• 491

- Những lá thư từ Zedelghem -


Nguyễn Thị Thanh Trúc dịch
Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành
❉❉❉
Số hóa và soát lỗi: VCTVEGROUP
tve-4u.org
Lâu đài Zedelghem,
3 – vii – 1931.

Một bức điện tín ư, Sixsmith?
Đểu thế. Đừng gửi nữa, tôi van anh đấy – điện tín khiến người ta chú ý mà! Đúng, tôi vẫn còn ở nước ngoài, đúng, an toàn trước những gã tay chân bặm trợn của Brewer. Hãy xé bức thư bố mẹ tôi truy tìm tung tích của tôi rồi ném xuống sông Cam. Ông bô chỉ
lo ngại
vì các chủ nợ của tôi đang rung lắc ông ta để xem có tờ tiền nào rơi xuống từ cây gia đình hay không. Tuy nhiên, những món nợ của một thằng con bị từ là chuyện của thằng con đó, chẳng phải là chuyện của ai hết – tin tôi đi, tôi đã tìm hiểu luật rồi. Bà bô không
phát điên
đâu. Bà chỉ phát điên khi bình cạn rượu mà thôi.
Bài diễn thử của tôi diễn ra ở phòng âm nhạc của Ayrs, sau bữa trưa, ngày hôm kia. Không thành công rực rỡ, ấy là nói nhẹ – không biết tôi sẽ còn ở đây bao lâu, hay mấy ngày nữa. Tự thấy rùng mình
khi ngồi trên ghế đánh đàn của chính Vyvyan Ayrs từ trước rồi. Tấm thảm Phương Đông này, chiếc trường kỷ cũ kỹ, tủ búp phê Breton nhét đầy giá để bản nhạc, đàn dương cầm Bosendorfer, chuông chùm, tất cả đều đã chứng kiến sự thai nghén và ra đời của Matruschyka Doll Variations
và các bài hát Society Islands
của lão. Khảy chiếc đàn cello đã lần đầu tiên ngân lên bản Untergehen Violinkonzert.
Nghe tiếng Hendrick đẩy ông chủ đến hướng này, tôi dừng ngó nghiêng và nhìn ra cửa. Arys phớt lờ câu hỏi thăm
Tôi hi vọng ông đã khỏe, thưa ông Ayrs,
và sai người hầu đẩy xe đến cửa sổ trông ra vườn.
Thế nào?
lão hỏi, sau khi chúng tôi còn lại hai người trong phòng được ½ phút.
Đấy. Gây ấn tượng cho tôi đi.
Hỏi lão muốn nghe gì.
Tôi cũng phải chọn chương trình nữa ư? Xem nào, cậu chắc đã thành thạo Ba con chuột mù
hử?

Thế là tôi ngồi ở chiếc đàn Bosendorfer và chơi bài Ba con chuột mù
dở hơi, theo phong cách của một Prokofiev[13] chua ngoa. Ayrs chả bình luận gì. Tiếp tục cùng một giai điệu tinh tế hơn với bản Nocturne cung Fa trưởng của Chopin. Lão cắt ngang với giọng rên rỉ,
Đang định kéo quần lót của tôi xuống mắt cá chân hay sao, hả Frobisher?
Chơi bản Digressions on a Theme of Lodovico Roncalli
của chính V.A. nhưng chưa đánh đến nốt thứ hai thì lão đã văng tục, nện gậy lên sàn nhà, và nói,
Kiêu ngạo làm người ta mù lòa, họ không dạy cậu điều đó ở Caius à?
Phớt lờ lão để đàn hết bản nhạc hoàn hảo.
Cho phần kết thúc của màn pháo hoa, đánh cược với bản thứ 212 của Scarlatti[14], cung La trưởng, một bete noire các hợp âm rải và nhào lộn. Bị lỡ nhịp một hoặc hai lần, nhưng tôi có phải đang thi vào vị trí đơn tấu trong dàn nhạc đâu cơ chứ. Sau khi tôi biểu diễn xong, V.A. vẫn lắc lư đầu theo giai điệu của bản sonate đã biến mất; hoặc có thể lão đang chỉ huy những cây bạch dương mờ ảo đung đưa.
Thật kinh tởm, Frobisher, cút ngay ra khỏi nhà ta!
sẽ khiến tôi vô cùng đau khổ, nhưng không quá ngạc nhiên. Thay vì vậy, lão thừa nhận,
Cậu có thể sở hữu tố chất của một nhạc sĩ. Hôm nay trời đẹp đấy. Tản bộ ra bờ hồ ngắm vịt đi. Ôi, ta cần một ít thời gian
để quyết định xem có thể nhận ra ích lợi gì từ... tài năng của cậu không.

Ra đi không nói một lời. Có vẻ như lão cáo già muốn tôi, nhưng chỉ khi nào tôi tỏ lòng biết ơn thống thiết. Nếu ví tiền cho phép thì tôi đã thuê một chiếc taxi trở về Bruges và từ bỏ toàn bộ ý tưởng điên rồ này. Lão gọi với theo,
Một lời khuyên cho cậu đây, Frobisher, miễn phí
. Scarlatti là nghệ sĩ đàn clavico, không phải dương cầm. Đừng nhúng ông ta trong màu sắc như thế, và đừng dùng bàn đạp để hãm những nốt mà cậu không thể hãm bằng ngón tay.
Tôi gọi với lại rằng ôi, tôi cần một chút thời gian
để quyết định xem có thể nhận ra ích lợi gì từ... tài năng của Ayrs không.
Đi qua sân nơi một thợ làm vườn có khuôn mặt như củ dền đang quét dọn đài phun nước mọc đầy cỏ dại. Giải thích với ông ta rằng tôi muốn nói chuyện với bà chủ của ông ta ngay bây giờ
– ông già vô tích sự - ông ta vẫy tay mơ hồ về phía Neerbeke, làm điệu bộ vô lăng xoay xoay. Tuyệt vời. Giờ thì sao? Ngắm lũ vịt, tại sao không? Hay thử vặn cổ một cặp rồi treo chúng trong tủ quần áo của V.A. Tâm trạng đen tối thế đấy. Thế là tôi diễn tả con vịt rồi hỏi người thợ làm vườn,
Ở đâu?
Ông ta chỉ đến cây sồi, điệu bộ như nói, đi hướng đó, ở ngay phía bên kia thôi. Tôi cất bước, nhảy qua một hàng rào thấp, nhưng trước khi đến đỉnh đồi, tiếng ngựa phi đã nện thình thịch, và tiểu thư Eva van Outryve de Crommelynck – từ nay chỉ gọi là Crommelynck, nếu không chắc tôi sẽ hết sạch mực mất – trờ đến trên con ngựa màu đen.
Tôi chào nàng. Nàng cho ngựa chạy nước kiệu quanh tôi như Nữ hoàng Boadicea, dửng dưng như không.
Hôm nay không khí ẩm quá,
tôi nói chuyện vu vơ vẻ giễu cợt.
Tôi đồ rằng chốc nữa sẽ có mưa, cô có đồng ý không?
Nàng chẳng nói gì.
Trang phục của cô lịch thiệp hơn cung cách của cô đấy,
tôi bảo. Chẳng có gì. Tiếng súng khô khốc vang lên ngoài cánh đồng, và Eva trấn an con ngựa. Nó là một con ngựa đẹp – không thể trách con ngựa. Tôi hỏi Eva con ngựa tên gì. Nàng vuốt những lọn tóc đen xoăn tít trên má.
J’ai appelé le poney Nefertiti, d’après cette reine d’Egypte qui m’est si chère,
(Tôi đặt tên con ngựa là Neferttiti, theo tên của một Nữ hoàng Ai Cập mà tôi rất ngưỡng mộ[15]) rồi quay đi.
Nó biết nói đấy!
tôi gào lên, rồi đứng nhìn nàng cưỡi ngựa phóng đi cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ trên đồng cỏ của Van Dyck. Bắn những viên đạn đuổi theo nàng với những đường parabol đẹp mắt. Xoay súng về Lâu đài Zedelghem, rồi nã đạn vào dãy nhà của Ayrs cho đến khi chỉ còn là đống gạch vụn nghi ngút khói. Nhớ lại đang ở đất nước nào và ngừng tay.
Đi qua cây sồi trơ trọi, đồng cỏ trôi xuống một hồ nước để trang trí, ộp oạp tiếng ếch kêu. Tâm trạng không được tốt lắm. Một chiếc cầu bấp bênh nối cù lao với bờ và những bông hoa hồng môn nở rộ. Thi thoảng vài chú cá vàng lại quẫy nước óng ánh như những đồng tiền xu đánh rơi xuống nước. Những con vịt uyên ương có râu quang quác xin ăn, những kẻ ăn mày chải chuốt cầu kỳ - cũng khá giống mình. Chim nhạn làm tổ trong một ngôi nhà thuyền làm từ ván quét nhựa. Dưới một hàng cây lê – một thời từng là vườn cây xum xuê? – tôi nằm xuống hưởng nhàn rỗi, một nghệ thuật tôi đã điêu luyện từ đợt dưỡng bệnh dài ngày. Một kẻ nhàn rỗi với một kẻ lười nhác khác nhau như người thích ăn ngon so với với đứa phàm ăn vậy. Ngắm niềm thỏa thích trên cao của những con chuồn chuồn có đôi có bạn. Nghe cả tiếng đập cánh của chúng, một âm thanh ngây ngất như tiếng giấy phần phật trong nan hoa xe đạp. Ngắm nghía một con sâu lười khám phá khu rừng Amazon tí hon quanh rễ cây nơi tôi nằm. Im lặng? Không hẳn vậy. Bị đánh thức lâu sau đó bởi những hạt mưa đầu tiên. Mây dông đang vần vũ. Ba chân bốn cẳng chạy về Zedelghem, nghe tiếng sấm gầm hối hả trong ống tai và cảm nhận những giọt mưa béo múp đầu tiên quất lên mặt như những gõ đàn xylophone. Chỉ kịp thay chiếc áo sạch duy nhất còn lại trước khi tiếng cồng ăn tối vang lên. Phu nhân Crommelynck xin lỗi, khẩu vị của chồng vẫn chưa khá hơn, còn tiểu thư
thì thích ăn một mình. Chẳng còn gì hợp ý tôi hơn. Lươn hầm, sốt rau mùi, mưa tí tách trên mái hiên. Không như nhà Frobisher hay phần lớn những gia đình Anh mà tôi biết, các bữa ăn ở lâu đài không diễn ra trong im lặng, phu nhân C. kể một chút với tôi về gia cảnh của mình. Gia tộc Crommelynck đã sống ở Zedelghem kể từ những ngày xa xưa khi mà Bruges còn là cảng biển thịnh vượng bậc nhất châu Âu (bà ấy bảo thế, cũng khó mà kiểm chứng) khiến Eva trở thành niềm hãnh diện của dòng họ trong sáu thế kỷ qua. Tôi phải thừa nhận là mình có thiện cảm với bà ấy chút đỉnh. Bà ấy kể chuyện như đàn ông và hút thuốc lá nhựa thơm qua ống tẩu bằng sừng tê giác. Tuy nhiên bà ấy cũng sẽ tinh ý nhận ra nếu bất kỳ món đồ quý giá nào biến mất. Họ từng bị người hầu nẫng đồ đạc trong nhà, bà ấy tình cờ nhắc đến chuyện này, thậm chí một, hai vị khách nghèo cũng làm thế, nếu tôi tin nổi rằng con người có thể xử sự một cách hèn hạ như thế. Trấn an bà ấy rằng bố mẹ tôi từng gặp hoàn cảnh tương tự, và dò hỏi về bài biểu diễn của tôi.
Ông nhà tôi mô tả phần trình diễn Scarlatti của anh là ‘còn cải thiện được’. Vyvyan khước từ sự tán thưởng, cả lúc cho lẫn lúc nhận. Ông ấy bảo, ‘Nếu người ta tán thưởng anh, thì anh sẽ không còn đi trên con đường của riêng mình nữa.’
Hỏi thẳng bà ấy có nghĩ rằng lão sẽ đồng ý nhận tôi hay không.
Tôi cũng hi vọng như vậy, Robert ạ.
(Nói cách khác, hãy đợi xem sao.)
Anh phải hiểu, ông ấy đã tuyên bố sẽ không bao giờ sáng tác một nốt nhạc nào nữa. Làm thế khiến ông ấy đau đớn khôn tả. Làm sống lại hi vọng rằng ông ấy có thể sáng tác trở lại – nói thật, đó không phải là một trò mạo hiểm dễ chấp nhận.
Chủ đề khép lại. Tôi kể chuyện gặp Eva chiều hôm đó, và phu nhân C. tuyên bố,
Con gái tôi thật bất lịch sự.


Khép kín,
là câu trả lời hoàn hảo của tôi.
Chủ nhà rót thêm rượu vào ly tôi.
Eva có tính khí khó dung hòa. Chồng tôi rất ít quan tâm đến việc dạy dỗ con bé trở thành thục nữ. Ông ấy vốn không muốn có con. Cha và con gái thường lúc nào cũng quấn quýt với nhau, phải không nào? Ở đây thì không. Các giáo viên nói Eva rất chăm học, nhưng kín tiếng, và nó chưa bao giờ thử phát triển bản thân trong lĩnh vực âm nhạc. Tôi thường cảm thấy mình chẳng biết gì về con bé cả.
Tôi rót rượu vào ly của phu nhân C. và bà có vẻ vui lên.
Nghe tôi than vãn mới chán chứ. Tôi chắc chắn những cô em gái của anh là những đóa hồng Anh quốc đoan trang mẫu mực, đúng không, quý ông?
Khá nghi ngờ mối quan tâm dành cho nhà Frobisher của quý bà đây là thành thật, nhưng bà ta thích nhìn tôi nói chuyện, vì thế tôi đã tô vẽ những bức biếm họa dí dỏm về dòng họ đã cách ly của mình để mua vui cho bà chủ nhà. Làm cho tất cả mọi người nghe có vẻ thật vui tươi, suýt nữa thì cảm thấy nhớ nhà.
Sáng nay, thứ Hai, Eva chiếu cố cùng dùng bữa sáng – thịt xông khói Bradenham, trứng, bánh mì, thứ gì cũng có – nhưng cô nàng liên tục kêu ca những chuyện vặt vãnh với mẹ và gạt phăng mọi câu đưa chuyện của tôi với một tiếng
oui
(vâng) thờ ơ hoặc một tiếng
non
(không) cụt lủn. Ayrs đã cảm thấy khỏe hơn nên cũng ăn cùng chúng tôi. Sau đó Hendrick chở cô con gái đến Bruges để bắt đầu một tuần học mới – Eva ở trong thành phố với một gia đình có con gái học cùng trường, gia đình Van Eel hay đại loại thế. Cả lâu đài thở phào một tiếng nhẹ nhõm khi chiếc Cowley biến mất khỏi con đường bạch dương (còn có tên Con đường Tu sĩ). Eva quả thật đầu độc không khí nơi này. Lúc chín giờ, Ayrs và tôi gặp nhau trong phòng âm nhạc.
Trong đầu tôi cứ văng vẳng một giai điệu đàn viola, Frobisher ạ. Để xem cậu có ghi lại được không.
Rất vui khi nghe điều này, vì tôi đã chuẩn bị tinh thần bắt đầu làm những công việc hời hợt hơn – chẳng hạn như sắp xếp những bản thảo nguệch ngoạc thành những tập hoàn chỉnh, đại loại như thế. Nếu tôi chứng tỏ giá trị của mình là ngòi bút tinh tế của V.A. trong ngày đầu tiên thì chuyện tôi được tá túc ở đây là gần như chắc chắn. Ngồi vào bàn của lão, bút chì 2B đã chuốt sẵn, giấy viết bản thảo mới tinh, chờ đợi lão gọi tên nốt nhạc, từng nốt một. Bất thình lình, lão già rống lên:
Tar, tar! Tar-tar-tar tattytattytatty, tar!
Ghi chưa?
Tar! Tatty-tar! Quãng lặng – tar-tar-tar-tttt-TAR! TARTARTAR!!!
Ghi chưa? Lão già rõ ràng nghĩ là chuyện này rất vui – chẳng ai ghi kịp tiếng la hét của lão, làm được chuyện này cũng giỏi như ghi lại tiếng be be của hàng chục con lừa vậy – nhưng sau thêm ba mươi giây nữa, tôi nhận ra đây không phải là trò đùa. Cố cắt ngang, nhưng lão quá chìm đắm vào việc sáng tác nhạc đến nỗi chẳng màng đến gì khác. Chìm vào bất hạnh sâu sắc trong khi Arys cứ tiếp tục, tiếp tục, tiếp tục... Kế hoạch của tôi thật vô vọng. Tôi đã nghĩ gì ở ga Victoria vậy nhỉ? Nản chí, tôi để lão rống hết bản nhạc với hi vọng mong manh rằng đợi nó kết thúc trong đầu lão thì sau đó sẽ dễ chép lại hơn.
Đấy, xong rồi!
lão tuyên bố.
Được chưa? Ngâm lại xem, Frobisher, để nghe xem thế nào.

Hỏi đấy là cung gì.
Si giáng, tất nhiên rồi!

Nhịp? Ayrs bóp sống mũi.
Ý cậu là cậu đã làm mất giai điệu của tôi đấy à?

Đấu tranh tư tưởng để nhắc bản thân rằng lão già này hoàn toàn phi lý. Tôi đề nghị lão lặp lại giai điệu, chậm hơn nhiều
, và gọi tên các nốt, từng nốt một. Có cảm giác như khoảnh khắc im lặng kéo dài ba giờ đồng hồ trong khi Ayrs quyết định liệu có nên nổi khùng lên hay không. Cuối cùng, lão buông tiếng thở dài ai oán.
Bốn- tám
, đổi sang tám-tám
sau vạch thứ mười hai, nếu cậu nhớ được xa đến đó.
Dừng lại. Nhớ đến những khó khăn tài chính của bản thân và cắn môi.
Bắt đầu lại từ đầu xem nào.
Khoảng lặng bề trên.
Bây giờ sẵn sàng chưa? Chậm rãi...
Tar! Đấy là nốt gì?
Trải qua nửa giờ đọa đày đoán từng nốt nhạc, từng nốt một. Ayrs xác nhận hoặc phủ nhận phỏng đoán của tôi với một cái gật đầu hoặc lắc đầu uể oải. Phu nhân C. đem vào một lọ hoa và tôi làm vẻ mặt cầu cứu, nhưng chính V.A. tuyên bố ngày hôm ấy thế là đủ. Trong lúc chạy tháo thân, tôi nghe Ayrs tuyên bố (vì lợi ích của tôi?),
Nản thật, Jocasta ạ, thằng bé không thể ghi lại một điệu nhạc đơn giản. Không chừng tôi phải gia nhập trường phái Tiên phong rồi ném phi tiêu lên mấy tờ giấy có nốt nhạc kẻ sẵn mà thôi.

Ở lối đi, bà quản gia Willems càm ràm về thời tiết ẩm ương, gió máy và quần áo phơi mãi không khô của bà với một bộ hạ nào đấy không thấy rõ mặt. Bà còn đỡ hơn tôi. Tôi đã thao túng người khác để được tiến thân, hưởng sắc dục hoặc tiền vay mượn, nhưng chưa bao giờ để có mái nhà che mưa nắng trên đầu. Tòa lâu đài mục nát này bốc mùi nấm mốc. Lẽ ra tôi đã không bao giờ nên đặt chân đến đây.
Thân mến,
R.F.
Tái bút:
Nỗi hổ thẹn
tài chính, thật là một từ thích hợp. Anh xem, phải hỏi vay tiền anh rồi. Đế chế ở Zedelghem là chế độ lỏng lẻo nhất mà tôi từng thấy (cũng may! Tủ quần áo quản gia của bố tôi còn đầy đủ hơn của tôi vào lúc này) nhưng mỗi người đều cần đặt ra một số quy tắc chuẩn mực. Thậm chí không boa nổi cho những người hầu. Nếu tôi còn bạn bè giàu có, tôi sẽ hỏi mượn họ, nhưng sự thật là tôi không có. Không biết anh sẽ chuyển tiền hay gửi điện tín hay gửi trong gói hàng hay gì gì, nhưng anh là nhà khoa học mà, anh sẽ tìm ra cách thôi. Nếu Ayrs buộc tôi phải đi, thì tôi sẽ toi đời. Tin tức sẽ thẩm thấu về Cambridge rằng Robert Frobisher phải xin tiền từ những chủ nhà cũ khi họ tống cổ hắn đi vì không làm được việc. Sự hổ thẹn sẽ giết chết tôi, Sixsmith ạ, thực sự đấy. Vì Chúa hãy gửi bất cứ thứ gì anh có thể ngay đi.
= =
[13] Sergei Prokofiev (1891-1953): nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm và chỉ huy dàn nhạc người Nga
[14] Nhà soạn nhạc người Ý Giuseppe Domenico Scarlatti (1685-1757). Đây là một trong 555 bản sonata viết cho đàn clavico của ông.
[15] Neferttiti (1370 trước Công Nguyên – 1330 trước Công Nguyên) là vợ của Pharaoh Ai Cập Akhenaten. Họ đã cùng nhau làm thay đổi tục lệ tín ngưỡng của Ai Cập, từ thờ phụng nhiều thần sang một vị thần là thần Aten (đĩa mặt trời). Nefertiti được nhắc đến với nhiều danh xưng khác nhau như người sở hữu sự duyên dáng, đem lại hạnh phúc, Nữ hoàng ngọt ngào,...
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Bản Đồ Mây.