• 74

Chương 2: Điều không thể


Số từ: 4041
Người dịch: Xuân Hồng
Nxb Hội Nhà Văn
Phản ứng tức thì của Edward Watkins là móc cây đèn cảnh sát ra để bảo đảm mình không phải là nạn nhân của một trò chơi khăm. Rồi ông lao bổ tới phố Goring để đuổi theo Marcus. Đến ngã tư giao với Bevis Marks, không nhìn thấy một bóng người nào, ông dừng lại. Kẻ bỏ trốn kia chỉ cần chuồn trước ông độ hai mươi giây là kịp lẩn được vào bất kỳ lối đi và ngõ hẻm nào trong số cả nửa tá mà gã nhìn thấy. Watkins rúc mạnh còi, chạy trở lại phố Goring một cách vô vọng. Ông lao qua Bevis Marks, lùng sục phố Bury và phổ Duke, nhưng đều vô ích. Một lúc sau, ông gặp cảnh sát viên Harvey đang đi tuần gần đó. Ông giải thích tình hình và cả hai trở lại ngõ hẻm kia. Dưới ánh sáng của hai cây đèn, họ im lặng xem xét cái xác nằm trong thùng rác. Đó là một thanh niên đã được gập người lại để hai đầu gối co lên tận cằm. Watkins kéo mạnh mớ tóc đen gợn sóng để nhìn rõ mặt. Nước da nạn nhân bệch bạc còn nét mặt co cứng biểu thị sự đau đớn cùng cực. Dưới mắt có quầng và mí mắt thâm tím. Một vết thương rất kỳ lạ dưới cố và hai gò mà có những đốm lớn.

Trừ phi tôi lú lẫn,
Harvey nhận xét,
còn không, anh chàng tội nghiệp này ốm rất nặng. Cứ nhìn mặt anh ta xem.

Watkins buông mái tóc như thể nó đang đốt cháy tay ông vậy. Sau đó, theo đề nghị của đồng nghiệp, ông kể lại các chi tiết liên quan đến phát hiện ghê rợn của mình.

Một câu chuyện thật khó tin,
Harvey nói.
Anh có chắc cái xác không hề ở đó trong lần đầu tiên anh nhìn vào thùng rác không?


Chắc chắn,
Watkins trả lời.
Tôi biết đó là điều không thể và sẽ chẳng ai chịu tin tôi…


Khoan đã,
Harvey nói.
Khi kiểm tra thùng rác đối diện, anh quay lưng lại Marcus à?


Tôi hiểu ý anh. Gã có thể tranh thủ lúc bấy giờ để nhét cái xác đang nằm… đâu đó vào thùng rác.


Đúng, và anh sẽ không phát giác ra hành động này do những tiếng ồn anh tao ra trong lúc lục soát thùng rác kia.

Watkins lắc đầu.

Rất tiếc, không thể như vậy được. Như anh thấy đấy, chỗ này đủ sáng. Làm gì có chuyện tôi không nhìn thấy cái xác nếu nó nằm đó. Chẳng có chỗ nào mà giấu. Thêm nữa, không hề có lấy một ô cửa sổ nhìn xuống ngõ hẻm này. Còn một khả năng mong manh nữa là nó có thể bị bức tường đằng sau thùng rác kia che khuất,
ông trở thùng rác bên cạnh cái thùng chứa nạn nhân xấu số.

Hoặc thậm chí bên trong.


Khả năng đó còn thấp hơn, bởi tôi chỉ xoay lưng lại chừng năm, sáu giây. Không lâu hơn, tôi dám chắc như vậy. Anh biết rõ mang vác một cái xác chết khó khăn như thế nào rồi đấy. Không thể nào nhét cái xác vào thùng trong khoảng thời gian ngắn như vậy được. Đặc biệt với tình trạng của anh chàng tội nghiệp này. Chắc chắn đó là công việc cực kỳ khó khăn.


Đúng,
Harvey rầu rĩ thừa nhận.
Đúng, để tôi gọi thêm chi viện.

Watkins theo đồng nghiệp tới góc phố Bevis Marks. Những hồi còi vang vọng của ông đã đánh thức cả khu. Một vài cánh cửa sáng lên, bên trong ô cửa sổ tầng trệt của một ngôi nhà ở góc phố Goring nằm cách ngõ hẻm ít nhất ba mươi thước, ông nhìn rõ hai khuôn mặt áp vào kính. Cảm thấy băn khoăn với những biểu hiện tò mò bệnh hoạn như vậy, ông trừng mắt nhìn họ lúc băng qua.
Được vài bước, Watkins nghe tiếng cửa sổ mở ra sau lưng mình. Ông xoay lại, sẵn sàng nện bất cứ kẻ nào xuất hiện nhưng vẻ mặt phờ phạc của người đàn ông ló đầu ra đã khiến ông thay đổi ý định.

Xin lỗi ông, ông sĩ quan,
một giọng run run cất lên,
ông đã tìm thấy anh ấy chưa?


Ông đang nói về ai vậy?


Người ở trọ chỗ chúng tôi, David Cohen. Anh ấy bị ốm nặng và…


Ôi dào!
Watkins xẵng giọng, vì cả tiếng qua đã rất bận rộn rồi.
Còn đi dạo được tức là không ốm nặng quá đâu.


Nhưng ông không biết ư?
Người đàn ông sợ hãi.
Anh ấy biến mất khỏi hành lang và anh ấy mắc dịch hạch.

Watkins cảm thấy hai đầu gối mình nhũn ra. Ông đang sống trong cơn ác mộng. Ông đứng đó một lúc lâu để quan sát lão giả như vừa bước ra từ một cuốn tiểu thuyết của Dickens. Một bóng ma, hay chính xác hơn là Lão Hà Tiện, với cái mũi nhọn và đôi môi mỏng. Một người phụ nữ tóc bạc đứng sau lão, cũng mang nét mặt hốc hác: chắc là bà vợ. Chính vào thời khắc đó, ông nhận ra trên cổ họ cũng đeo cái túi vải bố giống bác sĩ Marcus.

Các bác sĩ không cảnh báo ông ư?
lão già hỏi.

Bác sĩ nào?
Watkins cảm thấy khó khăn lắm mình mới bật ra được những lời ấy.

Bác sĩ Ross, Sheldon và… tên người kia là gì nhỉ, Emily?


Bác sĩ Marcus,
mụ vợ trả lời.
Watkins móc khăn tay, nhấc mũ lên, và lau mồ hỏi trên trán. Đêm càng dài, ông càng thấy thắc mắc vì mọi việc. Những lời tiếp theo của hai vợ chồng nhà Minden cũng chẳng giúp ích gì. Ngược lại, lời khai vắn tắt và rời rạc của họ còn khó hiểu hơn bất kỳ điều gì ông từng nhìn thấy hoặc nghe thấy.
Nhưng ít nhất ông biết mình không hề nằm mơ. Phần mô tả của họ về bác sĩ Marcus khớp với nhân dạng gã điên ông gặp trong ngõ hẻm. Còn bác sĩ Ross và Sheldon, đeo mặt nạ trắng, đội mũ rộng vành và có mũi dài, không còn nghi ngờ gì nữa, ông đã nhìn thấy một trong số họ vào lúc 10 giờ trên phố Bury. Nhưng xử lý mọi việc sao đây? Và còn anh chàng thuê trọ đột nhiên bị nhiễm dịch hạch, kẻ đã biến mất khỏi hành lang như có phép thuật thì thế nào?

Anh chàng David Cohen này,
ông hỏi,
là một thanh niên có mái tóc gợn sóng màu đen phải không?

Họ gật đầu.
Bằng một cử chỉ đột ngột, viên cảnh sát giơ cánh tay lên và hãi hùng nhìn bàn tay phải của mình, bàn tay đã nắm tóc người chết.

Sao vậy, ông sĩ quan?
Louise Minden thắc mắc.

Không sao. Không có gì.


Ông không nghĩ chúng tôi nên tới bệnh viện sao? Với căn bệnh về…


Đừng lo. Một bác sĩ, một bác sĩ đích thực, sẽ đến đây trong vài phút nữa. Cho nên, giờ tôi muốn ông bà cho tôi vào trong để có thể ghi lại chi tiết lời khai của ông bà.

Mất chừng mười giây, cánh cửa bên trái ô cửa sổ mở ra. Louis Minden mời viên cảnh sát vào một tiền sảnh nhỏ, cánh cửa kính mờ mịt hơi nước dẫn tới một hành lang dài chìm trong bóng tối lờ mờ. Ngay bên trái là lối vào buồng cầu thang, còn bên phải là cửa căn buồng của chủ nhà. Mụ Minden đứng gần lối vào cầu thang, cái bóng gầy gò hiện lên trong ánh sáng lờ mờ.
Mụ ngoảnh nhìn về phía cầu thang và rầu rĩ nói:

Tất cả khách thuê phòng của chúng tôi đều sống trên gác… Trừ anh Cohen,
mụ nói thêm, trò một ngón tay xương xấu vào ô sáng hình chữ nhật phía cuối hành lang.
Watkins xem xét cải lối đi hẹp kết thúc ở cửa phòng vị khách trọ đã chết. Cánh cửa phòng mở toang, hắt thử ánh sáng ảm đạm lên hành lang lát gạch sẫm màu bốc mùi ẩm mốc. Trời lạnh và ẩm, nhiệt độ trong nhà còn thấp hơn bên ngoài. Chẳng hề thấy chút hơi ấm nào tỏa ra từ căn buồng của vợ chồng Minden, nơi dường như cũng lạnh lẽo và hắc ám như chính chủ nhân của nó.
Watkins nhìn quanh.

Ở đây không có đèn à?


Ờ… không,
Louis Minden yếu ớt trả lời.
Hành lang này chỉ dẫn tới phòng anh Cohen thôi, cho nên chúng tôi thấy không cần phải… Nhưng ở buồng cầu thang thì có đèn.


Phải. Chà, tôi vẫn đang nghe đây.


Chúng tôi ở trong phòng khách lúc nghe thấy những tiếng rên rỉ và kêu gào vọng ra từ phòng anh Cohen. Chúng tôi đến xem có chuyện gì.


Lúc ấy là mấy giờ?


Khoảng 10 giờ 20 phút. Tôi có nhìn đồng hồ. Chúng tôi ở đúng chỗ chúng tôi đứng lúc này, và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy cái bóng, phải là vài cái bóng, trong phòng anh Cohen. Cửa phòng anh ta mở, ông thấy đấy. Họ xếp hàng lần lượt, đối diện với chúng tôi, và có vẻ đang mang thứ gì đó ở giữa. Nhưng thực lòng, điều thật sự làm chúng tôi ngạc nhiên là trang phục lạ lùng cũng những cái mặt nạ nhợt nhạt… và những cái mũi dài ngoằng của họ. Có một người đội mũ chóp cao, gật đầu chào khi ông ta nhìn thấy chúng tôi. Ông có thể tới ngó phòng Cohen nếu ông muốn. Chúng tôi thì ở đây thôi. Ông có thể kiểm tra hành lang. Ông sẽ thấy không hề có khoảng hở nào từ đây đến phòng đó.

Sau một thoáng lưỡng lự, Watkins đi tới. Đúng là không hề có lối mở nào: không có cửa sập dưới sàn hay trần nhà, và không có cửa sổ hay cửa ra vào trong hành lang. Chẳng có gì ngoại trừ những viên gạch lát màu đỏ thắm và giấy dán tường màu lục đã cũ, phủ lên những chỗ vữa thủng bên dưới. Nửa chừng bên tay phải, ông nhận ra hình thù một khuôn cửa bên dưới lớp giấy dán tưởng đã bạc màu. Ông ngoái lại:

Cái gì đây?
ông chỉ tay hỏi.

À, vâng,
lão Minden giải thích.
Trước kia, có một cánh cửa nữa dẫn tới căn hộ của chúng tôi. Nó đã bị bịt kín khi chúng tôi sửa chữa.

Watkins đích thân kiểm tra để biết chắc rằng bức tường thực sự chắc chắn, rồi mới tiếp tục đi tới ngưỡng cửa phòng David Cohen. Ông dừng lại, úp tay che miệng và nhìn vào bên trong. Đó là một nơi tồi tàn với rất ít đồ đạc, bức tường ẩm thấp được sơn màu vàng nay đã bong tróc. Có một ô cửa sổ có chấn song nhưng không có rèm che trên bức tường đối diện cửa. Bên trái của sổ là một bồn rửa và bên phải là một lò nhỏ hình trụ. Có một chiếc tủ quần áo bằng gỗ thông dựa vào bức tường bên phải. Gần đó, ngay bên tay phải Watkins, là một cái giường sắt, cạnh đó là hộp đựng nhạc cụ, một đống bản nhạc, một gói thuốc lá, và cái gạt tàn.
Viên cảnh sát lần trở lại chỗ vợ chồng Minden và hai người này tiếp tục câu chuyện của họ mà chẳng cần phải giục.

Thế là chúng tôi cùng họ vào trong phòng. Hai vị bác sĩ dich hạch đứng ở đây, khiêng một cái cáng đặt anh Cohen tội nghiệp đang rên rỉ rất đau đớn. Gương mặt anh ta nhợt nhạt kinh khủng và trên mặt có những đốm lớn… cùng một vết thương đáng sợ ở cổ. Cái người có râu đó và đội mũ chóp cao cầm một ống tiêm trên tay. Ông ta cứ nói ‘Đừng sợ. Đừng sợ. Tôi chắc các vị là chủ nhà.’ Đương nhiên chúng tôi đáp
Phải’, và ông ta nói tiếp: ‘Tôi là bác sĩ Marcus, còn đây là bác sĩ Ross (người đứng ở phía trước cáng) và bác sĩ Sheidon (ông này gật đầu và lầm bầm vài từ). Người thuê nhà của ông bà bị ốm rất nặng. Chúng tôi có mọi lý do để tin rằng đó là dịch hạch.’

Louis Minden dừng lại rồi kể tiếp:

Ông có thể hình dung chúng tôi sốc thế nào không. Chúng tôi cứ đứng đờ ở đó mà chẳng nói được một lời, không tài nào hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Sau đó bác sĩ Marcus nhấc cái túi của ông ta lên và ra hiệu cho chúng tôi theo ông ta. Ra hành lang, ông ta bảo chúng tôi đừng lo, nhưng tốt nhất là nên phòng ngừa trước. Ông ta lấy từ túi ra hai cái lọ nhỏ, cùng hai gói được buộc với nhau bằng một sợi dây. Tôi không nhớ chính xác lời ông ta nói, nhưng đại để ông ấy nói thế này: ‘Đây, hai vị thân mến, đeo những thứ này quanh cổ. Bên trong có đủ các thảo dược khiến mọi loại sâu bọ tránh xa. Lọ này thì chứa dấm. Bôi một ít lên mặt và tay các vị. Uống vài viên thuốc trong lọ này và chắc chắn các vị sẽ ổn.’

Chúng tôi làm theo lời ông ta, chắc ông cũng hình dung được. Rồi Emily hỏi tại sao hai vị bác sĩ kia lại ăn vận như thời xưa vậy.

‘Đó là luật. Vâng, nó vẫn còn hiệu lực, mặc dù có thể hơi lạ lùng. Việc vận chuyển những người bị nhiễm dịch bệnh này luôn phải được thực hiện bởi những bác sĩ ăn mặc thế này để cảnh báo những người khác. Dĩ nhiên, ngày nay trông có vẻ kỳ cục, bởi chẳng hề có trường hợp nào đã hơn hai trăm năm rồi. Có thể đây là một sơ sót trong luật, nhưng tôi không muốn mạo hiểm làm trái quy định. Giờ, tôi có vài câu hỏi cho ông bà. Để mở đầu, xin hỏi ông bà biết gì về anh Cohen?’

‘Không nhiều, mặc dù anh ta thuê nhà chúng tôi khoảng ba năm rồi. Tôi nghĩ anh ta vốn từ Ba Lan đến. Anh ta là một nhạc sĩ và thường về nhà rất khuya, nên chúng tôi không thường xuyên gặp. Và anh ta cũng không hay trò chuyện. Dù sao thì, không hay trò chuyện với chúng tôi.’

‘Lần cuối ông bà nhìn thấy anh ta là khi nào và trông anh ta ra sao?’

‘Hôm kia, trông hoàn toàn bình thường. Ý tôi là, chẳng có gì lạ lùng trong cách hành xử của anh ta cả.’

‘Anh ta có tiếp xúc với những người ở trọ khác không?’

‘Không, tôi không nghĩ vậy. Thực ra, tôi chắc chắn rằng anh ta không hề gặp ai.’

‘Hừm… Các vị biết đấy, thưa ông bà Minden, dịch hạch vẫn là một bệnh rất nguy hiểm, ít nhất là khi đã đến một giai đoạn nhất định.’

‘Ông nghĩ anh Cohen sắp chết u?’

‘Việc đó không nằm ngoài khả năng. Tình hình anh ta rất tệ.’

‘Nếu anh ta chết thì ai sẽ trả cho chúng tôi ba tháng tiền nhà anh ta còn nợ đây?’

‘Tôi nghĩ lúc này có nhiều ưu tiên khác. Tôi đặt cho ông bà những câu hỏi này bởi chúng tôi muốn biết liệu anh ta có lây nhiễm cho bất kỳ ai khác trong nhà không và cả chuyện anh ta có thể nhiễm bệnh từ đâu nữa. Hãy cho tôi biết, những phòng khác ông bà cho thuê cũng tồi tàn như phòng của anh Cohen à?’

‘Bác sĩ Marcus, chúng tôi chỉ thu tiền nhà rất khiêm tốn, và chúng tôi không thể trang bị đồ đạc sang trọng hơn cho các phòng được.’

‘Đây không phải là lời khiển trách mà là cảnh báo. Tôi phải nói với ông bà rằng toàn bộ căn nhà này có thể sẽ bị kiểm tra y tế chặt chẽ. Chúng tôi biết dịch hạch chỉ xảy ra ở nơi có các điều kiện không vệ sinh. Nếu cuộc kiểm tra xác thực rằng đúng như vậy thì ông bà sẽ tốn kém đấy. Nhưng lúc này chuyện đó chỉ là tiểu tiết. Ngay bây giờ, ông bà có cảm thấy đau chỗ nào không?’

‘Không hề, mà ông vừa bảo rằng chúng tôi không gặp nguy hiểm sau những bài thuốc ông đưa mà.’

‘Hiện giờ thì ông bà không thể bị lây bệnh. Nhưng nếu ông bà đã tiếp xúc với nguồn bệnh thì đó lại là vấn đề khác. Nhưng cứ yên tâm, tôi sẽ quay lại và khám cho ông bà sau. Trong lúc đó, tôi muốn ông bà nhìn bệnh nhân lần cuối cùng trước khi chúng tôi mang anh ta đi, chỉ để bảo đảm không nhận diện nhầm. Cẩn tắc vô áy náy mà.’
Thế là chúng tôi quay trở vào phòng anh Cohen. Cùng chút lo lắng, tôi xin bổ sung như vậy. Anh Cohen nằm trên cáng và vẫn kích động như trước. Chúng tôi xác nhận đúng là anh ấy. Hai vị bác sĩ kia bận luôn chân luôn tay. Bác sĩ Ross cứ loạng choạng vì bệnh nhân quằn quại còn bác sĩ Sheldon thì thở dài đầy ngụ ý. Bác sĩ Marcus tuyên bố: ‘Chà, chúng tôi sẽ đi. Ông bà Minden, tôi gợi ý ông bà nên trở lại phòng mình và đợi tôi trở lại.’ Bác sĩ Marcus đưa chúng tôi quay lại hành lang, tới tận cửa phòng chúng tôi ở đây và tạm biệt. Rồi ông ta ra hiệu cho đồng nghiệp vẫn đang đợi trong phòng anh Cohen.


Tôi nhớ có nhìn theo họ vào lúc đó,
mụ Minden chen vào.
Họ di chuyển rất chậm và khó nhọc như thể đang gặp khó khăn vì thứ họ phải khiêng cứ xoay trở dữ dội. Mọi thứ tạo thành một cái bóng rất khó xác định trong hành lang. Khi đi được nửa đường, họ ngã xuống. Ít nhất là có một bác sĩ ngã, nhưng ông ta đứng lên rất nhanh. Có một vài tiếng hô và ai đó nói: ‘Coi chừng! Hắn đang bỏ chạy.’


Rất khó nhìn rõ chuyện gì xảy ra,
Louis Minden tiếp tục,
bởi vì chúng tôi chỉ nhìn được mấy cái bóng do ánh sáng yếu quá. Chúng tôi chạy lại chỗ họ. Đến đây, tôi phải nhấn mạnh, chẳng thấy ai chạy qua chúng tôi, cũng chẳng thấy ai chạy tới cầu thang, tới phòng chúng tôi, hay tới cửa ra phố. Tôi sẵn sàng thề như vậy và vợ tôi cũng thế, và bác sĩ Marcus cũng vậy nếu ông ta có mặt ở đây. Như ông thấy đấy, ông sĩ quan, trong hành lang không sáng lắm, nhưng vẫn đủ để biết nếu có ai đó chạy qua mình. Đặc biệt, chúng tôi lại đang rất cảnh giác vì cứ ngỡ bệnh nhân tìm cách chạy qua. Sheldon và Ross cứ sục sạo tới lui từ vị trí cái cáng ụp xuống bức tường… tới vị trí đã bị xây bít
.

‘Chuyện quái gì thế?’ Marcus càu nhàu.

‘Hắn nhảy khỏi cáng,’ một bác sĩ trả lời. ‘Nhưng tôi không biết sau đó hắn biến đi đâu.’

‘Đúng là hắn biến mất,’ bác sĩ kia lắp bắp. ‘Cứ như thể hắn đi xuyên qua tường… chỗ kia,’ chỉ tay về chỗ cánh cửa đã bị xây bịt.

‘Các anh điên rồi à?’ Bác sĩ Marcus quát, đá rất mạnh vào cái cáng, khiến nó lật nhào. ‘Hắn quay trở lại phòng hắn rồi, có vậy thôi. Ross, ra chặn trước cầu thang phòng trường hợp hắn tìm cách thoát khỏi chúng ta. Sheldon, đi với tôi. Đi với chúng tôi, ông bà Minden, để ông bà chỉ cho chúng tôi biết những chỗ ẩn nấp được trong phòng hắn.’

Chúng tôi làm theo. Nhưng chẳng có ai ở đó. Căn phòng trống trơn. Không hề có dấu vết nhỏ nhất của anh Cohen. Ông vừa xem căn phòng rồi đấy, ông sĩ quan. Chổ ẩn nấp duy nhất là cái giường và cái tủ. Rõ ràng chúng tôi đã tìm kiếm trong tù, trong đó chẳng có gì ngoài quần áo. Cũng chẳng có ai dưới gầm giường. Còn cửa sổ có chấn song và không thể lọt qua được. Thêm nữa, nó lại được khóa từ bên trong.

Bác sĩ Marcus đứng ở cửa, nhìn chúng tôi tìm kiếm và càng lúc càng thắc mắc giống như chúng tôi. Ông ta quay lại hành lang. Một lúc sau, chúng tôi theo ông ta, cùng với bác sĩ Sheldon, người giúp chúng tôi lục soát căn phòng. Bác sĩ Marcus giữ cánh tay bác sĩ Ross, ông này đứng dựa vào bức tường gần cầu thang. Có vẻ ông ấy thì thầm gì đó vào tai bác sĩ Ross. Khi chúng tôi đến gần, ông ta nhìn bác sĩ Sheldon rất lạ. Thế rồi, tay vẫn giữ bác sĩ Ross, ông ta nói: ‘Đừng lo, ông bà Minden, chúng tôi sẽ thu xếp mọi việc. Chúng tôi sẽ tìm hắn, đừng sợ. Quay trở lại phòng ông bà và khóa cửa lại. Lát nữa tôi sẽ quay lại sau.’

Chúng tôi làm theo, trong trạng thái khiếp hãi. Lúc đó chắc phải 11 giờ kém 20 phút. Chúng tôi nghe thấy họ thì thào trong hành lang, sau đó họ bỏ đi. Lạ là họ không đi xe hơi. Hoặc nếu có đi thì họ không đỗ gần đây vì chẳng hề thấy tiếng động cơ. Chúng tôi cũng không nhìn thấy họ đi qua trước cửa sổ phòng mình. Chắc họ đi ra phố theo mé bên kia. Nửa tiếng sau, chúng tôi nghe thấy tiếng còi cảnh sát và rồi thấy ông.

Im lặng. Watkins nhìn cặp vợ chồng già một lát. Bất chấp thứ ánh sáng lờ mờ trong hành lang, ông có thể thấy vẻ cau có lo lắng cũng như những nét hốc hác tiều tụy của họ. Họ đang xoa xúyt hai bàn tay xương xẩu và môi run run. Lại một lần nữa, viên cảnh sát nhớ đến nhân vật Lão Hà Tiện và những bóng ma của lão.

Tôi biết ông đang nghĩ gì, thưa ông sĩ quan,
lão già nói.
Ông nghĩ chúng tôi hóa rồ và dựng lên mọi chuyện.
Xin Chúa chứng giám, mọi thứ chúng tôi vừa kể với ông đều là sự thật.

Đúng lúc đó vang lên tiếng còi cảnh sát. Watkins vội rời đi với lời hứa sẽ trở lại ngay cùng với một bác sĩ và các đồng nghiệp.
Khi đã ra ngoài, viên cảnh sát hít vài hơi thật sâu, như thể để xua đi thứ không khí của ngôi nhà hắc ám. Những ngọn đèn đường vẫn đứng cạnh con phố yên ắng và hắt thứ ánh sáng hung hiểm lên những viên đá lát gồ ghề. Bên tay phải, ông nhìn thấy ánh đèn xe cảnh sát. Ông từ từ đi về phía đó, sợ hãi khi nghĩ đến việc phải thuật lại chi tiết cho cấp trên từng sự kiện kinh khủng mà ông vừa chứng kiến: một kẻ bị nhiễm dịch hạch mất hút khởi hành lang có người canh chừng, để rồi không lâu sau xuất hiện trở lại trong tình huống kỳ quái không kém - ngay trong một thùng rác cách hành lang chưa đầy trăm thước.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Giả Thuyết Thứ 7.