Chương 65
-
Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ
- Steve Berry
- 2259 chữ
- 2020-02-02 09:00:20
Tiểu Huyên dịch
Võ Thị phát hành
Nxb Văn Học
LỜI CHỨNG CỦA SIMON
TÔI ĐÃ GIỮ IM LẶNG, NGHĨ RẰNG cứ ĐỂ NGƯỜI KHÁC NGHĨ như vậy là tốt hơn. Nhưng không thể được nữa. Thế nên tôi sẽ viết ra để các người biết được những gì đã xảy ra.
Jesus đã bỏ ra nhiều năm để rao giảng thông điệp của mình trên khắp các vùng Judea và Galilee. Tôi là tông đồ đầu tiên của ông ấy, nhưng số lượng tông đồ chúng tôi đã tăng lên vì nhiều người tin rằng những lời nói của ông ấy chứa đựng một ý nghĩa lớn lao. Chúng tôi đã đi cùng ông ấy, chứng kiến ông ấy làm giảm bớt sự đau khổ, mang lại hy vọng, Và reo rắc sự cứu rỗi. Ông ấy vẫn luôn là chính mình, vào bất kỳ lúc nào và trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nếu đám đông chào đón ông ấy, ông ấy sẽ đến gặp họ. Khi sự thù địch vây quanh ông ấy, ông ấy cũng không tỏ ra sợ hãi hoặc tức giận. Những gì người khác nghĩ về ông ấy hoặc làm với ông ấy không mảy may có tác động đến ông ấy. Đã có lần ông ấy nói,
Tất cả chúng ta đều mang hình ảnh của Chúa, tất cả chúng ta đều xứng đáng được yêu thương, và tất cả chúng ta đều có thể lớn lên trong tinh thần của Chúa.
Tôi đã thấy ông ấy ôm hôn những người hủi và những kẻ vô luân. Ông ấy yêu quý phụ nữ và trẻ em. Ông ấy đã chỉ cho tôi thấy rằng tất cả mọi người đều xứng đáng được yêu thương. Ông ấy nói,
Chúa là cha của chúng ta. Người chăm lo, yêu thương, và tha thứ cho tất cả. Sẽ không con chiên nào bị lạc khỏi nfỊười chớn Ili) V tự do mà nồi với Chúa tất cả, vì chỉ với sự cởi mở lòng mình như vậy, trái tim mới có thể có được sự bằng an.
Jesus đã dạy tôi cầu nguyện. Ông ấy nói đến Chúa, đến cuộc phán xét cuối cùng, và đến sự chấm dứt của thời gian. Tôi nghĩ rằng ông ấy thậm chí có thể điều khiển được gió và sóng biển vì quyền nang ông ấy vượt xa chúng ta. Các vị giáo sĩ quyền uy dạy rằng nỗi đau, bệnh tật và sự mất mát là phán xử của Chúa cho tội lỗi chúng ta, và chúng ta cần chấp nhận cơn thịnh nộ đó bằng sự buồn đau và hối cãi. Đức Jesus nói rằng điều đó là sai và truyền cho người ốm lòng can đảm để trở nên khỏe mạnh, người yếu đuối được trở nên vững lòng, và những kẻ không có lòng tin có cơ hội để tin tưởng. Dường như thế giới hoàn toàn thay đổi khi ông ấy đến. Đức Jesus có một mục đích, ông ấy sống cuộc đời mình để hoàn thành mục đích đó, và mục đích ấy hết sức rõ ràng đối với những người đi theo ông ấy.
Nhưng trong những chuyến di của mình, người Jesus đã tạo cho mình những kẻ thù. Những kẻ trưởng lão coi ông là một mối nguy, vì ông đưa ra những giá trị mới, quy định mới và de dọa quyền uy của họ. Họ sợ rằng nếu người Jesus được tự do đi lại truyền giáo, thì Home sẽ mất dần đi vòng kiềm tỏa sẵn có và sẽ chịu nhiều mối nguy đặc biệt là các chức sắc phục vụ Rome. Vì vậy Jesus đã bị bắt vì tội báng bổ và Pilate đã xử ông ấy án bị treo lên cây thập giá. Tôi đã ở đó vào ngày hôm ấy, và khi quyết định, Pilate không hề vui vẻ gì nhưng các trưởng lão đòi hỏi công lý phải được thực thi và Pilate không thể chống lại họ.
Ở Jerusalem, người Jesus và sáu người khác bị mang đến một nơi trên đồi và bị buộc lên thập giá. Trong ngày, chân của ba người trong số họ bị đập nát và họ chết vào buổi đêm. Hai người khác nữa chết vào ngày hôm sau. Người Jesus sống đến ngày thứ ba thì chân cũng bị đập nát. Tôi đã không đến chỗ ông ấy khi ông ấy đang phải chịu nhục hình. Tôi, và những người khác từng đi theo ông ấy, đã đi trốn, vì sợ cũng sẽ bị kết tội. Sau khi ông ấy chết, người Jesus bị để mặc trên thập giá thêm sáu ngày cho chim rỉa thịt. Cuối cùng ông ấy được mang xuống từ thập giá và vứt xuống một cái hố đào dưới đất. Tôi đã nhìn thấy cảnh đó, rồi trốn khỏi Jerusalem qua ngả sa mạc, dừng chân lại ở Bethany tại nhà của hai chị em Mary Magdalene và Martha. Họ đều biết người Jesus và đều buồn bã vì cái chết của ông ấy. Họ giận dữ vì tôi đã không tìm cách bảo vệ ông ấy, đã không biết ơn ông ấy, vì đã chạỵ trốn khi ông ấy phải chịu nạn. Tôi hỏi họ muốn tôi làm gì và câu trả lời rất rõ ràng.
Ở bên cạnh ông ấy. Nhưng ý nghĩ đó chưa bao giờ xuất hiện trong đầu óc tôi. Thay vào đó, với tất cả những người hỏi tôi, tôi đều chối bỏ người Jesus và tất cả những gì ông ấy rao giảng. Tôi rời khỏi nhà họ, mấy ngày sau quay lại Galilee và cuộc sống của mình.
Hai người khác cũng đã từng đi theo Jesus, James và John, cũng quay về Galilee. Cùng nhau, chúng tôi thương tiếc người Jesus và quay trở lại làm ngư dân. Bóng tối mà tất cả chúng tôi đều cảm thấy nhấn chìm chúng tôi trong đau khổ và thời gian cũng không thể làm chúng tôi nguôi ngoai được. Khi đánh cá ở Biển Gaillee, chúng tôi nói chuyện với nhau về người Jesus và tất cả những gì ông ấy từng làm, cũng như tất cả những gì mà chúng tôi đã chứng kiến. Nhiều năm trước, ở hồ, lần đầu tiên chúng tôi đã gặp ông ấy và ông ấy đã dạy dỗ chúng tôi ở trên thuyền. Kỷ niệm về ông ấy có ở khắp nơi trên mặt nước, khiến cho chúng tôi không tài nào thoát ra nổi. Một đêm, khi một cơn bão nổ ra trên hồ và chúng tôi ngồi trên bờ ăn bánh mì và câu cá, tôi nghĩ rằng mình nhìn thấy người Jesus phía trên sương mù. Nhưng khi dụi mắt, tôi biết rằng đó chỉ là một ảo ảnh. Mỗi sáng chúng tôi bẻ bánh mì và ăn cá. Tưởng nhớ những gì người Jesus đã từng làm - một người trong chúng tôi ban phúc cho bánh mì và dâng nó lên cho Chúa. Hành động đó làm cho tất cả chúng tôi cảm thấy khá hơn. Một hôm, John nói rằng cái bánh mì gãy cũng giống như cơ thể bị gãy của người Jesus. Sau đó, tất cả chúng tôi đều coi bánh mì là hiện thân của cơ thể.
Bốn tháng trôi qua và một hôm James nhắc nhở chúng tôi rằng kinh Torah đã tiên báo rằng kẻ nào bị treo trên cây sẽ bị nguyền rủa. Tôi nói với Jame rằng điều đó không thể đúng với người Jesus. Đó là lần đầu tiên có người trong số chúng tôi đặt lại câu hỏi về những câu viết cổ xưa. Đơn giản là chúng không thể áp dụng với ai tốt hơn là với người Jesus. Bằng cách nào mà một tác giả xa xưa đến vậy lại biết rằng tất cả những ai bị treo trên cây lại bị nguyền rủa. Ông ta không thể biết được. Trong trận chiến giữa người Jesus và thư tịch cổ, người Jesus đã chiến thắng.
Sự đau buồn tiếp tục hành hạ chúng tôi. Người Jesus đã đi. Giọng nói của ông ấy đã câm lặng. Các trưởng lão tiếp tục sống và thông điệp của họ vẫn còn lại. Không phải bởi vì chúng đúng, mà chỉ đơn giản vì chúng sống động và được nói lên. Các trưởng lão đã chiến thắng người Jesus. Nhưng làm thế nào mà một điều tốt đẹp đến vậy lại có thể là sai được ? Tại sao Chúa lại cho phép điều tốt đẹp đến nhường ấy biến mất ?
Mùa hè kết thúc và đến lễ Hòm thánh, đó là lúc ăn mừng mùa màng. Chúng tôi nghĩ rằng việc đi đến Jerusalem đã an toàn và lên đường. Khi đến đó, trong đám rước đến ban thờ, trong các Thánh vịnh, người ta đọc rằng Thiên sứ sẽ không chết, mà sẽ sống và kể lại toàn bộ thần tích của Chúa. Một trong số các trưởng lão cho rằng mặc dù Chúa đã trừng phạt vị Thiên sứ một cách nặng nề, nhưng không đến nỗi đẩy ông ấy đến chỗ chết. Mà thay vào đó, hòn đá mà những người xây dựng ném đi lại trở thành nền móng. Trong Đền thờ, chúng tôi nghe nhiều đoạn trích giảng từ Zechariah rao giảng, nói rằng một ngày Chúa sẽ đến và những đợt sóng sẽ xuất phát từ Jerusalem ào đi khắp nơi và Chúa sẽ trở thành vị vua của toàn thế giới. Rồi một tối khác, tôi lại đến nghe những lời từ Zechariah. Nó nói vẻ nước trào ra từ Nhà Dayid và về một tinh thần kiêm ái và chịu đựng. Khi chúng tôi nhìn vào ông ấy, người mà bọn họ đã đâm thủng, chúng tôi sẽ khóc thương cho ông ấy như người ta khóc thương đứa con đầu lòng.
Trong khi nghe, tôi nghĩ đến người Jesus và những gì xảy đến với ông ấy. Có vẻ như là người giảng đạo đang nói trực tiếp với tôi khi ông ta nói về kế hoạch của Chúa đánh đập kẻ chăn chiên để con chiên có thể chạy thoát. Vào lúc đó, tôi cảm thấy một tình yêu thương bao la tràn ngập con người mình và không biến mất đi nữa. Đêm đó, tôi đã đi ra ngoài Jerusalem, đến nơi quân lính La Mã đã chôn người Jesus. Tôi đã quỳ gối trên hài cốt của ông ấy và tự hỏi tại sao một người đánh cá bình thường lại có thể là nguồn gốc của toàn bộ chân lý. Trưởng giáo và các lục sự đã gán cho người Jesus tội lừa đảo. Nhưng tôi biết là họ đã sai. Chúa không đòi hỏi phải tuân theo các giới luật cũ để hoàn thành được sự cứu rỗi. Tình yêu của Chúa là không bờ bến. Người Jesus đã nhiều lần nói điều đó, và bằng cách chấp nhận cái chết của mình một cách can đảm và đầy phẩm giá, người Jesus đã cho tất cả chúng ta một bài học cuối cùng, về việc tìm ra cuộc đời khi kết thúc cuộc đời. Yêu thương là được yêu thương.
Toàn bộ sự nghi ngờ đã rời khỏi tôi. Sự đau buồn biến mất. Sự bối rối trở thành sáng rõ. Người Jesus không hề chết. Ông ấy vẫn sống. Người phục sinh trong tôi chính là Chúa sống lại. Tôi cảm thấy sự hiện diện của ông ấy rõ rệt như thể đã từng có lúc ông ấy đứng bên cạnh tôi. Tôi nhớ đến điều ông ấy từng nhiều lần nói với tôi,
Simon, nếu ngươi yêu ta ngươi sẽ tìm thấy con chiên của ta.
Cuối cùng tôi đã biết rằng yêu thương như ông ấy từng yêu thương sẽ giúp cho mọi người biết được về Chúa. Làm như ông ấy từng làm sẽ giúp tất cả chúng ta biết được về Chúa, sống như ông ấy từng sống là một con đường đi đến sự cứu rỗi. Chúa đã từ nước trời xuống dưới hình dạng của người Jesus và thông qua các hành động và lời nói của ông ấy mà người ta biết được đến Chúa. Thông điệp rất rõ ràng. Chăm sóc những người cần được chăm sóc, an ủi cho những người mắc chứng ưu phiền, làm bạn với những người bị chối bỏ. Hãy làm những điều đó và Chúa sẽ vui lòng. Chúa đã lấy đi tính mạng của người Jesus để chúng ta có thể thấy được. Tôi chỉ là người đầu tiên chấp nhận chân lý đó. Nhiệm vụ đã trở nên rõ ràng. Thông điệp phải được truyền lại thông qua tôi và những người khác có lòng tin.
Khi tôi nói cho John và James về ảo ảnh của tôi thì hóa ra họ cũng đã từng nhìn thấy nó. Trước khi rời khỏi Jerusalem, chúng tôi quay trở lại nơi tôi đã nhìn thấy ảo ảnh và đào từ dưới đất lên hài cốt của người Jesus. Chúng tôi mang theo ông ấy cùng chúng tôi và để ông ấy vào một cái hầm. Năm sau đó, chúng tôi quay trở lại để lấy xương của ông ấy. Rồi tôi viết những dòng này để đặt vào cùng với người Jesus, bởi vì chúng chính là Lời.