• 388

Thứ Hai, ngày 11 tháng 11


Nguyễn Thị Thanh Trúc dịch
Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành
Bình minh ẩm ương & mờ mịt. Từ xa xa vịnh hiện ra mờ ảo, nhưng thời tiết vẫn cho phép việc sửa chữa tiếp tục với tàu Prophetess
, tôi thầm cám ơn Thần Biển. Trong lúc tôi viết nhật ký, một nóc cột buồm mới đang được kéo lên.
Không lâu sau, trong lúc Henry & tôi đang dùng điểm tâm, ông Evans hớt hải chạy đến, nài nỉ ông bạn bác sĩ của tôi đến khám cho một người hàng xóm sống một mình, bà góa Bryden, bị ngã từ lưng ngựa xuống bãi đá. Bà Evans đang có mặt ở đó và lo lắng cho mệnh hệ của bà góa. Henry cắp vali thầy thuốc & nhanh chóng lên đường. (Tôi đề nghị đi cùng, nhưng ông Evans nài nỉ tôi ở lại, vì bệnh nhân đã buộc ông phải hứa không ai ngoại trừ bác sĩ được phép nhìn thấy bà ta trong lúc hoạn nạn.) Nghe lời qua tiếng lại, Walker nói với tôi rằng chưa có một người đàn ông nào bước chân qua ngưỡng cửa nhà bà góa trong hai chục năm qua & quả quyết
mụ già lãnh cảm ấy hẳn là phải đau đớn lắm mới chịu để bác sĩ Quàng Quạc thăm khám.

Nguồn gốc của người Moriori ở Rēkohu (từ địa phương để gọi Chatham) vẫn còn là ẩn số cho đến ngày nay. Ông Evans thì tin rằng tổ tiên của họ là những người Do Thái bị xua đuổi khỏi Tây Ban Nha, vì họ có mũi khoằm & môi vểnh. Còn giả thuyết của ông D’Arnoq, rằng người Moriori trước đây là những người Maori bị đắm tàu ở những hòn đảo xa xôi hẻo lánh nhất, thì dựa trên điểm giống nhau giữa ngôn ngữ & thần thoại & do đó có lý hơn. Chỉ biết chắc một điều là, sau nhiều thế kỉ hoặc thiên niên kỉ sống biệt lập, người Moriori có cuộc sống nguyên thủy chẳng khác gì những người anh em họ thiểu não ở xứ Van Diemen. Nghề đóng tàu (đòi hỏi nhiều kĩ thuật hơn so với những chiếc bè đan lát thô sơ dùng để băng qua kênh rạch trên các hòn đảo) & hàng hải đã trở nên vô dụng. Chuyện trên quả địa cầu này còn có những miền đất khác, in dấu chân người khác, là chuyện mà người Moriori không hề nghĩ đến. Kì thực, ngôn ngữ của họ không có từ để diễn tả
chủng tộc
&
Moriori
đơn giản có nghĩa là
Người
. Ngành chăn nuôi không tồn tại, vì chẳng có loài động vật hữu nhũ nào sống trên quần đảo này cho đến khi những chiếc tàu đánh cá voi chủ đích bỏ lợn lại đây để nhân giống. Ở tình trạng nguyên thủy, người Moriori sống bằng săn bắt hái lượm, mò cua bắt ốc, nhặt trứng chim, săn hải cẩu, vớt tảo biển & đào ấu trùng & củ rễ. Đến thời điểm này, người Moriori vẫn chỉ là một biến thể địa phương của những thổ dân mặc váy lá dừa, khoác áo lông vũ tại những
điểm mù
ngày càng ít đi trên đại dương mà chưa được người da trắng phát hiện. Tuy nhiên, điểm độc đáo của Cựu Rēkohu nằm ở tín ngưỡng hòa bình độc nhất vô nhị của nó. Từ những ngày khai thiên lập địa, tầng lớp cúng tế Moriori đã răn dạy kẻ nào làm cho người khác đổ máu thì cũng giết chết mana
– danh dự, nhân phẩm, địa vị & linh hồn của mình. Không một người Moriori nào chứa chấp, nuôi ăn, nói chuyện với, hay thậm chí nhìn mặt kẻ bị ruồng bỏ
. Nếu kẻ sát nhân bị xua đuổi sống sót qua mùa đông đầu tiên, thì nỗi tuyệt vọng vì cô độc thường sẽ đưa gã đến một hố phun nước trên Mũi Trẻ, nơi gã tự kết liễu cuộc đời mình. Hãy xem xét yếu tố này, ông D’Arnoq bảo chúng tôi. Hai nghìn người mọi rợ (con số phỏng đoán của ông
Evans) tuyên thệ thành lời Không ai được giết người
& thực sự làm vậy
& lập một
Hiến pháp
bằng lời để tạo ra một sự hòa hợp không có ở bất kì nơi nào khác trong suốt sáu mươi thế kỉ kể từ ngày Adam nếm trái Cây Thông Thái. Chiến tranh là một khái niệm xa lạ với người Moriori, cũng như kính viễn vọng là khái niệm xa lạ với người Pygmy vậy. Hòa bình,
không phải một khoảng thời gian tạm nghỉ giữa các cuộc chiến, mà là những thiên niên kỉ thái bình bất diệt, thống trị những hòn đảo xa tít này. Ai có thể phủ nhận rằng xứ Cựu Rēkohu nằm gần với xã hội không tưởng của More hơn các thể chế tiến bộ do những ông hoàng con thèm khát chiến tranh cai trị ở Versailles & Vienna, Washington & Westminster?
Đây,
ông D’Arnoq tuyên bố,
và chỉ có đây, mới có những cảnh không tưởng như thế, những con người mọi rợ quý tộc thượng lưu, bằng xương bằng thịt!
(Trên đường trở về Musket
sau đó, Henry nhận xét,
Tôi không thể nào gọi một chủng tộc mọi rợ lạc hậu đến nỗi không biết ném lao thế nào cho thẳng là ‘quý tộc’ cả.
)
Thủy tinh & hòa bình đều để lộ đặc tính sự mong manh khi chịu những va chạm liên tiếp. Cú đánh đầu tiên vào người Moriori chính là quốc kỳ Anh, được Đại úy Broughton của tàu Hải quân Hoàng gia Anh mang tên Chatham
cắm lên Vịnh Giao Tranh nhân danh Vua George cách nay năm mươi năm. Ba năm sau đó, phát hiện của Broughton được biết đến ở những công ty hàng hải ở Sydney & London & đã có lác đác những người định cư tự do (trong số đó có cụ thân sinh của ông Evans), những thủy thủ đắm tàu &
những tên tội phạm bất đồng với Văn Phòng Thuộc Địa New South Wales về thời gian giam giữ
bắt đầu thu hoạch bí ngô, hành tây, bắp ngô & cà rốt tại nơi đây. Họ bán những món này cho thợ săn hải cẩu, một cú đánh thứ hai vào độc lập tự chủ của người Moriori, bởi họ làm tan vỡ hy vọng thịnh vượng của người dân bản xứ khi nhuộm hồng nước biển với máu hải cẩu. (Ông D’Arnoq minh họa lợi nhuận bằng công thức – một tấm da hải cẩu bán được 15 shi-linh ở Quảng Châu & những người thợ săn tiên phong đó đã thu được hơn hai nghìn bộ da mỗi chuyến
!) Chỉ trong vòng vài năm, loài hải cẩu chỉ còn tìm thấy ở những rặng đá xa bờ & cả những
thợ săn hải cẩu
cũng chuyển sang trồng khoai tây, nuôi cừu & lợn trên quy mô lớn đến nỗi Chatham được đặt tên là
Khu Vườn Thái Bình Dương.
Những nông dân mới phất này khai khẩn bằng cách đốt rừng, để lại tàn lửa âm ỉ dưới lớp than bùn qua nhiều mùa, biểu hiện qua những đợt hạn hán gieo rắc thêm tai ương mới.
Cú đánh thứ ba vào người Moriori là những thợ săn cá voi, giờ tấp nập ghé vào Vịnh Đại Dương, Waitangi, Owenga & Te Whakaru với số lượng lớn để tìm việc, sửa tàu & nghỉ ngơi. Mèo & chuột trên tàu săn cá voi sinh sôi nảy nở như Dịch hạch Ai Cập & ăn hết những con chim làm tổ trong hang, trứng của loài chim này là nguồn thức ăn quý của người Moriori. Thứ tư, những dịch bệnh tạp nham tiêu diệt các chủng tộc có màu da sậm hơn mỗi khi nền văn minh Da trắng tiến đến gần, càng khiến dân số người bản xứ suy giảm.
Những bất hạnh này người Moriori vẫn có thể gánh chịu được, thế nhưng tin tức đã truyền đến Tân Tây Lan, mô tả Chatham như một xứ Canaan có thật với những đầm phá đầy ắp cá tôm & cư dân chẳng biết gì về chiến đấu hay vũ khí. Với Ngati Tama & Ngati Mutunga, hai bộ lạc Maori thuộc bộ tộc Te Ati Awa ở Taranaki (ông D’Arnoq quả quyết với chúng tôi rằng phả hệ của người Maori cũng chi chít như những cây phả hệ mà giới quý tộc châu Âu vốn tôn kính; kì thực, bất kì bé trai nào của chủng tộc mù chữ ấy đều có thể gọi đúng tên của ông cụ ông kỵ &
thứ hạng
tổ tiên trong nháy mắt), những tin đồn này hứa hẹn sẽ bù đắp cho đất đai tổ tiên của họ bị mất trong các
Cuộc Chiến Hỏa Mai
trước đó. Gián điệp được cử đến để thăm dò tính khí của người Moriori bằng cách vi phạm những điều cấm kỵ & cướp bóc các thánh tích. Người Moriori đối mặt với sự khiêu khích này như Chúa của chúng ta đã dạy, bằng cách
chìa má bên kia ra
, & những kẻ vi phạm trở về Tân Tây Lan để xác nhận rằng người Moriori rất nhu nhược. Những kẻ chinh phạt Maori với hình xăm đầy mình tìm ra đội tàu của Thuyền trưởng Harewood, chỉ huy của chiếc tàu hai buồm Rodney
. Vào những tháng cuối năm 1835, Harewood đã đồng ý chở chín trăm người Maori & bảy chiếc xuồng chiến trên hai chuyến tàu, để đổi lấy khoai tây giống, vũ khí, lợn, một lượng lớn sợi lanh & một súng đại bác. (Cách đây năm năm, ông D’Arnoq đã gặp Harewood, nghèo kiết xác trong một quán rượu ở Vịnh Đa Đảo. Thoạt tiên ông ta phủ nhận mình là thuyền trưởng Harewood của tàu Rodney
, sau đó lại thề rằng mình đã bị dụ dỗ để làm việc đó.) Rodney
khởi hành từ cảng Nicholas vào tháng 11, nhưng kiện hàng gồm năm trăm người đàn ông, đàn bà & trẻ con, nhét chặt như cá hộp trong suốt hành trình sáu ngày, chen chúc trong mùi hôi & say sóng & thiếu thốn thứ cơ bản nhất là nước, đã thả neo tại lạch Whangatete trong tình trạng thê thảm đến nỗi, nếu muốn
, người Moriori đã có thể tiêu diệt những người anh em chiến binh của họ. Những người bản xứ hào hiệp đã chọn cách chia sẻ tài nguyên đang cạn kiệt của Rēkohu thay vì đánh mất mana
bằng cách làm đổ máu & chăm sóc những người Maori ốm đau & hấp hối cho đến khi họ khỏe mạnh trở lại.
Người Maori trước đó từng đến Rēkohu rồi,
ông D’Arnoq giải thích,
nhưng sau đó lại đi, nên người Moriori cứ đinh ninh những kẻ thực dân này cũng sẽ ra đi trong hòa bình.

Lòng quảng đại của người Moriori đã được tưởng thưởng khi thuyền trưởng Harewood trở lại từ Tân Tây Lan với thêm bốn trăm người Maori nữa. Lúc này những người lạ bắt đầu chiếm Chatham theo takahi
, một tục lệ của người Maori dịch thành
Đi lên đất nào thì sở hữu đất ấy.
Và như thế Cựu Rēkohu đã bị chia năm xẻ bảy & người Moriori được thông báo từ nay họ đã trở thành chư hầu của người Maori. Vào đầu tháng 12, một số người bản xứ phản kháng đã bị trảm bằng rìu. Người Maori chứng tỏ họ là những học trò xuất sắc của người Anh trong
nghệ thuật thực dân hóa.

Đảo Chatham bao quanh một phá nước mặn rộng lớn ở phía đông, tên là Te Whanga, gần giống như biển trong đất liền nhưng được bồi đắp bằng đại dương khi thủy triều lên thông qua
miệng
phá ở Te Awapatiki. Mười bốn năm trước, người Moriori đã tổ chức một nghị viện trên mảnh đất thiêng đó. Nghị viện kéo dài ba ngày, với mục tiêu tìm lời đáp cho câu hỏi: Liệu làm cho người Maori đổ máu có hủy hoại mana
không? Các thanh niên lập luận rằng tín ngưỡng Hòa bình không bao hàm những kẻ ăn thịt người ngoại quốc mà tổ tiên họ chẳng hề biết đến. Người Moriori phải giết người nếu không muốn bị giết. Các bậc cao niên thì kêu gọi kiềm chế, vì chừng nào người Moriori còn gìn giữ mana
với đất đai của họ, thì các thánh thần & tổ tiên sẽ giúp đưa chủng tộc này thoát khỏi tai ương. Các bậc cao niên dạy dỗ,
Hãy ôm kẻ thù của mình, để họ không tấn công ta.
(Henry nhạo thành,
Hãy ôm kẻ thù của mình, để thấy dao găm của hắn thọc vào thận ta.
)
Những bậc cao niên đã thắng thế ngày hôm đó, nhưng điều này chẳng có ý nghĩa gì.
Dù không giành thế thượng phong về quân số,
ông D’Arnoq nhận định,
nhưng người Maori lại tận dụng lợi thế là kẻ tấn công đầu tiên & mạnh nhất, như nhiều người Anh & Pháp vắn số có thể xác nhận từ đáy mồ.
Bộ lạc Ngati Tama & Ngati Mutunga đã lập ra những hội đồng riêng. Trở về sau buổi họp nghị viện, người Moriori bị mai phục & trải qua một đêm tồi tệ hơn cả ác mộng, bị tàn sát, làng mạc bị đốt, cướp bóc, đàn ông & đàn bà bị đóng cọc xuyên qua người thành hàng trên bãi biển, trẻ con trốn trong hang hốc, bị chó săn đánh hơi & xé xác. Một vài tộc trưởng biết tính toán đến mai sau & chỉ sát hại vừa đủ để những người còn lại biết sợ mà phục tùng. Những tộc trưởng khác thì không kiềm chế như vậy. Trên bãi biển Waitangi, năm mươi người Moriori đã bị chặt đầu, lóc thịt, gói bằng lá cây lanh rồi nướng trong một lò nướng bằng đất khổng lồ cùng khoai sắn. Trong số những người Moriori được nhìn thấy hoàng hôn cuối cùng của Cựu Rēkohu, chưa đến một nửa còn sống để thấy bình minh đầu tiên của Maori. (
Hiện nay có chưa tới một trăm người Moriori thuần chủng còn sống,
ông D’Arnoq cảm thán,
Trên giấy tờ
Vương triều Anh Quốc đã giải phóng những con người này khỏi ách nô lệ nhiều năm trước, nhưng người Maori chẳng quan tâm gì đến giấy tờ. Từ đây đến Dinh Thống đốc mất một tuần đi tàu & Nữ hoàng không cử quân đồn trú trên Chatham.
)
Tôi hỏi, tại sao người da trắng không ngăn chặn người Maori trong cuộc thảm sát đó?
Ông Evans không còn ngủ nữa & không đến nỗi nặng tai như tôi tưởng.
Ông có bao giờ thấy các chiến binh Maori trong cơn khát máu chưa, ông Ewing?
Tôi trả lời chưa.

Nhưng ông đã nhìn thấy cá mập trong cơn khát máu rồi, phải không?

Tôi đáp mình đã thấy.

Gần giống như vậy. Hãy tưởng tượng một bắp chân chảy máu nhúng xuống vùng nước có nhiều cá mập. Phải làm gì – tránh xa vùng nước đó hay cố gắng ngăn chặn bầy cá mập? Đó là lựa chọn của chúng tôi. Cơ mà, chúng tôi cũng giúp một số ít những người tìm đến chúng tôi đấy chứ – gã chăn cừu Barnabas của chúng tôi là một trong số đó – nhưng nếu chúng tôi bước ra ngoài đêm hôm đó thì giờ đây chúng tôi đâu còn ngồi đây nữa. Hãy nhớ, có chưa đến năm mươi người da trắng trên Chatham vào lúc đó. Có tổng cộng chín trăm người Maori. Người Maori phục tùng Pakeha
, nhưng họ căm ghét chúng ta, ông Ewing ạ. Đừng bao giờ quên điều đó.

Chân lý rút ra là gì? Hòa bình, dù với tình yêu của Chúa, là một giá trị cốt lõi chỉ khi nào láng giềng có cùng lương tâm với ta.
= =
Chú thích:
Canaan: tên gọi trong Kinh thánh chỉ một khu vực ở Palestine cổ.
Cuộc Chiến Hỏa Mai (Musket Wars): Khoảng năm trăm trận đánh lớn nhỏ giữa các bộ lạc Maori với nhau ở New Zealand, diễn ra từ năm 1807 đến 1842, sau khi người Maori mua được súng hỏa mai.
= =
Buổi tối

Cái tên D’Arnoq không được yêu mến lắm tại Musket
.
Một lão Đen Trắng, lai tạp,
Walker nói với tôi.
Chẳng ai biết lão là thứ gì
.
Suggs, một gã chăn cừu cụt một cánh tay lúc nào cũng có mặt ở quầy bar, nói chắc như đinh đóng cột rằng người quen của chúng tôi là một tướng quân phò Nã Phá Luân ẩn nấp ở đây sau lớp vỏ ngụy trang. Một người khác thì cam đoan ông ta là người Ba Lan.
Cái tên
Moriori
cũng chẳng được yêu mến hơn. Một người Maori lai da trắng nói với tôi rằng toàn thể lịch sử của giống người thổ dân này chỉ là sản phẩm tưởng tượng của
những lão già thần kinh theo Luther giáo
, & ông D’Arnoq rao giảng về người Moriori chẳng qua là để hợp thức hóa những vụ lừa đảo giành đất của ông ta với người Maori, những người chủ thực sự của đảo Chatham, những người đã lui tới nơi này bằng xuồng từ đời nảo đời nao! James Coffee, một chủ trang trại nuôi lợn, nói người Maori đã giúp người da trắng bằng cách loại bỏ một chủng tộc mọi rợ để có chỗ cho chúng tôi, rồi nói thêm rằng người Nga huấn luyện người Cô-dắc để
làm mềm da thú Siberia
cũng nhằm mục đích tương tự.
Tôi không đồng tình, phản biện rằng sứ mệnh của chúng ta là khai hóa
các chủng tộc da đen bằng cách cải đạo họ, không phải tận diệt họ, vì họ cũng được tạo ra từ bàn tay của Chúa. Mọi người trong quán rượu tấn công tôi tới tấp vì
giọng điệu ủy mị láo toét của bọn Mỹ!

Những kẻ tốt nhất trong bọn chúng cũng sẽ chết như một con lợn!
một người hét ầm lên.
Đức tin duy nhất mà bọn da đen nằm lòng
là tin vào cái roi!
Lại một người nữa:
Người Anh chúng tôi đã bãi bỏ chế độ nô lệ ở vương quốc chúng tôi rồi – có người Mỹ nào dám tuyên bố như thế không hử!

Phản ứng của Henry khá mâu thuẫn, nói một cách đơn giản là vậy.
Sau nhiều năm làm việc với các nhà truyền đạo, tôi buộc lòng kết luận rằng những nỗ lực của họ chỉ càng kéo dài cơn quằn quại của một chủng tộc đang hấp hối thêm mười, hai mươi năm nữa mà thôi. Người thợ cày từ bi là người bắn chết con ngựa chăm làm khi nó quá già không thể phục dịch được nữa. Là những người từ ái, phải chăng nghĩa vụ của chúng ta là xoa dịu nỗi thống khổ của những người mọi rợ bằng cách đẩy nhanh sự diệt vong của họ? Hãy nghĩ đến những người da đỏ ở quê hương của ông đi, Adam, hãy nghĩ đến những hòa ước mà người Mỹ các ông bãi bỏ & vi phạm, hết lần này đến lần khác. Nhân văn hơn, chắc chắn rồi, & chân thật hơn, là chỉ cần đập đầu những người mọi rợ & thế là xong?

Mỗi người một chân lý. Đôi lúc, tôi thoáng nhận ra một Chân lý chân thực hơn, ẩn sau ảo ảnh không hoàn hảo của chính nó, nhưng khi tôi tiến lại gần, nó cựa quậy & lún sâu hơn vào vũng lầy gai góc của những quan điểm bất đồng.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Bản Đồ Mây.