Chương 32
-
Hồi Ức Của Một Geisha (Đời kỹ nữ)
- Arthur Golden
- 2203 chữ
- 2020-05-09 06:17:35
Số từ: 2189
Dịch giả: Văn Hòa - Kim Thùy
BXN Phụ Nữ
Nguồn: Sưu tầm
Suốt mùa xuân năm 1934, sau khi tôi đã luyện tập được hai năm, Hatsumono và Mẹ quyết định đã đến lúc cho Bí Ngô làm lễ chính thức trở thành geisha tập sự. Dĩ nhiên không ai nói cho tôi biết chuyện ấy, vì Bí Ngô đã được lệnh không được nói chuyện với tôi, còn Hatsumono và Mẹ thì không đời nào bỏ thì giờ nghĩ đến một việc như thế này. Tôi phát hiện ra việc này là vào một buổi chiều Bí Ngô bỗng ra khỏi nhà, rồi vào lúc chập tối cô ta trở về với mái tóc kiểu của một geisha tập sự - kiểu tóc được gọi là momoware, có nghĩa là
trái đào nứt
. Khi tôi thấy cô ta bước vào nhà, tôi cảm thấy đau đớn vì thất vọng và ganh tị. Cô ta không nhìn tôi, có lẽ cô ta nghĩ rằng việc khởi đầu làm geisha của cô đã tác động mạnh đến tôi. Với mái tóc chải ra sau thành hình một quả cầu từ hai bên thái dương rất đẹp, chứ không buộc lại sau gáy như mọi khi, cô ta trông ra vẻ là một thiếu nữ mặc dù khuôn mặt của cô ta vẫn còn non choẹt. Từ nhiều năm nay, cô ta và tôi thường ganh tị với các cô có mái tóc đẹp như thế. Bây giờ Bí Ngô sắp ra ngoài đời như geisha, còn tôi phải ở lại trong nhà, mù tịt về cuộc sống mới của cô ta.
Rồi đến ngày Bí Ngô mặc áo kimono của geisha tập sự lần đầu tiên cùng với Hatsumono đi đến phòng trà Mizuki để làm lễ ràng buộc hai người với nhau như chị em. Mẹ và Dì cũng đi, nhưng tôi thì không được. Tôi chỉ được đứng cùng họ trên hành lang trước nhà cho đến khi Bí Ngô từ trên lầu đi xuống có các chị hầu theo sau. Cô ta mặc chiếc kimono màu đen lộng lẫy, có huy hiệu của nhà kỹ nữ Nitta, và thắt chiếc khăn quàng lưng màu mận và vàng, mặt cô ta được tô trắng lần đầu tiên. Chắc anh nghĩ với đồ nữ trang trên tóc, và đôi môi tô đỏ choét, trông cô ta hãnh diện và xinh đẹp, nhưng tôi thấy cô ta có vẻ lo lắng nhiều hơn. Cô ta đi rất khó khăn vì áo quần lộng lẫy của người geisha tập sự rằng cồng kềnh. Mẹ đưa máy ảnh cho Dì, bảo Dì ra ngoài để chụp ảnh Bí Ngô khi cô được đánh đá lửa sau lưng để cầu may lần đầu tiên. Tất cả chúng tôi ở lại trong hành lang để khỏi bị dính hình vào ảnh. Các chị hầu nắm chặt tay của Bí Ngô trong khi cô xỏ chân vào giày gỗ cao mà chúng tôi gọi là okobo, lọai giày các geisha tập sự thường mang. Rồi Mẹ đến đứng sau lưng Bí Ngô, chụp một tấm ảnh với tư thế như là bà sắp đánh đá lửa, mặc dù trên thực tế lúc nào Dì hay một người hầu làm việc ấy. Khi chụp ảnh xong, Bí Ngô bước ra cửa, đi vài bước rồi quay nhìn lui. Những người khác đều đi ra ngoài với cô ta, nhưng tôi là người cô ta nhìn đến, vẻ mặt cô ta như muốn nói cô rất buồn trước tình thế xoay vần như thế này.
Cuối ngày ấy, Bí Ngô có tên geisha mới là Hatsumitjo. Từ
Hat
xuất phát từ Hatsumono và mặc dù tên mới này có thể giúp Bí Ngô hưởng được đôi chút danh tiếng của Hatsumono, nhưng thực tế cô ta không được như thế. Anh biết không, rất ít người biết tên geisha của cô, mà họ cứ gọi cô ta là Bí Ngô như trước.
Tôi rất nôn nóng muốn kể cho Mameha nghe chuyện nhập môn của Bí Ngô, nhưng cô ấy trong thời gian vừa qua rất bận rộn công việc, thường đi Tokyo theo lời yêu cầu của ông danna, và kết quả là chúng tôi không gặp nhau gần sáu tháng trời. Thêm vài tuần nữa trôi qua, cô ấy mới cho gọi tôi đến nhà cô ấy. Khi tôi bước vào nhà, chị hầu há hốc mồm sửng sốt, rồi một lát sau, Mameha từ phòng sau bước ra, cô ta cũng há hốc mồm sửng sốt. Tôi không biết cái gì làm cho họ kinh ngạc như thế. Rồi khi tôi quỳ xuống chào họ, nói tôi rất hân hạnh được gặp lại cô ta, thì cô ta không chú ý đến lời chào của tôi mà quay qua nói với chị hầu:
- Trời ơi, chị Tatsumi, lâu quá rồi phải không? Tôi đã không nhận ra cô ấy.
- Tôi mừng khi nghe cô nói thế, thưa cô – chị Tatsumi đáp – Tôi tưởng mắt tôi bị gì mà tôi không thấy rõ.
Khi ấy tôi tự hỏi không biết họ nói với nhau về cái gì. Nhưng rõ ràng trong sáu tháng không gặp nhau, tôi đã thay đổi quá nhiều mà tôi không nhận ra. Mameha bảo tôi quay đầu qua bên này rồi qua bên kia, miệng cứ lặp đi lặp lại
trời ơi, cô ta lớn xồ ra thành thiếu nữ rồi!
, rồi bỗng Tatsumi lôi tôi đứng lên, lôi hai tay tôi giang ra, chị dùng bàn tay đo eo, đo mông tôi rồi nói:
- Tốt rồi, chắc cô mặc kimono vừa vặn rồi, và mang vớ cũng vừa rồi – tôi nghĩ chị nói thế là để khen mừng, vì khi chị nói, mặt chị lộ vẻ hân hoan sung sướng.
Cuối cùng Mameha sai chị Tatsumi dẫn tôi ra phòng sau, mặc kimono vào cho tôi. Tôi mặc áo vải xanh trắng khi đến đây, chiếc áo tôi mặc đi học sáng nay, nhưng chị Tatsumi đã thay cho tôi chiếc kimono bằng lụa màu xanh đậm, có in hình những chiếc bánh xe nhỏ màu vàng tươi và đỏ. Đây không phải là chiếc kimono đẹp nhất, nhưng khi tôi nhìn vào tấm gương lớn trong khi chị Tatsumi buộc dải thắt lưng màu lục nhạt quanh bụng tôi, tôi thấy ngoại trừ mái tóc thường, tôi có thể xem mình như một nàng geisha tập sự chuẩn bị đi dự tiệc. Khi ra khỏi phòng, tôi cảm thấy tự hào và tôi nghĩ thế nào Mameha cũng há hốc mồm ra mà nhìn, hay có cử chỉ ngạc nhiên. Nhưng cô chỉ đứng dậy, nhét cái khăn nhỏ vào ống tay áo, rồi đi ra cửa, mang đôi hài sơn màu lục vào chân và quay lại nhìn tôi:
- Rồi chưa? – cô hỏi – có đi không?
Tôi không biết chúng tôi đi đâu nhưng tôi cảm thấy rất sung sướng khi nghĩ đến chuyện được cùng Mameha đi ra phố cho mọi người thấy. Chị hầu đem ra cho tôi một đôi hài sơn mài có màu xám nhạt. Tôi mang hài vào rồi đi theo Mameha xuống cầu thang âm u. Chúng tôi đi ra đường, một bà già cúi thấp người chào Mameha, rồi bà quay qua phía tôi, bà cũng chào tôi như thế. Tôi ngẩn người sửng sốt vì chưa có ai chú ý đến tôi ở ngoài đường như thế này. Ánh mặt trời chói chang làm tôi hoa mắt, khiến tôi không biết bà ta có quen biết gì với tôi không. Nhưng tôi chào trả trước khi bà ta đi tiếp. Tôi nghĩ có lẽ bà ta là một trong các cô giáo của tôi, nhưng chỉ một lát sau, chuyện như thế lại diễn ra nữa, lần này là một geisha trẻ tôi thường mến mộ, nhưng trước đây chưa bao giờ cô ta nhìn đến tôi.
Hình như tất cả mọi người chúng tôi gặp trên đường đều nói đôi lời với Mameha, hay ít ra cũng cúi chào cô, rồi sau đó họ gật đầu hay cúi chào tôi. Nhiều lần tôi dừng lại để chào trả, thành ra tôi đi tụt ra sau Mameha vài bước. Cô ấy thấy tôi đi đứng khó khăn, liền dẫn tôi vào một con hẻm yên tĩnh để dạy cho tôi cách đi. Cô ấy nói rằng tôi đi lúng túng như thế là vì tôi chưa biết cách chuyển động nửa người phía trên riêng rẽ với nửa người phía dưới. Khi tôi chào ai, tôi phải dừng bước. Cô ấy nói:
- Chậm bước là cách biểu lộ lòng kính nể rồi. Càng chậm chừng nào càng tỏ ra mình kính nể chừng nấy. Cô có thể dừng lại để chào giáo viên của cô, nhưng đôi với những người khác, đừng có dừng lại làm gì, vì như thế biết khi nào cô mới đi đến nơi. Cô cứ bước chậm lại một chút, sao cho vạt áo kimono phất phơ là được. Khi người đàn bà đi, làm sao cho người ta có cảm giác đấy là làn sóng lăn tăn tỏa vào bờ cát.
Tôi đi lui đi tới trong đường hẻm như Mameha đã chỉ dẫn, cô ấy nhìn thẳng vào chân tôi để xem vạt áo kimono có phất phơ hay không. Khi Mameha thấy tôi đã làm được, bấy giờ chúng tôi mới đi ra ngoài đường phố lại.
Tôi thấy việc chào hỏi của chúng tôi đều theo một hay hai cách giản dị mà thôi. Khi chúng tôi gặp các cô geisha trẻ, thường thường các cô ấy đi chậm lại hay thậm chí có cô dừng hẳn lại để cúi chào Mameha thật thấp, và Mameha đáp lại bằng vài tiếng chào và gật nhẹ đầu, rồi cô geisha trẻ quay mặt nhìn tôi vẻ ngạc nhiên, lúng túng cúi chào, tôi phải chào trả, cúi người thấp hơn – vì tôi là người hạng thấp nhất trong số những người tôi gặp. Thế nhưng khi chúng tôi gặp một bà trung niên hay già, Mameha chào trước, rồi bà kia chào trả với vẻ kính cẩn, nhưng không cúi thấp như Mameha và sau đó, bà nhìn khắp người tôi rồi gật nhẹ đầu. Tôi luôn luôn đáp lễ bằng cách cúi người thật thấp trong khi hai chân vẫn bước.
Chiều hôm đó tôi kể cho Mameha nghe chuyện nhập môn của Bí Ngô, và mấy tháng sáu đó, tôi cứ mong sao cho cô ta nói đã đến lúc tôi bắt đầu tập sự làm geisha. Thế nhưng mùa xuân qua, rồi mùa hè đến, tôi vẫn không nghe cô ấy nói gì hết. Trái với cuộc sống hấp dẫn của Bí Ngô, tôi chỉ biết học tập và làm việc nhà, cũng như gặp Mameha chừng 15, 20 phút vào những buổi chiều khác trong tuần. Thỉnh thoảng tôi ngồi trong nhà cô ấy để nghe cô dạy những điều tôi cần biết, nhưng phần nhiều cô bảo tôi mặc áo kimono của cô rồi dẫn tôi đi khắp quận Gion, khi thì đi làm những việc lặt vặt, khi thì ghé vào nhà của người bói toán, khi thì đến tiệm người làm tóc giả. Thậm chí khi trời mưa, và cô ấy không có việc gì làm ngoài phố, chúng tôi cũng chống dù để đi từ tiệm buôn này đến nhà hàng khác để xem khi nào có loại nước hoa từ Ý nhập vào, hay là hỏi xem chiếc kimono sửa xong chưa, mặc dù kỳ hạn người thợ nhận sửa chưa đến ngày.
Mới đầu, tôi nghĩ có lẽ Mameha dẫn tôi đi như thế để cô ấy có thể dạy cho tôi nhiều chuyện như tư thế đi đứng cho đúng cách – vì cô ấy thường lấy quạt đánh vào lưng tôi để sửa dáng đứng của tôi cho thẳng hơn – và dạy cách xử thế với mọi người. Mameha hình như quen biết với tất cả mọi người, và luôn luôn dừng lại để cười chào họ, chúc tụng họ, thậm chí cả với những người hầu hèn hạ nhất, vì cô ấy cho rằng chính nhờ những người này cô ấy mới được cao sang, mới được nhiều người trọng vọng. Nhưng một hôm khi chúng tôi từ trong một tiệm sách bước ra, bỗng tôi nhận ra ý nghĩa của công việc cô ấy làm trong bấy lâu nay. Thật ra, cô ấy quan tâm đến việc đi đến tiệm sách hay đến tiệm người làm tóc giả, hay là đi đến tiệm người bán văn phòng phẩm. Việc đi mua sắm lặt vặt không phải là việc quan trọng, vả lại, cô ấy có thể sai gia nhân đi mua lúc nào không được. Cô ấy chỉ đi như thế cốt để cho mọi người ở Gion thấy chúng tôi đi với nhau trên phố. Cô ấy trì hoãn ngày nhập môn cho tôi là để mọi người có thì giờ chú ý đến tôi thôi.