Chương 41: Chặng đường đau khổ
-
Hiệp Sĩ Sainte Hermine
- Alexandre Dumas
- 3129 chữ
- 2020-05-09 04:30:05
Số từ: 3117
Dịch giả: Xuân Dương
NXB Hội Nhà Văn
Nguồn: Sưu tầm
Lúc ngài Bonaparte và Chateaubriand chia tay sau khi cân đo cao thấp giống như hai vận động viên điền kinh gặp mặt để thách đấu hơn là một người đến nhận lệnh từ chỉ huy, thì tướng Ordener lên xe đi Strasbourg, vừa đến nơi, anh đến gặp sư trưởng đóng quân ở đây. Sư trưởng đã nhận lệnh đáp ứng mọi yêu cầu không cần hỏi lý do. Ông ta giao cho viên tướng tạm quyền bấy giờ gọi là tướng Frion, ba trăm long kỵ binh của đội số 26, những lính làm cầu kèm theo mọi thứ mà tướng Ordener cần thiết.
Tướng Ordener đến Schelestadt, cử một đội trưởng quân hiến binh cải trang đến Ettenheim dò la xem hoàng thân và tướng Dumounez có ở đó hay không. Người này về báo cả hai đều ở Ettenheim.
Ngày sau đó, tướng quân Ordener đi đến Rheinau. Nhờ phà và năm tàu lớn hợp lại, họ qua sông Rhin chỉ trong một chuyến.
Khoảng năm giờ sáng, lâu đài của hoàng thân đã bị bao vây hoàn toàn. Nghe thấy tiếng ngựa và tiếng mở cửa, hoàng thân nhảy xuống giường vớ lấy khẩu súng trường hai viên, mở cửa sổ và nhìn thấy công dân Charlot, đại đội trưởng, đội hiến binh quốc gia số 38 đang hét với những người mà anh ta nhìn thấy trên cửa sổ lâu đài:
- Nhân danh nhà nước Cộng hoà, hãy mở cửa ra.
Ông hoàng định nổ súng (và nếu thế chắc chắn công dân Charlot cũng nhả đạn) thì đại tá Grunstein ngủ trong phòng cạnh đó vội vã chạy ra cửa sổ đặt tay lên khẩu súng và nói:
- Tâu đức ông, ngài cũng đồng loã trong vụ này ư?
- Không hề mảy may, Grunstein thân mến ạ.
- Nếu vậy - Grunstein nói - mọi kháng cự đều vô ích, chúng ta đã bị bao vây, đức ông cũng thấy đấy, tôi còn thấy nhiều lưỡi lê ách lên. Đối với kẻ khiêu khích, đó là tên cầm đầu, nếu ngài giết chúng thì ngài sẽ thua và chúng tôi cũng vậy.
- Đúng thế! - Hoàng thân ném súng xuống và nói - Cứ để chúng vào nhưng phá cửa mà vào. Tôi không quen bọn Cộng hoà nên không mở cửa cho chúng được.
Trong lúc quân lính phá cửa, hoàng thân vội vã mặc quần áo.
Nhiều tiếng kêu "Đốt lửa lên!" vang lên nhưng nhanh chóng câm bặt. Một người chạy đến nhà thờ để rung chuông bị bắt ngay và kẻ đi báo tin cho tướng Dumounez, bị tóm không kịp kháng cự (chứng ta biết rằng đó không phải là Dumounez mà là Thumery).
Ông hoàng bị dẫn ra khỏi phòng trong lúc người ta lục lọi tất cả giấy tờ của ông. Ông ta được đưa đến một cái cối xay gần điện Tulleries. Phần còn lại, người ta không cần phải phá cửa. Hôm trước một đội trưởng hiến binh Pferdsdorff đã được cử đến để chỉ dẫn tất cả những nơi ông hoàng ở. Pferdsdorff cùng vài hiến binh và hơn chục long kỵ binh trung đoàn hai hai đã vào nhà bằng cách nhảy qua tường bao quanh sân.
Khi tập hợp các tù nhân, người ta không tên thấy Dumounez trong số họ. Khi được hỏi, ông hoàng nói Dumounez chưa bao giờ ở Ettenheim và ông thậm chí chưa từng gặp người này. Những người bị bắt là: Hoàng thân, hầu tước Thumer, nam tước Grunstein, trung uý Schmidt.
Cha Weinbom, cựu sáng tập toà giám mục Strasbourg, cha Michel, thư ký toàn giám mục Strasbourg, Jacques thư ký tin cẩn của công tước Englủen, Simon Fenand, cận vệ và hai người hầu có tên là Pierre Poulain và Joseph Canone.
Ban đầu công tước tỏ ra sợ khi bị dẫn độ về .
- Ông ta bắt được tôi rồi - Công tước nói - ông Đệ nhất Tổng giám đốc sẽ cho giam giữ tôi. Ta thấy bực khi không bắn vào ông, chỉ huy ạ. Nếu thế người của ông đã bắn ta và thế là bây giờ mọi chuyện đã chấm dứt.
Một chiếc xe bò chở rơm đã sẵn sàng. Người ta tống tù nhân lên xe và dẫn đi giữa hai hàng súng đến tận sông Rhin. Sau đó họ qua sông Rhin, đi đến Plobsheim dừng lại ăn trưa. Sau bữa trưa, công tước lên xe cùng chỉ huy Charlot và đội trưởng hiến binh. Một hiến binh khác lên cạnh đại tá Grunstein.
Họ đến khoảng năm giờ chiều. Mọi người đến lâu đài bản doanh của đại tá Charlot. Nửa giờ sau, công tước bị đưa lên xe ngựa ba bánh để đưa vào thành còn những người khác đi xe bò hoặc cưỡi ngựa của nông dân. Đại tá Charlot cho tập trung tất cả ở phòng khách. Đệm ngủ trải luôn ở đó, bên ngoài cửa có một toán lính và bên trong có hai toán khác liên tục túc trực suốt đêm.
Hoàng thân ngủ không ngon giấc. Ông không thể yên tâm trước cái cách diễn ra mọi việc. Những lời cảnh báo trước đây như sống dậy trong tâm trí của ông và ông tự trách mình đã không cảnh giác.
Thứ sáu ngày 16 tháng Ba, công tước được thông báo sẽ đổi chỗ ở. Tướng quân Leval, chỉ huy trưởng tại Strasbourg và trưởng Friron đến thăm ông. Cuộc viếng thăm lạnh lùng và tẻ ngắt. Công tước được đưa đến phòng cạnh thềm, bên phải ngôi nhà, nối với phòng của quý ông Thumery, Schmidt và Jacques, nhưng ông cũng như người của mình không thể đi qua đi lại gặp nhau.
Dẫu sao, người ta cũng để ông được phép đi dạo trong một khu vườn nhỏ phía sau am. Một tốp lính hơn mười người cùng một sĩ quan canh gác cạnh đó, bá tước Grunstein bị chia cách với ông bằng cách được sắp xếp ở phòng đầu sân bên kia. Công tước rất buồn trước sự chia cắt này. Ông bắt đầu viết cho nữ công tước vợ mình, trao cho tướng Leval và nhờ ông này chuyển giúp nhưng không nhận được lời hồi âm nào, điều này càng khiến ông đau buồn gấp bội. Tất cả mọi giao tiếp đều bị cấm.
Bốn giờ chiều, người ta đến xem xét giấy tờ của ông. Người ta đọc qua loa, phân chia thành từng tập rồi gửi về .
Mười một giờ đêm, công tước lên giường đi ngủ, dù rất mệt mỏi, nhưng ông không sao chợp mắt được. Ông Machine, phụ trách khu này đến thăm ông trên giường, an ủi vài câu gượng ép.
Thứ bảy, ngày 17, công tước Enghien không nhận được hồi âm nào cho lá thư ông viết tới nữ công tước Rohan. Ông đang ở trong tình trạng gần như tuyệt vọng. Người ta đến cho ông ký vào biên bản. Buổi tối, họ thông báo ông được phép đi dạo trong vườn với sĩ quan canh gác và các bạn tù của mình. Sau đó, ông ăn tối và ngủ ngon hơn.
Chủ nhật ngày 18, lúc một giờ rưỡi sáng, người ta đến đưa công tước đi ông chỉ kịp mắc quần áo và ôm hôn các bạn của mình.
Ông đi một mình giữa hai sĩ quan hiến binh và hai hiến binh. Đến quảng trường Eglise, trung uý Petermann và một hiến binh trèo lên xe, ngồi cạnh ông trong khi Blitersdorff và một liến binh khác trèo lên ghế đánh xe.
Chiếc xe dẫn công tước đến quận 20 vào lúc mười một giờ hôm sau, đó cũng là trạm gác. Họ ở lại đó năm tiếng trong khi đó chắc chắn những chi tiết của thảm cảnh hãi hùng đang diễn ra sắp kết thúc. Lúc bốn giờ chiều, chiếc xe đi về phía lâu đài và đến nơi vào quãng nửa đêm. Đã đến lúc các nhà Tổng giám đốc của nhà nước Cộng hoà ra lệnh bắt như sau:
"Paris ngày 29 Ventôse năm thứ XII
của nền Cộng hoà Duy nhất và Bậc khả chia cắt
Chính phủ Cộng hoà lệnh bắt:
Công tước Enghien, về tội cầm vũ khí chống lại nhà nước Cộng hoà, cấu kết với quân Anh tham gia vào vụ phản loạn làm nguy hại đến an ninh nội bộ và an ninh ngoài nước. Công tước sẽ bị đưa ra xét xử tại Uỷ ban Quân sự bao gồm bảy thành viên do chỉ huy trưởng Paris chỉ định và tập hợp tại Vincennes.
Chánh án, ngài Bộ trưởng Chiến tranh, chỉ huy trưởng Paris chịu trách nhiệm về sự có mặt của bị cáo.
BONAPARTE
HUGUES MARET
CHỈ HUY TRƯỞNG PARIS
MURAT"
Chiều theo luật quân sự, sư đoàn trưởng phải thành lập uỷ ban xét xử và ra lệnh xét xử. Murat vừa là chỉ huy trưởng Paris vừa là sư trưởng. Lệnh bắt của các vị Tổng giám đốc nói trên có chữ ký của Murat là vì ông buộc phải ký vào đó. Biết mình lỡ tay, ông thấy vô cùng đau xót. Ông là một người dũng khí, xốc nổi nhưng cũng tốt bụng. Ông có được thông báo hội đồng Tổng giám đốc ra quyết định bắt công tước Enghien, trong lúc sốt ruột thấy anh vợ luôn bị những âm mưu lật đổ mới mọc lên đe doạ, ông đã vỗ tay tán đồng quyết định ấy. Nhưng khi công tước Enghien đã bị bắt, ông lại chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả đáng sợ trong cuộc bắt bớ này thì ông chột dạ.
- Chà! - Ông thất vọng ném cái mũ ra xa - Ngài Đệ nhất Tổng giám đốc lại muốn dìm bộ quân phục của mình trong máu đây!
Sau đó ông chạy ra cửa sổ hét to:
- Đóng ngựa vào xe!
Xe vừa chuẩn bị xong, ông lao lên và ra lệnh: "Đến Saint-Clou!"
Ông không muốn nhượng bộ ngay lập tức một mệnh lệnh mà theo ông là một vết nhơ cho Bonaparte và cho bản thân ông. Murat đến gặp anh vợ, giải thích về nỗi lòng của mình, về sự lo lắng và đau xót trước sự việc. Nhưng Bonaparte đã giấu trong chiếc mặt nạ bằng đồng chính những cảm xúc như thế của ông. Ông tỏ ra mạnh mẽ, không thể lay chuyển, coi đó là sự yếu đuối hèn kém và nói:
- Được rồi, nếu chú sợ, tôi sẽ chỉ định ai sẽ là người ký lệnh xét xử ngay trong ngày.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ chuyện ngài Tổng giám đốc Bonaparte đã ra lệnh cho Savary đến rình bên vách đá Biville hồi họ đợi chuyến tàu của các ông hoàng cập bến. Savary là một trong chúng con người hiếm thấy, khi anh ta hiến dâng là hiến dâng toàn bộ cả thể xác lẫn tâm hồn không hề kêu ca. Anh ta yêu quý Bonaparte, không có quan điểm chính trị nào cả, anh ta chỉ đơn thuần tôn thờ ngài Đệ nhất Tổng giám đốc.
Ngài Tổng giám đốc đã cho thảo lệnh, tự tay ký rồi sai Savary mang chúng đến cho Murat chủ trì việc xét xử. Mệnh lệnh đó rất đầy đủ và rõ ràng. Do vậy Murat bị ngài Tổng giám đốc thúc đẩy mạnh quá trong lòng vừa rủa thầm vừa vò đầu bứt tai, ông tự tay viết mệnh lệnh sau:
"Chinh quyền Paris
Ngày 29 Ventôse, Nhà nước Cộng hoà năm thứ XII
Tổng chỉ huy trưởng Paris
Căn cứ thi hành lệnh của chính phủ, uỷ ban quân sự bảy thành viên sẽ do Tổng chỉ huy trưởng Paris bổ nhiệm và đã bổ nhiệm những người sau:
Tướng quân Hulin, chỉ huy đội Hồng vệ binh bảo vệ các Tổng giám đốc chủ toạ.
Đại tá Guiton, chỉ huy Trung đoàn thiết giáp số 1.
Đại tá Bazancourt, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 4
Đại tá Ravier, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 18
Đại tá Banois, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 96
Đại tá Rabbe, chỉ huy Trung đoàn bảo vệ thủ đô số 2
Công dân Autancourt, tham mưu đội Hiến binh ưu tú giữ nhiệm vụ báo cáo viên uỷ ban này được thành lập ngay tại lâu đài Vincennes để xét xử nghi phạm như chính phủ quy định, mọi văn bản sẽ được trao lại cho chủ toạ.
J. MURAT"
Tù nhân vừa bước vào Vincennes.
Quản lý lâu đài này có tên là Harel. Ông ta được thăng chức điều hành sau vụ Ceracchi và Aréna. Thật trùng hợp khi vợ ông ta lại là chị em cùng vú nuôi với công tước Enghien.
Ông Harel không nhận được mệnh lệnh nào. Người ta hỏi ông có chỗ nào cho tù nhân không, ông đáp là không, chỉ có phòng của chính ông và phòng họp. Lập tức ông Harel được lệnh đi chuẩn bị một chỗ để tù nhân có thể ngủ trong khi chờ phán quyết. Lệnh này kèm theo việc đào trước cái hố trong sân.
Harel đáp điều này rất khó vì sân lát gạch. Người ta tìm chỗ để đào và họ tìm thấy một cái hố có sẵn ở lâu đài.
Bảy giờ tối, công tước bước vào lâu đài. Ông lả đi vì đói và lạnh, không có vẻ buồn nhưng hơi lo lắng. Vì phòng của ông chưa được sưởi ấm nên ông chủ toà lâu đài cho công tước ở phòng của mình. Sau đó, người ta cho tìm đồ ăn trong làng.
Hoàng thân ngồi vào bàn và mời chủ toà lâu đài cùng ăn. Ông Harel từ chối và muốn phục vụ hoàng thân. Thế là ông hoàng đưa ra hàng lố câu hỏi về phòng thủ của toà lâu đài Vincennes và về các sự kiện đã xảy ra. Rồi đột nhiên ông hoàng quay lại hoàn cảnh của mình:
- Này, ông chủ thân mến, ông có biết người ta định làm gì tôi không?
Ông Harel không biết và không thể nói gì về chủ đề này. Nhưng vợ ông nấp sau tấm bình phong che rèm nghe rõ mọi việc đang xảy ra. Khi có lệnh đào hố, bà hình dung ra ngay tương lai thế nào nên khóc nấc lên. Tôi đã nói bà là chị em cùng vú nuôi với công tước Enghien.
Công tước vội vàng đi ngủ do chuyến đi quá mệt mỏi. Nhưng chưa kịp chợp mắt, trung uý Noirot, trung uý Jacquin, đại uý Autancourt và hiến binh Nerva, Tharsis vào phòng của ông.
Với sự tham dự của công dân Molin, đại uý trung đoàn 18, là lục sự do báo cáo viên chỉ định, tất cả tham dự buổi thẩm vấn:
- Họ, tên, tuổi, phẩm vị của ông là gì? - đại uý Autancourt hỏi.
- Tôi tên là Louis-Antoine-Henri de Bourbon, công tước Enghien, sinh ngày 2 tháng 8 năm 1772 tại Chantilly - Hoàng thân đáp.
- Ông rời Pháp từ bao giờ?
- Tôi không thể nói chính xác nhưng tôi nghĩ đó là ngày 16 tháng 7 năm 1789, tôi đi cùng Hoàng thân Condé là ông của tôi, cha tôi là công tước Bourbon, bá tước Artois và các con ông ấy.
- Ông sống ở đâu sau khi rời Pháp?
- Khi rời Pháp, tôi luôn đi cùng cha mẹ từ Monge đến Bruxelles. Ở đó, chúng tôi ở nhờ chỗ vua Sardaigne khoảng mười sáu tháng. Tôi đã ở Worn và vùng lân cận đó, bên bờ sông Rhin.
Khi quân đội Condé được thành lập, tôi tham gia chiến đấu. Tôi lập chiến dịch năm 1792 ở Brabant cùng quân của công tước Bourbon và quân đội của công tước Albert.
- Ông sống ở đâu sau khi hoà bình lập lại giữa Cộng hoà Pháp và đế chế Áo?
- Chúng tôi chấm dứt chiến dịch cuối cùng ở gần Gratz. Đến khi đó quân đội được bán cho nước Anh và hội giải ngũ. Tôi ở lại Gratz và khu gần đó khoảng tám, chín tháng vừa để chờ tin của ông nội tôi đang ở bên Anh để đòi khoản trợ cấp cho tôi. Trong khoảng thời gian ấy, tôi được giáo chủ Rohan cho phép đến xứ của ông. Tôi ở lại đó hai năm. Khi Giáo chủ qua đời, tôi chính thức yêu cầu nghị viện Ba de cho tôi tiếp tục chiến đấu tại đó và ông đã đồng ý.
- Ông chưa bao giờ sang Anh và chính quyền này cũng không gửi tiền cho ông chứ?
- Tôi chưa bao giờ sang Anh nhưng tôi vẫn nhận được một khoản và chỉ dựa vào đó để sống.
- Ông có liên lạc với giới quý tộc Pháp sống lưu vong ở London và gặp họ từ bao giờ
Tất nhiên, tôi vẫn liên lạc với ông và cha tôi nhưng từ lâu rồi không gặp họ, từ 1794 hay 95 gì đó.
- Ông giữ chức vụ gì trong quân đội Condé?
- Chỉ huy quân Tiên phong, trước năm 1796, tôi tự nguyện phục vụ tại tổng hành dinh của ông tôi.
- Ông biết tướng Pichegru chứ?
- Tôi cho là mình chưa bao giờ gặp ông ta, tôi không hề có quan hệ gì với người này. Tôi biết ông ta muốn gặp tôi những tôi tảng lờ không biết ông ấy.
- Ông biết tướng Dumouriez chứ? Ông có quan hệ với ông này không?
- Không, tôi chưa bao giờ thấy ông ta.
- Từ ngày hoà bình lập lại, ông chưa bao giờ liên lạc với nội bộ phe Cộng hoà chứ?
- Tôi có viết cho vài người bạn nhưng chỉ là thư thường không ảnh hưởng gì đến chính phủ.
Đại uý Autancourt chấm dứt cuộc hỏi cung, cho công tước Jacquin, trung uý Noirot hai viên hiến binh và chính Autancourt ký vào biên bản. Nhưng khi ký, công tước viết mấy dòng sau:
"Trước khi ký vào biên bản, tôi tha thiết yêu cầu được đặc cách gặp ngài Đệ nhất Tổng giám đốc. Tên tuổi, địa vị cách nghĩ của tôi cũng như tình hình tệ hại của tôi cho tôi hy vọng ông sẽ không từ chối lời đề nghị này.