CHƯƠNG 10
-
Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ
- Steve Berry
- 3278 chữ
- 2020-02-02 09:00:08
Tiểu Huyên dịch
Võ Thị phát hành
Nxb Văn Học
DE ROQUEFORT KHÉP CÁNH CỬA LẠI VÀ BƯỚC VÀO HIỆU sách. Hai gã đàn ông vào theo. Hai gã còn lại đứng canh ngoài phố.
Họ đi qua các giá sách tối đen để đến phía cuối của tầng dưới cùng và bước lên những bậc cầu thang hẹp. Họ bước đi không tiếng động. Ở tầng trên cùng, de Roquefort bước qua một cánh cửa để mở vào một căn hộ nhỏ. Peter Hansen đang ngồi thu lu trong ghế đọc sách, một chai bia để trên bàn bên cạnh, một điếu thuốc lá cháy trên gạt tàn.
Vẻ ngạc nhiên hiện rõ trên mặt nhà buôn sách.
Ông làm gì ở đây thế?
, Hansen hỏi bằng tiếng Pháp.
Chúng ta có một thỏa thuận
.
Nhà buôn nhảy dựng lên.
Chúng ta không mua được. Tôi có thể làm được gì nào?
Ông đã nói là sẽ không có gì khó khăn
. Các đồng sự của gã đi ra phía góc xa của căn phòng, gần mấy cái cửa sổ. Gã vẫn đứng ở cửa.
Quyển sách đó được bán với giá năm mươi nghìn kroner. Một cái giá trời ơi đất hỡi
, Hansen nói.
Ai đã trả nhiều tiền hơn ông?
Nhà đấu giá sẽ không để lộ loại thông tin đó
.
De Roquefort tự hỏi không biết Hansen có nghĩ mình ngu ngốc đến mức đó không.
Tôi đã trả tiền cho ông để đảm bảo rằng
Stephanie Nelle sẽ mua được nó
.
Và tôi đã cố gắng. Nhưng không ai nói cho tôi biết là quyển sách sẽ được đẩy lên cái giá đó. Tôi vẫn tiếp tục trả giá đấy chứ, nhưng bà ấy bảo tôi thôi. Ông có sẵn sàng trả nhiều hơn năm mươi nghìn kroner không?
Tôi sẽ trả bất kỳ giá nào
.
Ông có ở đó đâu, và bà ấy thì không cả quyết được đến mức đó". Hansen có vẻ nhẹ nhõm trở lại, sự kinh ngạc lúc đầu đã được thay thế bằng một vẻ bần tiện mà de Roquefort thấy khó mà không nhận ra.
Và ngoài ra, điều gì làm cho quyển sách đó đắt giá đến thế?
Gã nhìn quanh căn phòng nhỏ, sặc mùi rượu và mùi thuốc lá. Hàng trăm cuốn sách nằm rải rác giữa những đồng báo chí. Gã tự hỏi làm sao lại có người sống nổi trong cảnh lộn xộn đến thế này.
Ông nói cho tôi đi
.
Hansen nhún vai.
Tôi làm sao biết được. Bà ấy cũng không nói tại sao bà ấy muốn có nó
.
Sự kiên nhẫn của de Roquefort đã cạn kiệt.
Tôi biết ai đã mua được quyển sách
.
Ai?
Như ông cũng biết rất rõ, các nhân viên ở nhà đấu giá đều có thể mua được. Bà Nelle đã liên lạc với ông để lấy ông làm trung gian. Tôi đã liên lạc với ông để chắc chắn được là bà ấy sẽ có quyển sách đó, để rồi sau đó tôi có thể có được một bản sao trước khi ông đưa nó cho bà ấy. Thế rồi ông gặp phải một người mua qua điện thoại.
Hansen mỉm cười.
Mất nhiều thời gian để nói tên một người quá nhỉ
.
Thật ra chỉ mất một chút thời gian thôi, khi mà tôi đã có thông tin rồi
.
Vì giờ đây tôi đã có được quyển sách và Stephanie không còn vai trò gì nữa, liệu việc một mình ông có được nó có đáng giá gì không?
De Roquefort đã hiểu câu chuyện đang đi theo hướng nào.
Thật ra câu hỏi phải là quyển sách đó đáng giá với ông như thế nào?
Với tôi nó không đáng giá một xu
.
Gã hất đầu ra lệnh và hai tên cộng sự nắm lấy hai cánh tay Hansen. De Roquefort tung một quả đấm vào bụng nhà buôn sách. Hansen hộc lên một tiếng, rồi đổ người về phía trước, người được hai cánh tay giữ lại.
Tôi muốn Stephanie Nelle có được quyển sách, sau khi tôi đã có một bản sao
, de Roquefort nói.
Chính vì vậy mà tôi đã trả tiền cho ông. Không gì hơn nữa cả. Ông đã định chơi tôi. Giờ thì không được nữa rồi
.
Tôi... có... quyển... sách
.
Gã nhún vai.
Nói dối. Tôi biết chính xác quyển sách đang ở đâu
.
Hansen lắc đầu.
Ông sẽ không... có được nó
.
Ông sai rồi. Trên thực tế, đó chỉ là một việc nhỏ xíu".
Malone di chuyển trong ánh sáng những ngọn đèn huỳnh quang phía trên ngăn sách lịch sử. Những quyển sách theo đủ hình dạng, kích cỡ và màu sắc nằm chật trên các giá. Nhưng có một quyển đặc biệt mà anh còn nhớ đã xem từ vài tuần trước. Anh đã mua nó, cùng với nhiều cuốn sách về lịch sử giai đoạn giữa thế kỷ hai mươi khác, từ một tay người Ý cứ nghĩ là mấy thứ đồ của mình đáng giá hơn nhiều so với mức mà Malone sẵn sàng trả. Phần lớn người bán sách không hiểu giá trị là một yếu tố thuộc về ham muốn, sự khan hiếm, và tính độc bản. Mức độ cổ không nhất thiết là quan trọng vì, vào đầu thế kỷ hai mươi mốt này, người ta vẫn thường xuyên in hàng đống thứ nhố nhăng.
Anh nhớ là đã bán một số sách của tay người Ý, nhưng hy vọng rằng một trong số chúng vẫn còn. Anh nhớ là nó không rời khỏi hiệu sách, nhưng một nhân viên của anh có thể đã bán nó. Nhưng thật may là quyển sách vẫn nằm trên giá, hàng thứ hai tính từ dưới lên, đúng vị trí mà anh đã xếp.
Không có vỏ bọc bằng vải bảo vệ bên ngoài, bìa sách hẳn là trước đây có màu xanh đậm, giờ đã nhạt đi thành màu vàng nhờ nhờ. Các trang của nó rất mỏng, mạ vàng ở rìa, và có nhiều hình minh họa. Tên sách vẫn còn nhìn rõ bằng chữ vàng.
Các Hiệp sĩ của Dòng Đền thờ Solomon.
Bản quyền ghi năm 1922 và, khi lần đầu tiên nhìn thấy nó, Malone đã rất quan tâm vì các Hiệp sĩ là một chủ đề mà anh từng đọc. Anh biết họ không chỉ là các thầy tu, mà đúng hơn là các chiến binh tôn giáo - một kiểu đơn vị chiến đấu tinh thần đặc biệt. Nhưng cách nghĩ khá đơn giản của anh chỉ khiến anh hình dung ra những người đàn ông vận đồ màu trắng đính hình những chữ thập đỏ. Hẳn là một kiểu hình mẫu theo lối Hollywood. Và anh nhớ là mình đã rất ấn tượng khi lật giở cuốn sách.
Anh cầm quyển sách ra một trong số rất nhiều ghế đọc sách để khắp nơi trong cửa hiệu, ngồi xuống tấm đệm mềm, và bắt đầu đọc. Dần dần, một bản tóm tắt hiện ra.
Vào khoảng năm 1118, những người Công giáo lại một lần nữa chiếm được Đất Thánh. Cuộc Thập tự chinh thứ nhất là một thành công vang dội. Và mặc dù dân Hồi giáo đã bại trận, đất đai đã bị tịch thu, các thành phố bị chiếm đóng, họ vẫn không chịu khuất phục. Thay vào đó, họ vẫn tồn tại bên lề các vương quốc Công giáo mới được lập ra, tấn công vào tất cả những ai liều lĩnh đi đến Đất Thánh.
Hành hương an toàn đến các khu vực thiêng là một trong những lý do của cuộc Thập tự chinh, và tiền thu được từ những người hành hương là nguồn thu nhập chính của vương quốc Công giáo Jerusalem vừa được thành lập. Những người hành hương đổ đến Đất Thánh, một mình, theo từng nhóm, từng đoàn, hoặc có khi là cả những cộng đồng. Thật không may, những con đường dẫn đến và đi khỏi đó đều không an toàn. Người Hồi giáo rình sẵn, những tên cướp hoành hành, ngay cả những người lính Công giáo cũng trở thành một mối de dọa vì với họ, cướp bóc đã trở thành một điều gì đó bình thường.
Cho nên khi một hiệp sĩ Champagne, Hugh de Payens, lập ra một tổ chức mới gồm ông ta và tám người khác, một dòng tu gồm các giáo hữu chiến đấu quyết tâm bảo vệ an toàn cho những người hành hương, việc này được hưởng ứng rộng rãi. Baldwin II, người đứng đầu Jerusalem, dành tặng cho dòng tu ngôi đền Aqsa để làm chỗ trú, nơi này người Công giáo vẫn tin ngày xưa là Đền thờ Solomon, cho nên dòng tu mới này lấy tên từ chính nơi đặt đại bản doanh của mình: Các chiến binh nghèo của Christ và Đền thờ Solomon ở Jerusalem.
Ban đầu chỉ có rất ít người. Mỗi hiệp sĩ thề chấp nhận nghèo khổ, đức hạnh, và tuân thủ. Họ không có gì cho riêng mình. Tất cả những tài sản có giá trị của họ đều trở thành tài sản của Dòng. Họ sống cùng nhau và im lặng trong khi ăn. Họ cắt tóc, nhưng để râu mọc. Họ sống nhờ lòng từ thiện, kể cả quần áo cũng đi xin, và thánh Augustine là hình mẫu của họ. Con dấu của Dòng đặc biệt mang tính biểu tượng: hai hiệp sĩ cưỡi trên một ngọn núi - một nhắc nhở rõ ràng đến những ngày các hiệp sĩ còn chưa đủ tiền để sắm riêng cho mình một con ngựa.
Một dòng tu gồm các chiến binh không phải trong đầu óc của người thời Trung cổ, một sự mâu thuẫn. Thay vào đó, Dòng mới gợi lên rất nhiều cảm hứng và sự can đảm chiến trận. Sự thành lập của nó cùng giải quyết thêm một vấn đề khác nữa - về nhân lực - vì kể từ đây đã bắt đầu tồn tại một sự hiện diện thường trực những chiến binh được tin tưởng.
Năm 1128, số lượng người tăng lên, có được sự ủng hộ về chính trị ở các cấp bậc quan trọng. Các hoàng thân và giáo sĩ cấp cao của Châu Âu tặng đất, tiền, và đồ dùng. Cuối cùng Giáo hoàng cũng công nhận Dòng, và các Hiệp sĩ Đền trở thành quân đội
thường trực duy nhất của Đất Thanh.
Một Giới luật chặt chẽ gồm 686 điều luật quy định các hành động của họ. Sùìì ha lĩ bị cấm. Không chơi bời, hiếu chiến, đánh bạc. Trong nói năng phải kiệm lời và khô ng được hiếu chiến. Đồ trang sức bị cấm. Khi ngủ họ vẫn để đèn sá ng mặc dù do. áo choàng và quần để lúc nào cùng có thể sẵn sàng chiến đấu.
Trưởng giáo là người chỉ huy tuyệt đối. Kế tiếp là các giáo quản, những người hành động giống như các đại bi ể u là cố vấn. Các tướng quân chỉ huy các toán quân khi xảy ra chiến trận. Servientes trong tiếng Latinh, servents trong tiếng Pháp. là các thợ thủ công, nông dân. và những người khác muốn ủng hộ các hiệp sĩ và tạo thành xương sống của Dòng. Thông qua một chỉ dụ của Giáo hoàng ban vào năm 1148. mỗi hiệp sĩ được đeo một hình chữ thập bốn cánh đều nhau, bè ra ở đoạn cuối. phía trên một áo choàng màu trắng. Họ là quân dội thường trực đầu tiên có tổ chức và được trang bị kể từ thời La Mã. Các hiệp sĩ giáo hữu tham gia tất cả những cuộc Thập tự chinh sau đó. luôn là những người đi đầu trong hàng ngũ, là những người cuối cùng rút lui. và không bao giờ có thể bị mua chuộc. Họ tin rằng phục vụ Dòng có thể giúp họ lên được thiên đường và trong hơn hai trăm năm chinh chiến liên miên, hai mươi nghìn Hiệp sĩ đã được coi là tử vì đạo vì hy sinh trong chiến đấu.
Năm 1139, một chỉ dụ khác của Giáo hoàng đặt Dòng dưới sự kiểm soát trực tiếp của Giáo hoàng, điều đó cho phép họ được hoạt động tự do trên khắp các vùng đất Công giáo, không hề bị các vị vua chỉ huv. Đó là một hành động chưa từng có và, khi Dòng đã có được sức mạnh về chính trị và kinh tế, nó dẫn đến cả việc thu thập được một kho báu khổng lồ. Các vị vua và các giáo trưởng cung cấp rất nhiều tiền cho họ. Các món nợ được dành cho các vị lãnh chúa và những nhà buôn, với lời hứa rằng nhà cửa, đất đai, ruộng nho, vườn tược của họ sẽ trở thành sở hữu của Dòng sau khi họ chết. Những người hành hương được an toàn đến và đi khỏi Đất Thánh khi trở về có những khoản đóng góp lớn. Đầu thế kỷ mười bốn, các Hiệp sĩ đã cạnh tranh được với người Genoa, người Lombard, và thậm chí người Do Thái trong việc kiểm soát tiền. Các vị vua Pháp và Anh nhờ Dòng giữ hộ kho báu. Thậm chí người Hồi giáo cũng buôn bán với họ.
Đền Paris của Dòng trở thành trung tâm thế giới về thị trường tiền tệ. Một cách chậm rãi, tổ chức dần trở thành một kết hợp giữa tài chính và quân sự, cả hai đều tự cấp và tự điều hành. Quả thực là đất đai của Hiệp sĩ, khoảng 9.000 lãnh địa, hoàn toàn không phải trả bất kỳ thứ thuế nào, và địa vị duy nhất đó dẫn đến những xung đột với giới giáo sĩ địa phương vì các nhà thờ của họ gặp khó khăn khi đất đai của các Hiệp sĩ mở rộng. Cạnh tranh giữa các Dòng khác nhau, đặc biệt là các Hiệp sĩ Bệnh viện, chỉ càng làm tăng thêm sự căng thẳng.
Trong thế kỷ mười hai và mười ba, sự kiểm soát Đất Thánh lần lượt chuyển qua tay người Công giáo và người Arập. Sự nổi lên của Saladin ở cương vị chỉ huy người Hồi giáo, cung cấp cho người Arập chỉ huy quân sự lớn đầu tiên, và cuối cùng Jerusalem Cơ đốc giáo thất thủ vào năm 1187. Trong sự hỗn loạn tiếp nối, các Hiệp sĩ tập trung hoạt động của mình ở Acre, một nơi kiên cố gần bờ biển Địa Trung Hải. Trong một trăm năm kế tiếp, họ tàn lụi ở Đất Thánh nhưng phát triển mạnh mẽ ở Châu Âu, nơi họ thiết lập được một mạng lưới rộng lớn nhà thờ, tu viện, và nhà cửa. Khi Acre thất thủ vào năm 1291, Dòng mất cả căn cứ cuối cùng của mình ở Đất Thánh và luôn cả mục đích tồn tại.
Sự tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc bí mật, đầu tiên khiến họ trở nên đặc biệt, dần mang lại những khó chịu. Philip IV nước Pháp, vào năm 1307, đã tịch thu những tài sản lớn của Hiệp sĩ, bắt nhiều giáo hữu. Các vị vua khác cũng bắt chước. Bảy năm tiếp theo đó dành cho buộc tội và xử án. Clement V chính thức giải tán Dòng vào năm 1312. Cú đánh cuối cùng xảy đến vào ngày 18 tháng Ba năm 1314, khi trưởng giáo cuối cùng, Jacques de Molay, phải
I Hoặc Dòng Các Hiệp sĩ Malta, Các Hiệp sĩ Rhodes, được thành lập tại Jerusalem vào năm 1080.
Malone đọc tiếp, Trong đoạn văn có cái gì đó giật nảy lên - đã xuất hiện khi lần đầu tiên anh chạm tay vào quyển sách vài tuần trước.. 1À h gỉ ở các Imng, ỉ 11111 dọc về chuyện bằng cách nào, trước khi bị xóa sổ vào lùi IU 1307, Dòng đã trở thành chuyên gia về điều bí ẩn, phải triển tài sản, thuần dưỡng thú vật, nông nghiệp, và, quan trọng nhất, tài chính. Trong khi Nhà thờ cấm các thí nghiệm khoa học, các Hiệp sĩ học được từ kẻ thù của mình, người Ả rập, nền văn hóa khuyến khích tií ciny độc lập. Các Hiệp sĩ cũng phân tán, rất giống với các ngân hàng hiện đại, tài sản lớn của mình. Có một đoạn thơ Pháp thời Trung cổ miêu tả các Hiệp sĩ và sự biến mất đột ngột của họ:
Các giáo hữu, các trưởng giáo Đền thờ,
Những người từng có biết bao châu báu. Họ đâu rồi? Đã tan vào hư vô Đã biến mất cả sự phụng thờ
Lịch sử không mấy thân thiện với Dòng. Mặc dù họ có được trí tưởng tượng của các nhà thơ và những người ghi chép biên niên sử - các Hiệp sĩ Grail trong Parzivcil là các Hiệp sĩ Đền thờ, cũng như các anh hùng quật cường trong Ivanho - khi các cuộc Thập tự chinh được coi là dấu hiệu của sự xâm lấn và chủ nghĩa đế quốc của Châu Âu, các Hiệp sĩ trở thành phần cuồng tín không thể tách rời của chúng.
Malone tiếp tục đọc lướt cuốn sách cho đến khi cuối cùng tìm ra được đoạn mà anh còn nhớ ở lần đầu tiên giở sách ra. Anh biết là nó nằm ở đó. Trí nhớ của anh chưa bao giờ sai. Những từ nói đến việc bàng cách nào, trên chiến trường, các Hiệp sĩ thường xuyên dựng một là cờ Ệiílpg đứng chia làm hai phần - một màu
đen tượng trưng cho tội lỗi mà các hiệp sĩ giáo hữu để lại sau lưng, phần kia màu trắng tượng trưng cho cuộc đời mới của họ trong Dòng. Lá cờ được viết bằng tiếng Pháp. Dịch ra nó có nghĩa là cao quý và vinh quang. Từ đó cũng được hét lên trong các trận chiến.
Beauseant. Vinh quang.
Chính là từ mà Jacket Đỏ đã thốt ra trước khi nhảy từ Round Tower xuống đất.
Chuyện gì đã xảy ra?
Những động lực cũ sôi sục ở trong anh. Những cảm giác mà một năm bỏ việc anh đã nghĩ là đã ngủ quên. Các nhân viên giỏi đều vừa chăm chú vừa cẩn trọng. Quên một trong hai cái là điều gì đó hoàn toàn không thể hình dung được — điều gì đó mầm mống của thảm họa. Anh đã từng phạm phải lỗi đó một lần vào nhiều năm trước trong một công vụ đã lâu, và cái giá khủng khiếp là sinh mạng của một cộng tác viên. Đó không phải là người duy nhất anh cảm thấy có trách nhiệm trong cái chết của họ, nhưng đó là người đầu tiên, và không bao giờ anh quên được sự bất cẩn của mình.
Stephanie đang gặp rắc rối. Không nghi ngờ gì nữa. Bà đã ra lệnh cho anh không can thiệp vào chuyện của bà, nên sẽ là vô ích khi nói chuyện với bà. Nhưng có thể Peter Hansen sẽ cung cấp thêm được thông tin.
Anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Đã muộn, nhưng Hansen vẫn nổi tiếng là một con cú và hẳn là vẫn còn thức. Nếu không, anh sẽ đánh thức lão ta dậy. Anh cầm theo quyển sách và đi ra cửa.