CHƯƠNG 12
-
Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ
- Steve Berry
- 2469 chữ
- 2020-02-02 09:00:08
Tiểu Huyên dịch
Võ Thị phát hành
Nxb Văn Học
TU VIỆN DES FONTAINES DÃY PYRÉNÉES THUỘC PHÁP 11:30 ĐÊM
GIÁM QUẢN TỈNH DẬY. ÔNG ĐANG NGỒI TRONG MỘT CÁI ghế đặt cạnh giường. Liếc nhanh đồng hồ đặt trên bàn, ông biết là mình đã ngủ thiếp đi trong khoảng một giờ. Ông quay lại nhìn người Trưởng giáo đang ốm của mình. Âm thanh quen thuộc của tiếng thở nặng nề đã không còn. Trong những tia sáng mờ ảo chiếu vào từ bên ngoài tu viện, ông nhìn thấy tấm màng của cái chết đã kéo đến che phủ đôi mắt của ông già.
Ông đo mạch.
Trưởng giáo đã chết.
Lòng can đảm rời bỏ ông khi ông quỳ gối xuống cầu nguyện cho người bạn vừa ra đi của mình. Căn bệnh ung thư đã chiến thắng. Trận chiến đã kết thúc. Nhưng một cuộc xung đột khác ở một tầm mức khác sắp sửa bắt đầu. Ông cầu xin Chúa nhận linh hồn của ông già vào thiên đường của Người. Không ai xứng đáng được cứu rỗi hơn thế. Ông đã học được mọi điều từ Trưởng giáo - những thất bại cá nhân và sự cô đơn về cảm xúc rất lâu trước đây đã đẩy ông đến chỗ chịu ảnh hưởng của ông già. Ông đã có một sự giáo dục ngắn ngủi, và ông cố gắng không bao giờ thất vọng. Những sai lầm thì có thể tha thứ, nếu không bị lặp lại, ông đã học được - chỉ một lần, vì Trưởng giáo không bao giờ tự nhắc lại lời mình.
Nhiều giáo hữu coi sự thẳng thắn đó là kiêu ngạo. Những người khác coi những gì mình tin tưởng giống như một thái độ kẻ cả. Nhưng chưa từng có ai đặt vấn đề về uy quyền của trưởng giáo. Một trong các nghĩa vụ của giáo hữu là nghe lời. Họ chỉ được hỏi ý kiến khi đến lúc chọn trưởng giáo mới.
Đó là điều mà ngày hôm nay sắp hứa hẹn.
Lần thứ sáu mươi bảy kể từ Khởi đầu, một thời điểm vào đầu thế kỷ mười hai, một người sẽ lại được chọn làm trưởng giáo. Trong số sáu mươi sáu người trước đó, nhiệm kỳ trung bình chỉ là mười tám năm, sự đóng góp xê dịch từ chỗ không có gì đến chỗ không thể so sánh được. Dù vậy, mỗi người đều phụng sự Dòng cho đến khi chết. Vài người chết trong chiến trận, nhưng những ngày đánh nhau liên miên đã qua từ lâu. Ngày nay, yêu cầu trở nên tinh tế hơn, những trận chiến hiện đại nằm ở những nơi mà những người sáng lập buổi ban đầu sẽ không bao giờ tưởng tượng ra nổi. Các tòa án, Intemet, sách, tạp chí, báo - tất cả những cái đó Dòng đều phải thường xuyên trông coi đến, để đảm bảo sự bí mật được giữ an toàn, sự tồn tại không bị ai biết đến. Và mỗi trưởng giáo, dù cho có kém cỏi đến đâu, cũng đều đã thành công trong mục tiêu đặc biệt đó. Nhưng giám quản sợ rằng nhiệm kỳ tới sẽ có tính chất đặc biệt quyết định. Một cuộc nội chiến sắp nổ ra, một cuộc chiến mà người đàn ông đang nằm trước mặt ông đã vô cùng khéo léo và cẩn trọng để đoán định các ý nghĩ của kẻ thù.
Trong sự im lặng đang bao phủ lấy ông, tiếng nước chảy từ bên ngoài như thể gần hơn. Vào mùa hè, các giáo hữu thường xuyên đến chỗ cái thác và tắm nước lạnh ở đó. Ông cũng thích được làm như vậy, nhưng ông cũng biết là trước mắt sẽ không thể có sự nghỉ ngơi, ông quyết định không thông báo cho các giáo hữu về cái chết của Trưởng giáo cho đến giờ nguyện sớm sẽ diễn ra trong năm giờ nữa. TmiiỊ^ (Ịinl k I í ứ, ỉ) 9 í I i I nhiều lần tập hợp ngay sau nửa (IA111 cho ciíi: lễ nguyện HIÍIIJifl nhơn còn phải tính đến nhiều Giới luật. Giờ đây, một chương trình thực tế hơn đã được áp dụng, một chương trình công nhận tầm quan trọng của việc ngủ, tính nhiều đến thực tiễn của thế kỷ hai mươi mốt hơn là thố kỷ hai mươi.
Ông biết rằng không ai dám bước đến phòng của Trưởng giáo. Chỉ có ông, với tư cách là giám quan, được hưởng ưu tiên đó, đặc biệt trong thời gian Trưởng giáo bị ốm. Vì vậy ông quàng khăn và kéo chăn lên trùm mặt cho người chết.
Nhiều ý nghĩ chạy qua tâm trí A1 I
J» và ông cố gắng chống lại sự cám dỗ đang xuất hiện. Luật lệ, nếu không có gì khác nữa, truyền lại một ý thức về kỷ luật, và ông tự hào vì mình chưa bao giờ vi phạm điều gì. Nhưng giờ dây nhiều thứ đang gào lên với ông. Ông đã nghĩ đến chúng suốt cả ngày trong khi nhìn bạn mình chết dần đi. Nếu cái chết đã cướp đi Trưởng giáo trong khi tu viện vẫn nhộn nhịp các hoạt động, thì sẽ là không thể để làm điều mà giờ đây ông đang chiêm ngưỡng. Nhưng vào giờ này ông hoàn toàn được tự chủ, và nhìn vào những có thể xảy ra vào ngày tới thì điều này giống như là cơ may duy nhất của ông.
Vì vậy ông cúi người xuống, kéo cái chăn xuống, và kéo luôn cả tấm áo choàng màu xanh, để lộ ra bộ ngực đã ngừng đập của ông già. Sợi dây chuyền vẫn còn đó, chính xác như vẫn vậy, và ông tháo sợi dây vàng ra khỏi đó.
Một chiếc chìa khóa bạc treo ở cuối sợi dây.
Thứ lỗi cho con
, ông thì thầm và kéo chăn lên trở lại.
Ông vội đi ngang phòng, đến chỗ một cái tủ kiểu Phục hưng tối sầm sì với vô số vệt sáp, bên trong có một cái hộp đồng trang trí một cái mào
ằÉặ bạc. Chỉ giám quan biết đến sự tồn tại của nó, và ông đã nhìn thấy Trưởng giáo nhiều lần mở nó ra, dù chưa bao giờ ông được phép xem bên trong nó. Ông cầm cái hộp ra bàn, cắm chìa khóa vào, và một lần nữa cầu xin được tha thứ.
Ông tìm một quyển sách bọc da mà Trưởng giáo đã có từ nhiều năm nay. Ông biết nó được để trong cái hộp chắc chắn này - Trưởng giáo đã để nó vào đó khi ông có mặt - nhưng khi mở được nắp ra ông thấy chỉ có mấy thứ giấy tờ màu hồng nhạt, và một cuốn kinh. Không có sách.
Nỗi sợ của ông giờ đây đã trở thành thực tế. Nơi trước đây mới chỉ là nghi ngờ, giờ thì là sự chắc chắn.
Ông đặt cái hộp trở lại trong tủ và rời khỏi phòng ngủ.
Tu viện là một mê cung gồm các khu nhiều tầng, mỗi cái được xây thêm vào mỗi thế kỷ, kiến trúc có tình trộn lần nhiều kiểu, giờ đây là chỗ ở cho bốn trăm giáo hữu. Có nhà thờ nhỏ, một khu đất trống có hành lang bao quanh, phòng làm việc, văn phòng, một khu thể thao, các khu vệ sinh, nhà ăn, và nơi giải trí, một phòng thảo luận, phòng để đồ thánh, phòng ăn lớn, phòng khách, một trạm xá, và một thư viện lớn. Phòng ngủ của Trưởng giáo nằm ở một khu được xây vào thế kỷ mười lăm, nhìn thẳng ra những vách núi và một thung lũng hẹp. Nơi ở của các giáo hữu nằm gần đó, và giám quản đi qua một cánh cửa vòm dẫn vào một khu nhà ngủ rối rắm vẫn còn ánh đèn, vì Giới luật cấm phòng ngủ không bao giờ được tắt đèn hoàn toàn. Ông không thấy có chuyển động nào và không nghe thấy gì ngoài những tiếng ngáy thi thoảng vang lên. Nhiều thế kỷ trước có người gác ở cửa, và ông tự hỏi không biết sẽ ra sao nếu tục lệ đó được khôi phục trong những ngày sắp tới.
Ông đi dọc lối đi rộng, theo tấm thảm màu đỏ sẫm trải lên đá lát cứng. Ở một bên của lối đi là những bức tranh, tượng, và các công trình nhỏ gợi nhớ lại quá khứ của tu viện. Không giống như các tu viện khác ở vùng Pyrénóes, trong cuộc Cách mạng Pháp, không xảy ra cướp bóc ở đâu, nên cả nghệ thuật lẫn thông điệp của nó đều được lưu giữ đầy đủ.
Ông tìm thấy cầu thang chính và đi xuống tầng dưới. Qua những dãy hành lang mái vòm, ông đi qua những khu vực dành làm chỗ ngủ cho những người khách muốn sống cuộc đời ở tu viện. Không có nhiều người được mời lắm, mỗi năm chỉ khoảng một nghìn người, thu nhập khiêm tốn từ việc đó được thêm vào cho chi tiêu hàng năm, nhưng dù có khách đến thăm, nhiều biện pháp được áp dụng để đảm bảo sự riêng tư cho cuộc đời các giáo hữu.
Lối vào mà ông tìm nằm ở cuối một hành lang khác ở tầng dưới cùng. Cánh cửa, nạm những thứ hình ảnh từ thời Trung cổ, đang mở, như thường lệ.
Ông bước vào thư viện.
Rất ít bộ sưu tập có thể tự hào là chưa bao giờ bị xáo trộn, nhưng vô số những quyển sách đang nằm xung quanh ông đã không hề bị xâm phạm trong suốt bảy thế kỷ. Khởi đầu chỉ với một ít sách, bộ sưu tập đã lớn lên rất nhanh thông qua sách tặng, sách để lại, sách mua, và hồi Khởi đầu, nhờ những người chép sách ngày đêm. Các lĩnh vực chính thay đổi theo thời gian, với những nhấn mạnh vào thần học, triết học, lôgic học, lịch sử, luật, khoa học, và âm nhạc. Câu tiếng Latinh gắn vào lớp vữa phía trên cánh cửa thật đúng. CLAUSTRUM SINE ARMARIO EST QUASI CASTRUM SINE ARMAMENTARIO. Một tu viện không có thư viện giống như một lâu đài không có kho vũ khí.
Ông dừng lại và lắng nghe.
Không có ai ở xung quanh.
An ninh không thật sự là một mối lo, vì tám trăm năm Giới luật đã chứng tỏ có hiệu quả hơn là việc trông coi các giá sách. Không giáo hữu nào dám đột nhập mà không được phép. Nhưng ông không phải là một giáo hữu. Ông là một giám quản, ít nhất là thêm một ngày nữa.
Ông định hướng giữa những cái giá, đi về phía cuối một khối giá lớn, và dừng lại trước một cánh cửa sắt màu đen. Ông giơ một tấm thẻ nhựa ra trước máy scanner gắn trên tường. Chỉ có trưởng giáo, tướng quân, thủ thư, và ông có thẻ. Để được đọc những quyển sách, từ đây trở đi cần được sự cho phép trực tiếp của trưởng giáo. Ngay cả thủ thư cũng cần được đồng ý thì mới được vào. Chất ở bên trong là nhiều quyển sá ch quý, những văn
bản cổ, chứng thư, danh sách thành viên, và, quan trọng nhất, Biên niên sử, chứa đứng lịch sử toàn bộ sự tồn tại của Dòng. Cũng giống như những ghi chép theo từng phút lịch sử của Nghị viện Anh hoặc Quốc hội Mỹ, Biên niên sử miêu tả chi tiết các thắng lợi và thất bại của Dòng. Những cuốn nhật ký được lưu giữ, rất nhiều có bìa cũ kỹ dễ vỡ tan và được cài móc đồng, cái nào trông cũng như một cái hòm nhỏ, nhưng toàn bộ dữ liệu ngày nay đã được scan vào máy tính — khiến cho việc tìm kiếm về lịch sử chín trăm năm của Dòng trở nên dễ đàng hơn rất nhiều.
Ông bước vào, định hướng trong ánh sáng mờ ảo, và tìm thấy cuốn sách chép tay nằm ở đúng chỗ của nó. Cuốn sách nhỏ rộng tám inch và dày một inch. Ông đã đọc nó hai năm trước, các trang làm bằng giấy da dê. Không giống lắm với một quyển sách, mà như một ông tổ - một nỗ lực từ sớm trong việc thay thế những tấm da cuộn và cho phép in lên hai mặt một tờ giấy.
Ông cẩn thận giở bìa sách ra.
Không có trang ghi tên, dòng chữ Latinh cong cong nằm giữa một cái khung trang trí, màu đỏ sẫm, xanh, và vàng. Ông biết là nó được chép lại vào thế kỷ mười lăm bởi một người chép sách chuyên nghiệp của tu viện. Phần lớn các sách chép tay không còn tồn tại, vì da dê được dùng cho những quyển sách khác, thành bìa, hoặc là bị đốt mất. Nhờ trời mà quyển sách này vẫn còn. Thông tin mà nó chứa đựng là vô giá. Ông chưa bao giờ nói cho ai biết điều mà ông đã tìm ra trong cuốn sách, kể cả Trưởng giáo, và vì ông sẽ có thể cần đến thông tin đó, và cũng vì không có thời cơ nào tốt hơn lúc này, ông luồn quyển sách vào áo choàng của mình.
Ông đi hết một lối đi khác và tìm được một quyển sách mỏng khác, chữ cũng được chép tay, nhưng niên đại là cuối thế kỷ mười chín. Không phải là một quyển sách viết cho người khác đọc, mà là những ghi chép cá nhân. Có thể là ông cũng sẽ cần đến nó, nên ông cũng luồn nó vào trong áo choàng của mình.
Rồi ông rời khỏi thư viện, biết rằng máy tính kiểm soát cánh cửa an ninh đã ghi lại thời gian chuyến viếng thăm của ông. Những đoạn từ gắn vào hai cuốn sách sẽ cho biết là chúng đã bị lấy đi. Vì không còn đường ra nào khác, và việc cắt đi những đoạn từ sẽ làm hỏng sách, nên ông không còn nhiều lựa chọn lắm, Ông chỉ có thể hy vọng là sự hỗn loạn của những ngày sắp tới sẽ khiến người ta không để tâm kiểm tra bộ nhớ của máy tính.
Giới luật rất rõ ràng.
Ăn cắp tài sản của Dòng sẽ bị khai trừ.
Nhưng đó là một cơ may mà ông cần phải nắm lấy.