Chương 63
-
Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ
- Steve Berry
- 2709 chữ
- 2020-02-02 09:00:20
Tiểu Huyên dịch
Võ Thị phát hành
Nxb Văn Học
MARK ĐI TRƯỚC DẪN ĐƯỜNG TRÊN LỐI ĐI NGẦM, ĐI QUA cái thang, để đến nơi Malone và Cassiopeia đã khám phá. Từ nhà thờ phía trên không hề có ánh sáng rọi xuống. Khi rời khỏi phòng chứa kho báu, anh đã cầm theo cái kéo to vì nghĩ cánh cửa bên kia cũng được khóa lại bằng một sợi dây xích.
Họ đi đến chỗ dòng chữ khắc trên đá.
Bằng dấu hiệu này ngươi sẽ chiến thắng nó
, de Roquefort đọc, rồi gã chiếu đèn vào cánh cửa thứ hai.
Đây à ?
Mark gật đầu và chỉ vào bộ xương nằm dựa vào tường.
Ông ta đã tự đến đây đây
. Anh giải thích về viên tướng quân vào thời Saunière và kể về sợi dây chuyền mà Malone đã tìm thấy.
Ông ta cũng xứng đáng với kết cục này thôi
, de Roquefort nói.
Thế những gì ông đang làm thì hơn gì ?
Tôi đến đây là vì các giáo hữu
.
Trong quầng ánh sáng của cái đèn, Mark nhận ra một đoạn hơi thấp xuống của nền đất trước mặt. Không nói một lời nào, anh đi vòng qua đó, về phía tường, tránh khỏi cái bẫy mà de Roquefort không có vẻ gì là nhận ra, trong khi vẫn đang chăm chú nhìn bộ xương. Ở cửa, anh dùng kéo cắt dây xích. Anh nhớ đến lời cảnh báo của Malone và đứng lệch về một phía trong khi kéo cửa ra.
Bên trong lối vào cũng có hai lối rẽ gấp. Anh đi từng bước nhỏ lên phía trước. Trong luồng sáng màu vàng của cái đèn, anh không nhìn thấy gì khác ngoài đá.
Anh rẽ ở ngả rẽ đầu tiên, rồi chỗ thứ hai. De Roquefort đứng sau anh và hai luồng ánh sáng phối hợp nhau của họ chiếu sáng một căn phòng thứ hai, rộng hơn phòng chứa kho báu thứ nhất.
Căn phòng gồm nhiều bệ đá với nhiều hình thù và kích thước khác nhau. Những cuốn sách để trên đó, tất cả san sát với nhau. Hàng trăm quyển.
Một cảm giác khó ở xâm chiếm lấy Mark khi anh nhận ra rằng các bản thảo viết tay ở đây đã gần như bị hỏng hết cả. Mặc dù phòng lạnh và khô, thời gian đã làm hư hại cả các trang giấy và mực viết trên đó. Sẽ tốt hơn nhiều nếu chúng được để vào loại thùng chứa nào đó. Nhưng các giáo hữu giấu những thứ này hẳn chưa bao giờ tưởng tượng được rằng bảy trăm năm sau những quyển sách mới được sờ đến.
Anh bước đến gần một chồng sách và nhìn vào cái bìa trên cùng. Nơi chắc chắn trước đây được mạ vàng trên bảng gỗ giờ đã chuyển thành màu đen. Anh xem xét những hình khắc tạc hình Christ và hai người có vẻ như là Peter và Paul, mà anh biết là làm bằng đất sét và sáp ong bên dưới lớp vàng. Đồ của người Ý. Kỹ thuật của người Đức. Anh thận trọng giở trang đầu tiên ra và đưa đèn lại gần. Sự nghi ngờ của anh đã được khẳng định. Anh không nhìn rõ được các chữ nữa.
Ông có đọc được không ?
, de Roquefort hỏi.
Anh lắc đầu.
Chắc là phải đưa đến một phòng thí nghiệm. Sẽ phải cần chuyên gia phục chế. Chúng ta không nên chạm vào
.
Có vẻ như là đã có ai đó làm việc ấy rồi
.
Anh nhìn chăm chăm theo luồng ánh sáng ngọn đèn của de Roquefort và nhìn thấy một chồng sách tung tóe trên mặt đất. Những mẩu giấy nhỏ nằm vương vãi như thể được giật ra từ một đám cháy.
Lại là Saunière
, anh nói.
Phải mất hàng năm mới lọc ra được những gì hữu ích từ đó. Và cũng có thể đặt giả định là trong đó không có gì để mà tìm kiếm cả. Ngoài một giá trị lịch sử nào đó, rất có thể chúng là vô dụng
.
Chúng là của chúng ta".
Vậy thì sao nào, anh nghĩ.
Nhưng trong óc anh đang loang loáng những khả năng. Saunière đã đến nơi này. Không còn phải nghi ngờ gì nữa. Căn phòng chứa kho báu là nguồn cung cấp tài sản cho ông ta - hẳn là hồi đó việc thỉnh thoảng quay lại đây lấy vàng và bạc thỏi không gặp phải khó khăn gì. Tiền vàng và tiền bạc thì có thể gây ra nghi vấn. Nhân viên ngân hàng và thợ kim hoàn rất có thể muốn biết nguồn gốc của chúng. Nhưng kim loại quý nguyên chất thì vẫn còn là loại tiền tệ lưu thông rộng rãi cho đến đầu thế kỷ hai mươi, khi nhiều nền kinh tế vẫn sử dụng tiền vàng và tiền bạc.
Tu viện trưởng còn đi một bước xa hơn nữa.
Ông ta đã sử dụng tiền để xây dựng một nhà thờ chứa đựng rất nhiều lời gợi ý chỉ dẫn đến điều gì đó mà rõ ràng là Saunière tin tưởng. Điều gì đó mà ông ta chắc chắn đến mức dám phô bày ra. Bằng dấu hiệu này ngươi sẽ chiến tháng nó. Dòng chữ khắc đó không chỉ có ở đây, ngầm dưới đất, mà còn có ở nhà thờ Rennes. Anh mường tượng lại những từ được sơn ngay ở lối vào nhà thờ đó. Ta đã chiêm ngưỡng vương quốc của thế gian này, và toàn bộ những gì trang trí ở đó, vì tình yêu với Đức Chúa Jesus Christ của ta, người mà ta nhìn thấy, người mà ta tin tưởng, và người mà ta cầu nguyện. Những từ khó hiếu từ một bài thánh ca cổ ư ? Có thể. Nhưng Saunière đã chọn chúng một cách có chủ ý.
Người mà ta nhìn thấy.
Anh chiếu đèn xung quanh phòng và xem xét các bệ đá.
Rồi anh nhìn thấy nó.
Đâu là nơi tốt nhất để giấu một viên sỏi ?
Thật vậy, ở đâu ?
Malone quay trở lại chỗ để máy phát điện, nơi Stephanie và Henrik đang đứng. Cassiopeia vẫn tiếp tục làm việc
với bộ chân chống. Anh cúi xuống xem còn gasoline trong máy không.
Cái này có gây nhiều tiếng động không ?
, anh nhỏ giọng hỏi.
Chúng ta chỉ có thể hy vọng thôi. Nhưng thật không may là ngày nay mấy loại máy này ít gây tiếng ồn lắm
.
Anh không chạm vào cái túi đựng dụng cụ vì sợ khiến chúng để ý đến nó. Cho đến giờ chưa có tên lính gác nào thèm kiểm tra bên trong. Có vẻ như công việc đào tạo bảo vệ ở tu viện không thực sự là hoàn hảo. Nhưng cách nào mà nó có thể hiệu quả cho được ? Chắc chắn là có thể học được về chiến đấu tay đôi, bắn súng, múa kiếm. Nhưng số lượng người để lựa chọn đào tạo rất hạn chế, và cũng phải có bao nhiêu cát mới làm ra được một chiếc lọ thủy tinh.
Sẵn sàng rồi
, Cassiopeia nói đủ lớn để mọi người đều nghe thấy.
Chúng ta phải báo được cho Mark
, Stephanie thì thầm.
Tôi hiểu
, Malone nói.
Nhưng chúng ta buộc phải tiến hành việc này khi đến thời điểm
.
Anh có nghĩ đến lúc nào đó de Roquefort sẽ cho phép nó lên trên này không ? Hắn đã bắn chết Geoffrey không chút ngại ngần
.
Anh nhìn thấy sự bồn chồn của bà.
Tất cả chúng ta đều hiểu tình hình
, anh thì thầm.
Cứ bình tĩnh đi
.
Cả anh cũng muốn tóm được de Roquefort. Vì Geoffrey.
Tôi cần một giây với cái túi đựng dụng cụ", Cassiopeia nói thật nhẹ và cúi người xuống để cho cái tuốc nơ vít vào lại trong túi. Bốn trong số sáu tên lính gác đứng ở bên kia nhà thờ, cạnh một đống lửa. Hai tên còn lại đứng lệch ra về phía tay trái, gần một đống lửa khác. Có vẻ như là bọn chúng không mấy để ý đến họ, vì tin rằng không có gì phải lo.
Cassiopeia vẫn lúi húi với cái túi đựng dụng cụ, tay cô vẫn ở bên trong, và khẽ gật đầu với anh. Sẵn sàng rồi. Anh đứng dậy và
gọi,
Chúng tôi sắp bật máy phát điện đây
.
Tên chỉ huy ra hiệu bảo anh cứ làm.
Anh quay đầu lại và thì thầm với Stephanie.
Sau khi tôi bật
nó lên, chúng ta sẽ phải lao ngay vào hai tên đứng gần nhau kia.
Tôi phụ trách một tên, chị phụ trách tên còn lại
.
Rất vui lòng
.
Bà có vẻ lo lắng và anh hiểu điều đó.
Không đơn giản như là chị nghĩ đâu nhé
.
Để rồi xem
.
Mark lại gần một bệ đá giữa khoảng một chục bệ khác. Anh nhìn thấy điều gì đó. Trong khi các bệ khác được chồng bằng nhiều cột, một số chỉ bằng một cái cột, phần lớn là thành từng cặp đôi, thì bệ này lại có một cái trụ hình vuông, giống như ban thờ phía trên. Và cái làm anh chú ý là cách bố trí những viên đá. Chín ô đá theo chiều ngang, bảy theo chiều đứng.
Anh cúi xuống và chiếu đèn vào bên dưới. Không có vết vữa ở mặt trên. Giống hệt ban thờ.
‘Phải bỏ đống sách này xuống
, anh nói.
Ông đã nói là không được chạm vào chúng cơ mà
.
Những gì có ở bên trong mới quan trọng
.
Anh bỏ cái đèn xuống và nhấc mấy quyển sách lên. Bụi rơi xuống lả tả. Anh nhẹ nhàng đặt chúng lên trên sàn đất. De Roquefort làm theo. Mỗi người mất ba lần khiêng thì mặt trên không còn một quyển sách nào.
Nó chuyển động được đấy
, anh nói.
Mỗi người nắm lấy một đầu và mặt đá dịch chuyển, dễ dàng hơn nhiều so với ban thờ trên mặt đất, vì bệ đá chỉ có kích thước nhỏ bằng một nửa. Họ đẩy nó ra, phiến đá vôi rơi xuống sàn, vỡ thành nhiều mảnh. Phía trong bệ đá, Mark nhìn thấy một cái hộp khác, nhỏ hơn, khoảng hai mươi tư inch chiều dài, rộng khoảng một nửa đó, và cao khoảng mười tám inch. Được làm bằng đá màu ghi - đá vôi, nếu anh không nhầm - và vẫn ở tình trạng rất tốt.
Anh cầm lấy cái đèn và chiếu vào đó. Đúng như anh đã nghĩ, có chữ viết ở trên.
Một cái bình đựng cốt
, de Roquefort nói.
Có biết là của ai không ?
Anh xem xét dòng chữ và thấy mừng vì được viết bằrig tiếng Aramaic. Chắc là đúng. Tập tục để người chết trong các hầm mộ ngầm dưới đất cho đến khi tất cả chỉ còn lại đống xương khô, rồi chúng được cho vào một cái bình đá, rất quen thuộc với người Do Thái trong thế kỷ đầu tiên. Anh biết rằng hàng nghìn tiểu đựng cốt vẫn còn lại. Nhưng chỉ một phần tư trong số chúng có chữ viết ở trên để có thể biết được bên trong là xương của ai - hiện tượng này được giải thích bằng việc dân chúng thời đó ít người biết chữ. Trong nhiều thế kỷ, nhiều bình đựng cốt giả đã xuất hiện - đặc biệt là một cái được cho là đựng xương của James, người anh em cùng cha khác mẹ của Jesus. Một cách kiểm tra độ xác thực là dựa trên kiểu chất liệu được sử dụng - đá vôi từ những hòn núi gần Jerusalem - cùng với cách khắc chữ, rồi kiểm tra bằng kính hiển vi lớp gỉ đồng, và kiểm tra chất Các bon.
Anh đã học tiếng Aramaic ở đại học. Một thứ tiếng khó, thêm nữa lại hết sức phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau, rồi tiếng lóng, và rất nhiều lỗi của những người chép sách ngày xưa. Làm thế nào để khắc chữ lên cũng là một vấn đề. Phần lớn chúng rất nông, được người ta dùng đinh để vạch lên. Hoặc chúng được viết nguệch ngoạc, trông giống như các hình vẽ graffiti. Cũng có lúc, như ở đây, chúng được khắc bằng bút trâm, nên các chữ khá rõ. Chính vì vậy mà anh không gặp khó khăn gì để luận ra các chữ. Trước đây anh đã nhìn thấy chúng. Anh đọc từ phải sang trái.
YESHUA BAR YEHOSEF
Jesus, con trai của Joseph
, anh dịch ra.
Xương của ông ấy đây à ?
Có vẻ là như vậy
. Anh nhìn cái nắp.
Mở nó ra đi
.
De Roquefort với lấy và lay cái nắp sang hai bên, cho đến khi nó rời ra. Rồi gã nhấc nắp ra và dựng nó đứng cạnh cái bình.
Mark hít một hơi thật dài.
Bên trong là xương.
Một số đã biến thành cát bụi. Nhiều mảnh vẫn còn nguyên. Một cái xương đùi. Một xương chày. Vài mảnh xương sườn, một khung xương chậu. Rồi có những mẩu trông giống ngón tay, ngón chân, rồi các phần của xương sống.
Và một cái sọ.
Đây có phải là cái mà Saunière đã tìm thấy ?
Dưới cái sọ là một quyển sách nhỏ vẫn còn rất nguyên lành. Điều này cũng dễ hiểu, vì nó được để bên trong cái bình, bản thân cái bình lại được để trong một cái hộp bên ngoài nữa. Bìa sách tuyệt đẹp, dát vàng và khảm những viên đá theo hình một cây thập giá. Christ nằm trên cây thập giá, cũng được làm bằng vàng. Xung quanh thập giá là nhiều viên đá nhỏ nữa màu đỏ thẫm, xanh ngọc và vàng chanh.
Anh kéo quyển sách ra, phủi bụi và những gì dính trên bìa, rồi đặt nó lên một góc bệ đá. De Roquefort cầm đèn tiến lại gần. Anh mở trang bìa ra và đọc những dòng đầu tiên, được viết bằng tiếng Latinh theo lối chữ Gô tích không có dấu, mực là một hỗn hợp màu xanh và đỏ thẫm.
TRONG SÁCH LÀ NHỮNG GÌ CÁC GIÁO HỮU SÁNG LẬP DÒNG ĐÃ TÌM THẤY TRONG KHI TÌM KIẾM TRONG ĐỀN núi THựC HIỆN VÀO MÙA ĐÔNG NĂM 1121. BẢN Gốc ĐÃ BỊ HƯ HẠI NẶNG NÊN ĐƯỢC CHÉP LẠI CHÍNH XÁC BANG thứ NGÔN NGỮ MÀ CHỈ MỘT NGƯỜI TRONG số CHÚNG TA HlỂU ĐƯỢC THEO LỆNH CỦA TRƯỞNG GIÁO WILLIAM DE GHARTRES NGÀY 4 THÁNG SÁU NĂM 1217 VĂN BẢN ĐÃ ĐƯỢC DỊCH RA NGÔN NGỮ CỦA CÁC GIÁO HỮU VÀ Được Lưư GIỮ ĐỂ TẤT CẢ ĐỀU Được BIẾT De Roquefort đọc qua vai anh và nói,
Quyển sách này được đặt vào cùng với cái tiểu đựng cốt là có lý do
.
Mark đồng ý.
Có xem được đoạn sau không ?
Tôi cứ nghĩ ông ở đây là vì các giáo hữu cơ mà ? Ông không định mang nó về tu viện và đọc cho tất cả mọi người cùng nghe à ?
Tôi sẽ làm việc đó sau khi đã đọc
.
Anh tự hỏi không biết các giáo hữu có bao giờ biết được không. Nhưng anh muốn biết, thế nên anh xem xét trang tiếp theo.
Nó được viết bằng tiếng Aramaic. Tôi chỉ đọc được ít thôi. Thứ tiếng này đã biến mất hai nghìn năm rồi
.
Đoạn đầu nói đến một bản dịch
.
Anh cẩn thận mở các trang và thấy rằng những dòng chữ bằng tiếng Aramaic kéo dài trong bốn trang. Rồi anh nhìn thấy những từ mà anh hiểu được. NGÔN NGỮ CỦA CÁC GIÁO HỮU. Tiếng Latinh. Toàn bộ vẫn còn ở tình trạng rất tốt, dù thứ giấy da dê lâu năm đã bạc màu. Mực cũng còn rất rõ. Một dòng chữ lớn viết ở trên.
LỜI CHỨNG CỦA SIMON
Anh bắt đầu đọc.