• 1,742

I - Chương 7


Số từ: 4935
Thể Loại: Tiểu Thuyết Hư Cấu
Người dịch: Nguyễn thị Bạch Tuyết
NXB Văn Học
Vào một ngày lạnh giá u ám ở Madrid, Joe đi nhờ xe cùng một nhóm sinh viên Đức vui nhộn đang trên đường xuống phía Nam, khi băng qua vùng đồng bằng La Mancha cằn cỗi, họ trao đổi về Cervantes và Goya. Họ là những thanh niên hiểu biết rộng, thông thạo cả tiếng Anh lẫn tiếng Tây Ban Nha, và định đến khu kiều dân Đức rộng lớn ở Marbella, cách eo biển Gibraltar không xa. Qua cuộc chuyện trò của họ, Joe kết luận được rằng gia đình họ từng là những người nhiệt thành ủng hộ Adolf Hitler và những người họ hàng ở phía Nam Tây Ban Nha mà họ sắp đến thăm là dân tị nạn chính trị. Một sinh viên bảo Joe:
Nếu anh gặp một ông già nhỏ thó, lưng thẳng đơ, không chống gậy trong khi lẽ ra phải thế, và nếu ông ấy đập gót giày chào khi nói chuyện với anh thì đó chính là bác Gustav.
Theo như những gì các chàng trai kể về bác Gustav, ông ta từng là một trong những người ủng hộ hàng đầu cho Hitler, nhưng một anh bạn hay châm biếm nói thêm:
Ông ấy sống ở Tây Ban Nha vì thích cái lối khách du lịch Mỹ gọi ông là Nam tước và nhún chân chào Nam tước phu nhân.

Khi họ tới Córdoba, cái giá lạnh của Madrid đã chuyển thành ánh nắng thật đáng được hoan nghênh. Họ dừng xe ngắm nhà thờ Hồi giáo, và khi họ đứng giữa một rừng cột trải dài từ phía xa hút tầm mắt, một người Đức nói:
Ở đây các cậu có thể thấy nhiều thứ đậm chất đạo Hồi hơn cả ở những nước theo đạo Hồi như Algeria hay Marốc. Năm ngoái tớ đã nghỉ hè ở Marrakech - về một số mặt thì cũng thú vị nhưng không nhà thờ Hồi giáo nào giống như nơi này.

Joe thích Córdoba và rất vui được nán lại lâu hơn, nhưng nhóm sinh viên Đức lại nóng lòng muốn gặp bạn bè. Vì vậy họ tiếp tục đi, và chẳng bao lâu đã tới gần vùng cao nguyên lạ thường mà từ trên vành đai phía Nam họ có thể phóng tầm mắt ra Địa Trung Hải.
A!
anh chàng lái xe reo lên khi họ tới sát mép vách đá nơi có thể nhìn thấy thành phố Málaga trước tiên,
Tây Ban Nha đây rồi!
Anh ta đỗ xe bên vệ đường và giơ tay chỉ ngôi nhà thờ xa xa, trường đấu bò, bãi dạo mát xanh bóng cọ, khu hải cảng sầm uất và phía Tây là một dãy làng chài tuyệt đẹp vốn nổi danh trong khắp xứ Phênixi và Hy Lạp. Costa del Sol, vùng này có tên như vậy, và được dùng như một thỏi nam châm để thu hút thanh niên trên khắp thế giới.

Đám nhà cửa cao tầng đó, phía bên kia Málaga,
một anh bạn Đức giải thích,
là Torremolinos của anh đấy.
Anh ta chép môi khoái chí nói:
Thử tưởng tượng mà xem! Ngay lúc này! Năm nghìn cô gái đẹp nhất thế giới đang ở dưới đó, khao khát mong chờ tôi đến.


Cảnh có đẹp không - Torremolinos ấy?
Joe hỏi.

Anh tự mình nhìn xem!
anh chàng người Đức hào hứng đáp.
Bãi biển dài vô tận. Núi non chặn đứng gió lạnh. Nó không phải một thành phố. Nó không phải một ngôi làng. Nó là cái chưa từng được nhìn thấy trên trái đất này. Tôi sẽ nói cho anh biết là cái gì - một nơi trú ẩn thoát khỏi sự điên rồ của thế giới này, chỉ trừ việc nó hoàn toàn điên rồ.

Họ nhìn xuống toàn cảnh, một bức tranh thiên nhiên quyến rũ nhất Tây Ban Nha, với sự kết hợp hài hòa giữa thành phố Málaga cổ kính, Địa Trung Hải bát ngát một màu xanh, những làng chài và dãy núi hoang vu. Được chiêm ngưỡng vùng đất từ độ cao này sau một chặng đường dài qua cao nguyên trơ trụi thì cũng như tiếp nhận một lời mời hưởng thụ cuộc sống, âm nhạc, rượu vang và bãi biển.
Nếu ở dưới đó cũng đẹp như từ trên này nhìn xuống,
Joe phát biểu,
thì đúng là quang cảnh tôi muốn ngắm.


Những người duy nhất biết tận hưởng nó là người Đức và Thụy Điển,
một sinh viên nói.
Người Mỹ không dễ thích nghi.


Dưới đó có nhiều người Đức không?


Bao giờ xuống đó, anh cứ để ý xem. Anh sẽ thấy khắp cả vùng không nói tiếng gì ngoài tiếng Đức. Biển hiệu cũng bằng tiếng Đức. Hoặc tiếng Thụy Điển.

Họ khảo sát khung cảnh huy hoàng đó lần cuối, rồi nhảy lên xe và bắt đầu lao xuống núi trong tiếng lốp rên rỉ phản đối mỗi khi chiếc xe điên cuồng hết lạng bên này lại đảo sang bên kia. Đến một chỗ con đường lượn thành hai vòng khép kín đòi hỏi phải có một loạt đường hầm liên tiếp, vì vậy chiếc xe dường như trượt xuống những đường xoắn ốc của cái mở nút chai, và trong lúc họ lướt quanh các khúc cong, Joe thấp thoáng nhìn thấy phong cảnh biến ảo muôn màu muôn sắc của biển cả, núi non, bầu trời, đường hầm, thành phố Málaga và cả Torremolinos phía xa xa. Đó là một lối đi khiến cho người ta hoa mắt và quặn dạ dày, và khi các khúc cua hẹp hơn nữa, các sinh viên Đức bắt đầu hét to động viên anh bạn lái xe; mỗi lúc anh tiến đến gần một khúc quanh, bọn họ lại cất tiếng hú dài u-u-u-u-u-u, cao giọng và tăng âm lượng khi chiếc xe rít lên tiến vào đoạn cua, lốp gần như long ra khỏi vành, rồi kết thúc bằng tiếng a-a- a-a-a-a đắc thắng khi chiếc xe nghiêng ngả, gần như lật nhào, rồi lấy lại thăng bằng. Khi con đường xuống đến mực nước biển và trải thẳng tắp, anh chàng lái xe hớn hở dận ga sát sàn, họ ầm ầm lao về phía trước với tốc độ hơn chín mươi dặm một giờ, chỉ chậm lại khi những phố hẹp của Málaga hiện ra trước mắt.

Thế mới đúng là cách xuống núi chứ!
anh chàng lái xe hét, còn Joe nói:
Con trai Nam tước Đỏ[9] có khác.
Họ không dừng lại Málaga mà phóng thẳng về hướng Tây qua sân bay, vài phút sau đã vào địa phận Torremolinos với dãy nhà chọc trời dọc bờ biển, những phố xá đẹp mắt uốn lượn về hướng đất liền. Đám người Đức phóng ầm ầm vào trung tâm thành phố, phanh kít trước một quầy báo trưng bày loại báo của mọi thành phố Bắc Âu và bảo Joe:
Đến nơi rồi, anh chàng người Mỹ. Học tiếng Đức đi rồi anh sẽ thích cho mà xem.

Joe nói:
Tôi tưởng dân California mới lái xe như điên,
anh chàng lái xe đáp:
Các anh phóng nhanh để chiếm chỗ. Chúng tôi làm vậy cho vui thôi.
Đột ngột tăng hết tốc độ, việc mà ngay cả một thiếu niên Mỹ cũng phải cố lắm mới làm được, anh ta rồ máy phóng qua dòng xe cộ rồi lao vụt về hướng Tây.
Với chiếc túi du lịch nhỏ bằng vải bạt bên tay trái, không mũ, không áo choàng, lép kẹp tiền, Joe đứng bên lề đường, quan sát quang cảnh chốn lưu đày của mình, và điều gây ấn tượng ngay lập tức với anh trong những giây phút đầu tiên đó của một ngày lạnh giá chính là anh nhìn thấy ở đây nhiều cô gái xinh đẹp hơn ở bất cứ nơi nào anh từng biết trong đời. Họ đều vô cùng ấn tượng, và chẳng mấy chốc, anh nhận ra tất cả bọn họ: những cô nàng Thụy Điển tóc vàng từ Stockholm xuống; những cô gái Đức mảnh mai ưa nhìn trong kỳ nghỉ đông xa Berlin; nhiều cô gái tỉnh lẻ người Pháp; những sinh viên xinh đẹp người Anh; và một lô các cô nàng mảnh dẻ người Bỉ.
Đối diện quầy báo là một quán bar có khoảng sân ngoài trời rộng rãi thấp hơn mặt đường vài foot. Nó được sử dụng như đài quan sát, và bàn ghế san sát của quán đã chật kín khách ngồi trong ánh nắng mùa đông, vừa nhâm nhi bia vừa quan sát người qua đường. Joe ngần ngại bước từ ngoài phố vào quán, len lỏi giữa các bàn cho đến khi tìm được một ghế trống và ngồi xuống. Người hầu bàn chưa kịp đến phục vụ anh thì một thanh niên không biết là người nước nào đã chộp lấy cái ghế bên cạnh nói với giọng cuốn hút,
Anh là người mới ở đây, tôi thấy ngay. Một người Mỹ trốn quân dịch, tôi đoán vậy. Tôi không phê phán anh. Nếu là người Mỹ, tôi cũng sẽ làm như vậy.


Anh là ai?
Joe xẵng giọng hỏi.

Ai quan tâm chứ?
anh thanh niên hỏi. Anh ta khoảng hai mươi tuổi, ăn mặc lịch sự, nhã nhặn. Rõ ràng anh ta có tiền, vì anh ta nói,
Tôi mời anh một cốc được không? Ngày đầu tiên ở thành phố. Lần sau anh trả.

Anh ta huýt một hồi psssstttt lanh lảnh và gọi nước chanh cho mình, bia cho Joe.
Anh đã bao giờ thấy nhiều gái đẹp như thế chưa?
anh ta hỏi khi một đám thiếu nữ đặc biệt hấp dẫn đi ngang qua con phố trên.
Đối với một người đàn ông, thành phố này là thiên đường. Bí quyết là thế này. Tất cả các cô nàng anh gặp đều đáp máy bay xuống đây bằng vé tham quan đặc biệt. Họ có mười lăm ngày hưởng ánh mặt trời rồi lại quay về với công việc thường ngày buồn tẻ. Không có nhiều thời gian để phung phí, vì vậy họ không muốn bận tâm đến những màn làm quen rắc rối...


Anh nói tiếng Anh khá chuẩn đấy,
Joe nhận xét.

Cả tiếng Thụy Điển, tiếng Đức và tiếng Pháp nữa.


Anh làm nghề gì?


Tôi chăm lo các thứ.


Một anh chàng kiếm được việc bằng cách nào?

Anh thanh niên chăm chú quan sát Joe qua miệng cốc, và trong lúc anh ta làm vậy thì Joe đã có cơ hội nghiên cứu lớp thứ hai của Torremolinos, vì rải rác giữa các cô gái xinh đẹp là một làn sóng kẻ trốn chạy kém hấp dẫn hơn - những kẻ cùng đường, cả nam lẫn nữ, tìm nơi trú ẩn ở cõi niết bàn Tây Ban Nha này và đã nhận ra rằng cuộc sống nếu không phải là không thể chịu nổi thì cũng vô cùng ảm đạm. Họ là một đám người trẻ tiều tụy, đủ mọi quốc tịch, tưởng rằng vì khí hậu Tây Ban Nha ấm áp nên giá sinh hoạt phải rẻ. Họ để tóc dài và ăn mặc rách rưới. Một số còn bẩn đến mức không thể tin nổi và ai trông cũng như cả tuần không tắm gội. Phần lớn đều có đôi mắt vô hồn và đi ngoài phố như trong cơn mộng du; họ là những người đã nhai thuốc lá Hashish hoặc hít heroin, vai rụt lại và bước đi như người máy. Có những anh chàng ẻo lả khác thường tay trong tay đi ngoài phố. Và có cả những cô gái thiếu nhan sắc, bay xuống phía Nam trên chính những chiếc phản lực khổng lồ đã chở các cô nàng xinh đẹp. Bạn gần như có thể đoán được họ đã tiến đến thời điểm nào trong kỳ nghỉ mười lăm ngày của họ; suốt mấy ngày dạo chơi đầu tiên họ tràn trề hy vọng rằng cuộc sống ở một thành phố sôi động như Torremolinos có thể khác với cuộc sống ở quê nhà; đến ngày thứ chín họ mới đối diện với thực tế là khi nhiều con gái như vậy tập trung cả ở một nơi thì ngay các cô thực sự quyến rũ cũng khó kiếm được trai trẻ; và đến ngày thứ mười ba, hiểu rằng mọi việc sẽ không khác mấy so với những gì họ đã trải qua ở quê nhà, họ đành đầu hàng nỗi tuyệt vọng và bước đi trên phố với đôi vai trĩu nặng, vẻ thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt.
Và rải rác trong đám người Đức, Anh, Bỉ, Thụy Điển đủ mọi màu sắc ấy cũng có một vài người Tây Ban Nha - rất ít ỏi. Họ có thể là công nhân trên đường sửa hệ thống ống nước quá tải, người môi giới cố gắng rao bán những mảnh đất thuộc quyền sở hữu của chú bác họ, hay nhân viên ở các cửa hàng cửa hiệu. Bạn có thể nhận ra họ qua vẻ mặt khinh khỉnh, qua những cái liếc mắt tỏ vẻ khó hiểu mà thỉnh thoảng họ ném vào đám hippy đặc biệt kỳ quặc. Nó là một thế giới xa lạ, một thế giới mà họ không hiểu và cũng chẳng thèm quan tâm, miễn sao nó còn cung cấp cho họ kế sinh nhai là được. Đôi lúc họ thấy ngạc nhiên, khi dừng lại ngẫm nghĩ rằng tất cả chuyện này đang diễn ra ở Tây Ban Nha, nhưng rồi họ cũng không lo lắng lâu hơn, yên tâm với niềm tin là chính quyền ở Madrid hẳn đã được cảnh báo về những sự việc lạ lùng đang diễn ra và sẽ chỉnh đốn nếu cần.
Khi chàng trai bên ly nước chanh thấy hài lòng vì đã hiểu được Joe, anh ta nói:
Với anh, tốt nhất là tôi nên thành thật.

Joe nghe lời tuyên bố đáng lo ngại ấy như thể xuyên qua một màn sương mù, vì anh còn mải quan sát khách qua đường, băn khoăn không biết anh sẽ phù hợp với mẫu người nào trong dòng người kia.
Anh nói sao?
Joe hỏi.

Anh có thể gọi tôi là Jean-Victor,
chàng trai nói.
Không phải người Pháp. Tôi sẽ để anh đoán là quốc tịch gì. Nhưng tôi đã quan sát anh và tôi thấy anh có năng lực, ít nói nhưng có năng lực. Và tôi đã quyết định tốt hơn là nói với anh sự thật về Torremolinos. Nếu anh là một cô nàng trẻ tuổi cố kiếm sống bằng nghề mại dâm, tôi phải cảnh báo anh chuyện đó không thể tiến hành được, bởi vì sự cạnh tranh của bọn điếm không chuyên sẽ khiến anh phải bật ra khỏi thành phố. Nhưng anh là một thanh niên đẹp trai, thân hình ưa nhìn, tóc tai quyến rũ... Anh có nói được tiếng gì khác ngoài tiếng Anh không?


Tiếng Tây Ban Nha.


Thứ đó không ích lợi gì.


Ở Tây Ban Nha? Nó không ích lợi gì sao?


Chúng ta không ở Tây Ban Nha. Bây giờ nếu anh mặc cái quần bó sát nhất của anh và lang thang theo phố chính này cho đến khi tìm thấy một quán bar tên là Swilted Swan, bước vào trong và gọi một cốc nước chanh, thì chỉ trong vòng mười lăm phút anh sẽ tìm được một người nào đó chăm lo mọi chi phí của anh cho đến chừng nào anh còn quan tâm đến việc ở lại thành phố này.

Joe không nói gì. Lục lọi khắp ví, anh tìm một mảnh giấy, thấy cái tên anh cần, liền quay sang Jean-Victor, hỏi:
Tôi có tình cờ tìm được Paxton Fell trong đó không?


Chà, anh biết Paxton Fell!
Jean-Victor reo lên mừng rỡ.
Tuyệt! Tuyệt!
Anh ta khăng khăng đòi trả tiền nước và dẫn Joe tới quán Swilted Swan gặp Fell. Hai người chỉ vừa đi qua mấy dãy nhà ngắn thì Joe đã nhìn thấy một trong những tấm biển quán rượu ấn tượng nhất thế giới, một cái khiên huy hiệu sơn những màu cơ bản rực rỡ, ở chính giữa trôi nổi một con thiên nga ẻo lả rũ cổ rũ cánh, gợi nên cảm giác thiếu sức sống và thiểu não đến nỗi anh phải dừng bước và bật cười.

Tấm biển hiệu này ấn tượng thật,
anh nhận xét với vẻ thán phục.
Tôi cá là trông nó giống hệt Paxton Fell.

Nghe thấy thế, chàng trai dẫn đường vỗ đùi kêu lên:
Ô, tôi phải kể cho Paxton nghe nhận xét của anh mới được!
Anh ta đưa Joe qua cánh cửa kiểu Phục Hưng có tay nắm bằng đồng vào một phòng tối, trang trí lộng lẫy những món đồ xuất xứ Pháp và Anh. Jean-Victor chăm chú nhòm hết góc này đến góc khác, rồi chỉ một cái bàn có bốn người đàn ông tầm bốn mươi tuổi đang ngồi. Rõ ràng họ là những người khá giả, vì trang phục của người nào cũng toát lên vẻ thanh lịch giản dị mà chỉ tiền bạc mới duy trì được, và họ đều nói năng nhỏ nhẹ.
Jean-Victor cung kính tiến lại bàn, cúi người chào và nói thầm với người đàn ông ngồi quay lưng ra cửa. Ông ta từ từ đứng dậy, thon thả và oai vệ, và khi ông ta quay lại, Joe mới thấy là ông ta già hơn tuổi bốn mươi rất nhiều. Như một người trên đối với kẻ dưới, ông ta quan sát Joe, rõ ràng thấy có thể chấp nhận được anh, bèn bước từ từ về phía anh và chìa bàn tay mảnh dẻ, đeo đầy nhẫn.
Tôi là Paxton Fell,
ông ta nói nhỏ.
Còn anh có thể là ai đây?


Tên tôi là Joe. Tôi từ California tới. Mấy người ở trường Yale cho tôi tên ông.


Chắc hẳn là giáo sư Hartford,
Fell uể oải nói.
Anh ta rất sẵn lòng giúp đỡ khi những anh chàng như cậu gặp rắc rối với vấn đề quân dịch, tôi hiểu.

Joe gật đầu và nhận thấy hầu hết khách quen ngồi trong quán, kể cả một bàn toàn phụ nữ ăn mặc kỳ quặc, đều đang hướng ánh mắt vào anh. Trước tình thế đó, anh chìa tay về phía Fell và nói:
Giáo sư Hartford gửi lời hỏi thăm ông. Có lẽ tôi sẽ còn gặp lại ông.
Rồi anh đi về phía cửa.

Chờ một chút!
Fell kêu lên.
Uống với chúng tôi ly nước đã.


Xin để khi khác,
Joe đáp.
Tôi phải tìm một chỗ cất đồ đã.


Bất cứ lúc nào chúng tôi cũng có thể giúp cậu tìm chỗ ở. Bây giờ, nếu cậu...

Joe nhìn đồng hồ, bật ngón tay và kêu lên:
Chết rồi! Tôi đã hẹn với bà chủ nhà năm giờ tới xem phòng.

Ra đến vỉa hè, Joe túm lấy ve áo Jean-Victor mà hỏi,
Anh đang thử rao bán thứ chết tiệt gì thế hả?


Anh đã nói tên lão ta. Tất nhiên là tôi tưởng...


Cái việc tưởng ấy thì cứ để cho tôi nhé.


Khi mới gặp anh... tôi chỉ gái đẹp cho anh thấy vậy mà anh thậm chí còn chẳng thèm nhìn đến.


Tôi có nhìn... theo cách của tôi.


Thế cho nên tôi mới nghĩ anh lại là một người Mỹ nữa đang gạ gẫm ăn nằm với tôi. Và khi anh bất ngờ lôi cái tên Fell ra, tôi càng tin chắc như vậy.


Anh là quân của lão à?


Tôi ư? Tôi không bén mảng tới nơi đó. Tôi chỉ thích con gái thôi.


Vậy sao lại giới thiệu tôi?


Đơn giản! Nếu tôi hợp tác với Paxton Fell... lão ta sẽ lo cho tôi một ít tiền.

Vì chất đàn ông bị nghi ngờ, Jean-Victor thấy cần thiết phải chứng minh chí khí nam nhi của mình, anh ta đưa Joe xuống khu vực cổ kính nhất Torremolinos, một vùng vạn chài như trong sách truyện chưa bị những tòa nhà chọc trời và khách sạn sang trọng xâm phạm. Anh ta dẫn Joe qua một dãy quán nhỏ hấp dẫn, quán nào cũng có ba bốn cô gái xinh xắn đang chờ đợi trên ghế cao, và Jean-Victor nói:
Ở Torremolinos... ba trăm quán bar... và tất cả đều cần gái phục vụ quầy bar.
Cuối cùng hai người tới một dãy lán đánh cá cũ kỹ đã được sửa lại thành những căn phòng tạm bợ, nơi sóng Địa Trung Hải mang từng đám bọt biển vỗ vào tận cửa.

Đây mới là Torremolinos thực sự,
Jean-Victor nói, và khi anh ta mở cánh cửa căn hộ, Joe thấy hai cái giường rộng, một cái không người, một cái có hai cô gái hấp dẫn nhất trên đời.
Ingrid và Suzanne,
Jean- Victor giới thiệu luôn không khách sáo.
Cô nàng của tôi là Sandra, người London, nhưng cô ấy đi mua đồ rồi, chắc thế.


Cô ấy đi làm đầu,
Ingrid nói tiếng Anh lưu loát.

Cô ấy thì lúc nào cũng đi làm đầu,
Jean-Victor nói vẻ cam chịu.
Joe là người mới đến. Dân California. Không tiền, kiểm tra anh ta đi.


Trốn quân dịch à?
Suzanne hỏi bằng tiếng Pháp, giọng du dương.

Phải.


Có tiền không?


Nhẵn túi.


Ai thèm quan tâm chứ. Tối nay bọn em mời anh đi ăn. Chúng ta phải chiến đấu hết sức mình cho hòa bình.


Các cô không cần phải lãng phí tiền bạc của mình...
Joe từ chối.
Hai cô gái thậm chí còn chẳng thèm trả lời. Trong nhóm của họ, nếu ai đó có một mẩu bánh mì, anh ta sẽ san sẻ nó; khi nào Joe có tiền, họ cũng mong anh làm như vậy. Jean-Victor nói tiếp:
Anh có thể nằm dưới sàn nhà. Một cậu người Đức đã bỏ lại cái túi ngủ. Bọc kẻ ô vuông trong góc kia kìa. Chắc cậu ấy sẽ không quay lại nữa.

Hai cô gái dẫn Joe đi ăn tối, tại một quán cá mà một bữa no nê chưa đến một đô la. Họ kể câu chuyện cũng na ná như mọi người khác: họ đến Torremolinos du ngoạn mười lăm ngày, đâm ra yêu thích nơi này, tìm việc khắp nơi và cuối cùng gặp Jean-Victor, được anh ta cho phép ngủ trên chiếc giường thừa. Anh ta còn tìm được cho họ công việc ở một trong những quán bar mà anh ta là khách quen, và vì anh ta không nhận tiền nên hai cô lo việc ăn uống. Ingrid nghĩ có lẽ cuối tháng sau sẽ phải trở về Thụy Điển; cô đã xa nhà sáu tháng rồi và một thanh niên có công ăn việc làm đàng hoàng ở Stockholm đã cầu hôn cô, nhưng Suzanne nói:
Em ở lại. Nơi này là dành cho em. Nói cho anh biết điều này nhé, Joe! Bọn em sẽ đãi anh một bữa ở Arc de Triomphe.

Họ leo lên quả đồi trải dài từ khu phố quay mặt ra biển cho đến trung tâm Torremolinos, và tại đó, ở một phố ngang, một rạp chiếu phim cũ kỹ đã được sửa lại thành vũ trường có một mặt sàn đắp nổi bé xíu, hai chục cái bàn nhỏ và rất nhiều chỗ đứng. Phòng nhảy tối lót nhung, vậy nên âm lượng khủng khiếp phun trào từ hệ thống điện tử ra không có tạp âm và chắc nịch, không có tiếng vang dội lại. Ánh đèn nhấp nháy, liên tục lóe sáng rồi lại vụt tắt bốn lần một giây, nhưng mọi việc đều phụ thuộc vào sắc đẹp của các khách quen. Từng nhóm, các cô gái từng đạt bằng danh dự ở Sorbonne, Uppsala và Wellesley bước qua cánh cửa lớn, nhòm ngó vào bóng tối và được các chàng trai thông minh nhanh nhẹn đạt bằng cấp ngang ngửa ở Đại học Tokyo và Heidelberg lần lượt hạ gục. Ở bất cứ bàn sáu người nào, bạn cũng có thể tìm được bốn quốc tịch khác nhau, các thứ tiếng tuôn chảy thoải mái hơn cả Coca-Cola mà phần lớn khách nhảy đang uống, và lúc nào âm lượng cũng ở mức không thể tin nổi, ầm ầm hơn cả mấy chục dàn nhạc mà các bậc phụ huynh của những thanh niên này từng nghe hồi những năm 40.

Tôi thực sự khoái nhạc này,
Joe nói giữa lúc trận bão âm thanh bọc kín anh trong cái kén kim loại của nó. Bất kể thanh niên ở đây lớn lên ở đất nước nào, họ đều chấp nhận loại nhạc dữ dội này như một phần không thể thiếu trong nền văn hóa của họ nên không hề thấy khó chịu vì nó; những âm thanh xé tai này với họ cũng cần thiết như tiếng sáo và chũm chọe với người Hy Lạp cổ khi bàn luận lý thuyết mỹ học.

Đây là nhà em,
Ingrid thét to để át tiếng ầm khi họ đã chen được vào bàn. Suzanne nhắm mắt, ngửa cổ ra sau, mời gọi âm thanh chảy tràn khắp người mình. Họ chỉ vừa ngồi xuống thì hai sinh viên Đức vốn quen hai cô gái ở quán họ đang làm việc liền tới gần và gọi đồ uống. Họ nói tiếng Pháp rất khá khiến Joe không tham gia chuyện trò được, nhưng một lát sau một người hỏi bằng tiếng Anh rất lưu loát:
Có phải anh gặp rắc rối về vấn đề quân dịch không?
Khi Joe gật đầu, anh ta vỗ vai anh nói:
Lạ thật. Một cụ kỵ của tôi đã chạy từ Đức sang Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ để trốn lính, nay thì anh chạy từ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ sang Đức để trốn quân dịch.
Joe định nói là anh không ở Đức, nhưng người thanh niên đã cắt ngang:
Có lẽ anh biết dòng dõi của cụ? Dòng họ Schweikert ở Pennsylvania. Một người con trai dòng họ đó là cầu thủ của đội bóng đá Illinois toàn người Mỹ đấy.


Trước thời tôi rồi,
Joe nói.
Trong khi hai cô gái đến quán bar làm việc, anh đi bộ trở lại nhà Jean-Victor một mình và thấy Sandra đang chờ. Jean-Victor đi đâu đó, nhưng đã dặn cô về người mới đến và cô chỉ cho anh cách trải cái túi ngủ bằng vải len kẻ ô vuông. Để ý thấy cô làm việc rất thành thạo, Joe hỏi:
Ở London cô làm gì?


Chẳng làm gì cả. Cha em là chủ nhà băng, ông ấy không bao giờ để em phải thiếu thốn. Ông ấy thích đi cắm trại và dạy em cách đối phó với mọi tình huống.


Cô ở đây lâu chưa?


Như mọi người thôi. Đến đây định ở mười lăm ngày. Khóc nức nở khi máy bay tới đưa em về. Jean-Victor cũng có mặt ở sân bay và anh ấy bảo: ‘Tại sao lại về ?’ Thế là em đã ở đây được gần một năm rồi.


Jean-Victor là người nước nào?


Cha mẹ là người Ý. Lugano, thành phố Ý nằm sát phía Nam Thụy Sĩ. Tên thật anh ấy là Luigi hay Fettucini hay gì đó. Anh ấy cho rằng tên Pháp thì đỡ phải giải thích dài dòng. Có một ít tiền nhà gửi cho... nhúng tay vào nhiều việc ở đây. Bọn em cũng không rõ anh ấy kiếm sống bằng cách nào. Chắc là bán cần sa. Em biết anh ấy có mối quan hệ ở Tangier. Anh có muốn một điếu không?


Tôi không khoái cần sa.


Bọn em cũng không. Nếu có cuộc liên hoan vui vẻ, bọn em chuyền tay nhau - để hòa đồng. Còn không thì bọn em cũng quên luôn hàng tuần liền.

Joe trải túi ngủ của anh người Đức ra và nhìn Sandra khéo léo lót báo cùng mấy tấm chăn cũ xuống dưới cho êm.
Em phải ngủ trong cái túi này mất ba tuần, rồi anh Jean-Victor mới cho em lên giường anh ấy.
Cô nói.
Tất nhiên hồi đó anh ấy ngủ với một cô người Bỉ, và em phải chờ đến lượt mình.

Joe chui vào túi và gần như thiếp đi ngay lập tức, nhưng anh vẫn lờ mờ nhận thấy trước khi lên giường Sandra còn hôn nhẹ lên trán anh, như một người mẹ, và gần sáng, anh mới bị đánh thức khi Ingrid và Suzanne đi làm về. Họ cởi quần áo một cách tự nhiên, chuẩn bị đi ngủ, và khi thấy anh đã thức dậy, họ tán chuyện với anh một lúc.
Có một người đàn ông trong nhà thật là hay,
Suzanne nói. Joe chỉ vào giường của Jean-Victor, và cô nói:
Anh ấy đã có bạn gái. Còn anh là dành cho bọn em.
Rồi hai cô gái quỳ xuống hôn chúc anh ngủ ngon.

Tôi sẽ thích Torremolinos,
anh ngái ngủ lẩm bẩm.

Tất cả chúng ta đều thế,
Ingrid vui vẻ kêu lên khi bò vào trong giường.
Lạy Chúa, đây đúng là thiên đường.


Hôm nay tôi sẽ đi tìm việc,
Joe nói.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook 6 Người Đi Khắp Thế Gian (Trọn bộ 2 tập).