Calcutta, và tính thù lao với giá cắt cổ - phán cho tôi nghe nhiều điều, thỉnh thoảng họ nói năng ngang với trình độ của một giáo viên lớp năm tại một trường tiểu học tốt. Ngay lúc này thì tôi không thể đưa ra thí dụ minh họa được, vì việc dạy dỗ của các thánh nhân đó ít nhiều đã bị vô hiệu hóa bởi hành động mà họ bị bắt quả tang hai ngày trước khi tôi hoàn thành khóa học.

Ông ta dừng lại, chỉ chăm chú nhìn hai cô gái cho đến khi Gretchen hỏi ba người đó đã làm gì.
Tuân theo nghi lễ riêng của các đạo sĩ khổ hạnh, họ đào mộ một bé gái năm tuổi chết đã ba ngày và ăn cái xác.

Không ai nói được lời nào trong một lúc; rồi Britta lên tiếng,
Em nghĩ mình sắp nôn mất,
đoạn chạy biến đi. Gretchen ngồi gõ gõ ngón tay lên mặt bàn, rồi nói,
Bây giờ thì em hiểu đã đến lúc em phải về nhà bắt tay vào việc rồi. Anh sẽ làm gì, Cato?

Anh chờ cho đến khi Britta quay lại, vẻ mặt bối rối và nhợt nhạt, rồi mới đáp, nhấn mạnh từng âm tiết,
Tôi đã không biết mình muốn làm gì... một cách chính xác. Giờ thì tôi biết rồi. Tôi sẽ rời khỏi đây và xin đi nhờ xe sang Ai Cập. Sau đó tôi sẽ xuống Hồng Hải và vượt biển sang Jiddah. Từ đó tôi sẽ bắt đầu từng chặng đi bộ trên con đường đến Mecca, để rồi khi tới nơi tôi sẽ chạy sáu lần quanh viên đá đen vĩ đại, và khi quay về Philadelphia, tôi sẽ đội cái mũ fez mà tự giới thiệu mình là Hajj’ Cato. Tôi sẽ khởi xướng một phong trào, và nó sẽ là một thủ đoạn vĩ đại che chở cho người da đen trong khi đạo Cơ Đốc chống đối họ. Và một khi nó đã được phát động một cách chắc chắn rồi, đồ con hoang các ông nên cảnh giác thì hơn.

Nói xong anh đứng lên, sửa lại chiếc mũ fez và bỏ chúng tôi đi thẳng.
Khi bóng anh đã khuất, Big Loomis trầm ngâm nói,
Ba năm trước tôi đã từng đội một cái mũ fez. Song đừng lo về anh chàng này. Cậu ấy có sức chịu đựng đấy. Khi nào trở về Philadelphia, cậu ấy sẽ gây khó khăn cho người da trắng các ông đấy, cậu ấy là mẫu người da đen mà tất cả chúng ta đều cần đến.

Gretchen nói,
Tôi nhận thấy ông dùng từ da đen,
và Loomis đáp,
Ba năm trước tôi dùng người Mỹ gốc Phi. Tôi đã coi đó là điều quan trọng.

Tôi hỏi người đàn ông to béo xem ông ta định làm gì, và ông ta cho biết,
Có thể tôi sẽ ở lại Marrakech đến chừng nào mẹ tôi vẫn còn có khả năng gửi cho tôi ít tiền còm. Tôi có nhiều việc phải làm ở dưới đó. Thỉnh thoảng tôi có thể giúp các bạn trẻ như Monica và Cato.
Trong bộ lễ phục chỉnh tề đủ các chuỗi hạt, vải dệt tay và giày ống Tây Tạng, ông ta đứng dậy hùng dũng đi lên đồi tiến về phía quảng trường Zoco Grande, rồi từ đó bắt xe buýt quay về Marrakech.

Mọi người nghĩ chuyện ông ta nói về Ấn Độ có đúng không?
Britta hỏi.

Chính mắt anh đã thấy những việc như vậy rồi,
Holt đáp.

Tôi đến Shinjuku bằng cách nào đây?
Joe hỏi.

Thế này nhé, cậu lái xe từ đây đến Ai Cập. Sau đó phải đi tàu đến Beirut vì cậu không quá cảnh Israel được. Rồi cậu sẽ tiến về Damascus và Teheran, sau đó qua sa mạc đến Afghanistan, xuống Pakistan và qua Lahore để tới Ấn Độ. Lái xe ngang qua Ấn Độ thì đơn giản thôi và cậu sẽ đi xuyên suốt Miến Điện và Thái Lan. Cậu không thể quá cảnh Việt Nam được, vì vậy cậu sẽ chuyển xe lên một con tàu chở hàng Nhật Bản... xe cộ hầu như không mất tiền... vậy là cậu đã ở Shinjuku rồi.

Tôi lắng nghe với vẻ thán phục. Thật chẳng khác gì lời chỉ dẫn cho người hàng xóm đường đến cửa hàng tạp hóa mới mở:
Cậu đến Afghanistan rồi rẽ trái.


Tôi có thể đi được với hai trăm tám mươi đô la không?
Joe hỏi.

Tại sao không?

Một phút im lặng bối rối trôi qua khi Joe và Gretchen đăm đăm nhìn nhau - một người thì chuẩn bị đi Tokyo, một người về Boston - và bị thôi thúc bởi lòng quý trọng tự nhiên trước tình cảm chân thành của cô, anh đưa ra lời mời,
Em nghĩ sao về chuyện đi Nhật Bản với anh?
còn cô đáp,
Cảm ơn anh, nhưng không đâu. Em từng nghe nói đưa vợ tới Tokyo cũng giống như mang bánh mì kẹp giăm bông đi dự tiệc ấy.


Cậu có phải vợ anh ấy đâu,
Britta nhắc.

Tớ biết, nhưng tớ không muốn làm hỏng cuộc vui của anh ấy với các cô nàng mắt một mí.
Câu nói không được ai hưởng ứng, và một phút im lặng ngượng ngùng nữa trôi qua.
Một cách bốc đồng, Gretchen mở túi xách ra lục tìm quyển séc du lịch.
Anh là lái xe giỏi nhất châu Phi,
cô nói,
và anh xứng đáng được thưởng.
Cô hấp tấp ký một loạt tờ séc - chúng là những tờ năm mươi hay một trăm, tôi không nhìn thấy được - và lóng nga lóng ngóng đẩy sang cho Joe. Anh cầm lấy, lẩm bẩm nói cảm ơn. Vậy là cô ngước nhìn anh với nét mặt rạng rỡ, không còn chút lo sợ và căng thẳng nào.
Rồi chúng ta sẽ gặp lại ở đâu đó,
cô nói, và hai người bắt tay nhau.
Hẳn rất khó khăn cho Joe khi thốt ra những lời tiếp theo, vì anh biết rất có thể Holt đã nhận thấy mối quan tâm trước kia của anh với Britta. Hít một hơi thật sâu, cậu nói,
Ông biết đấy, ông Holt, vì ông tiến về Ceylon còn tôi hướng đến Nhật Bản, sao chúng ta không cùng nhau đi xuyên châu Á nhỉ? Ý tôi là cả ba chúng ta.


Tôi thấy hay đấy,
Holt điềm đạm nói.
Chúng ta có thể chuyện trò.


Tôi cũng nghĩ vậy đấy.


Và chúng ta có thể san sẻ chi phí,
Britta gợi ý.

Có một chuyện,
Joe nói.
Tôi muốn dừng lại ở Leptis Magna.


Sao lại không nhỉ?
Holt nói.
Chúng ta sẽ đi qua đó.


Ở Leptis Magna thì có gì đáng xem?
Britta hỏi.

Cảnh đổ nát. Tôi muốn thăm một trong những thành phố La Mã đã biến mất vì bị người ta lạm dụng đất đai. Rất có thể tôi sẽ hứng thú với lĩnh vực khai thác đất đai - tức là khi tôi đã xong chuyện tù tội. Ông Gridley khuyên tôi nên tính chuyện xin việc tại một công viên quốc gia. Bảo tồn giá trị cho đất đai.


Chúng ta cũng có thể quan sát hệ thống thủy lợi ở Ai Cập nữa,
Holt gợi ý, nhưng tôi nhận thấy khi anh phát biểu câu đó, Britta chợt cau mày định nói gì đó, song cô bị chặn lại vì Kasim đã quay về với giấy bán xe giả. Gretchen trả mười đô la cho anh ta, nhưng anh ta rền rĩ,
Đây là trả cho nhà in. Thế còn tôi thì sao?
Vậy là tôi liệng cho anh ta hai đô la nữa và Joe bắt đầu xếp đồ lên chiếc pop-top.
Lúc này Britta mới lên tiếng.
Chúng ta có thể dừng ở Leptis Magna,
cô thận trọng nói.
nhưng các nơi khác thì hạn chế vì chúng ta phải có mặt ở Ceylon vào ngày 23 tháng Mười hai.


Không, chúng ta không cần phải thế đâu,
Holt trấn an cô.
Đúng là vậy, anh phải về rồi. Nhưng công ty sẽ không tính toán chi li vì một tuần chậm trễ đâu.


Em muốn nói,
Britta giải thích,
là em phải có mặt ở đó vào ngày 23.


Vì sao?

Cô đỏ mặt, nhỏ nhẹ nói,
Vì em đã gửi cho cha em một vé máy bay đến Ceylon thăm chúng ta rồi.

Holt sững người.
Em lấy tiền đâu ra?
anh hỏi.
Đặt bàn tay lên tay Holt, Britta trả lời,
Mỗi lần anh đưa tiền cho em, em đều để riêng ra một ít.

Khi Britta nói câu đó, tôi đang nhìn Holt, và anh nghênh nghênh đầu nhìn cô kinh ngạc, trên khuôn mặt hằn sâu nếp nhăn của anh chợt toát lên một vẻ ngơ ngác âu yếm mà đôi lúc các anh chồng vẫn dành cho những người vợ đã cùng họ chung sống nhiều năm nhưng chỉ đến lúc đó mới khám phá ra con người thật.
Nhưng Gretchen nhớ lại:
Hồi ở Alte cậu nói với chúng tớ rằng lỡ có khi nào cha cậu buộc phải nhìn thấy Ceylon đúng như thực chất của nó thì ông sẽ suy sụp cơ mà.


Hồi đó tớ có nói như vậy thật,
Britta thú nhận,
nhưng bây giờ tớ tin rằng mọi người đàn ông đều phải xác minh những ước mơ của mình. Và hiểu đúng bản chất của chúng.

Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook 6 Người Đi Khắp Thế Gian (Trọn bộ 2 tập).