• 84

Chương 2


Số từ: 7840
Nguồn: isach
Dịch giả: Quế Sơn
NXB Văn Học
38.
Sáu ngày sau, ở Cao Cương, Hervé Joncour lên chiếc tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh trở lại Sabirk. Từ đó anh đi ngược lên, dọc theo biên giới Tàu cho tới hồ Baikal, băng qua bốn ngàn cây số vùng đất Sibérie, vượt rặng núi Oural, đến được lại thành Kiev rồi lên tàu lửa đi suốt châu Âu, từ đông sang tây, như thể sau một cuộc hành trình về nước dài ba tháng trời, anh đến Pháp. Ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư - vừa kịp giờ dự lễ cả - anh về đến cửa ngõ vào thị trấn Lavilledieụ Anh cho ngừng xe, và ngồi bất động trong nhiều phút đằng sau tấm màn cửa kéo kín. Rồi anh xuống xe và tiếp tục đi bộ, bước chân này sau bước chân kia, với một sự mệt mỏi vô hạn.
Baldabiou hỏi anh có chứng kiến chiến tranh nào không.
- Không phải cuộc chiến tôi chờ đợi, anh trả lời.
Đêm đó anh vào giường Hélène và làm tình với nàng một cách nóng nảy, vội vã đến độ khiến nàng phát sợ và phát khóc. Khi nàng thấy anh chợt nhận ra phản ứng của mình, nàng tự ép mình nở một nụ cười cho anh.
- Chỉ vì em sung sướng quá thôi, dịu dàng nàng nói với anh.
39.
Hervé Joncour giao trứng cho những nhà chăn tằm ở Lavilledieụ Rồi suốt mấy ngày anh không chường mặt ra ngoài, lơ là luôn thói quen hàng ngày đến quán Verdun. Vào những ngày đầu tháng năm và trước sự sững sờ của mọi người, anh mua lại ngôi nhà hoang của ông Jean Berbek, cái ông mà một ngày kia không muốn nói với người đời một lời nào nữa và cứ ngậm miệng cho đến khi từ giã cõi người. Mọi người nghĩ rằng anh có ý biến cái nhà thành một xưởng mới. Anh chẳng bận tâm phá bỏ nó đi. Đôi khi anh tới đó, một mình đi tới, đi lui trong các căn phòng, để làm gì, chẳng ai biết. Một bữa kia, anh đưa Baldabiou đến đó.
- Chắc ông, ông biết tại sao Jean Berbek tự nhiên ngậm miệng không nói nữa ? Anh hỏi Baldabiou.
- Đó là một trong nhiều điều ông ta không bao giờ mở miệng nói ra.
Bao nhiêu năm đã trôi qua mà những bức trầm vẫn còn treo trên tường và nồi niêu vẫn còn nằm ở giá ráo nước, bên cạnh bồn rửa chén bát. Chẳng vui gì khi nhìn mấy cảnh này, và Baldabiou, về phần ông, muốn ra khỏi đây cho rồi. Nhưng Hervé Joncour tiếp tục chăm chú nhìn, mê man, những bức tường mốc meo và không còn sức sống. Rõ ràng rồi: anh ta tìm kiếm cái gì đó, ở đây.
- Có lẽ đôi khi cuộc đời xoay chuyển một cách kỳ cục, lạ lùng khiến ta chẳng còn gì để nói thêm vào.
Anh nói.
- Chẳng còn gì. Chẳng bao giờ nữa.
Baldabiou không phải là người đủ sức, đủ vóc trong những cuộc nói chuyện đứng đắn. Ông nhìn cái giường của Jean Berbek.
- Có lẽ bất cứ ai cũng thành câm mẹ nó chứ còn gì nữa ở trong cái nhà gớm ghiếc này.
Hervé Joncour vẫn tiếp tục cuộc sống khép kín trong nhiều ngày, ít khi chường mặt ra ngoài, và dành hết thời gian cho dự án cái công viên mà anh sẽ xây lên, một ngày kia. Anh bôi đen bao nhiêu tờ giấy với những hình vẻ kỳ quặc, trông như những cổ máy. Một buổi tối, Hélène hỏi anh.
- Cái gì thế ?
- Chuồng chim.
- Chuồng chim à ?
- Phải.
- Để làm gì ?
Hervé Joncour vẫn chăm chú nhìn các hình vẽ.
- Em đem chim về bỏ đầy chuồng, nhiều chim chừng nào tùy sức em, và một ngày nào đó có chuyện xảy ra làm em sung sướng, hạnh phúc, em mở rộng cửa chuồng và em nhìn chúng bay ra, bay lên trời cao.
40.
Vào cuối tháng bảy, Hervé Joncour đi cùng người vợ xuống thành phố Nicẹ Họ ngụ trong một biệt thự nhỏ nằm bên bờ biển. Chính Hélène chọn nó, nàng tin rằng sự tĩnh lặng của ngôi nhà nằm cô lập sẽ làm dịu bớt tính khí u sầu có vẻ choáng hết con người chồng nàng. Tuy nhiên, nàng rất khôn khéo khi làm như sự chọn lựa này là do tính thất thường, đồng bóng của riêng mình, và như thể làm cho người đàn ông nàng yêu cảm thấy thoa? mãn khi tha thứ cho nàng.
Họ sống chung ba tuần lễ trong niềm hạnh phúc ít ỏi và nguyên vẹn. Trong những ngày trời không nóng quá, họ thuê một cỗ xe ngựa và đi khám phá trong niềm vui thú những làng mạc giấu mình rải rác sau những ngọn đồi, từ đó nhìn xuống, biển trông giống như cảnh bài trí trên những tấm giấy hoa dán tường. Đôi khi họ xuống phố dự một đêm hòa nhạc hay dạ hội. Một buổi tối họ nhận lời mời của một nam tước người Ý dự dạ tiệc sang trọng mừng sinh nhật sáu mươi tuổi của ông ở khách sạn Thụy Sĩ. Tới lúc ăn tráng miệng, Hervé Joncour tình cờ đưa mắt về phía Hélènẹ Nàng ngồi phía bên kia bàn, bên cạnh một người đàn ông Anh hào hoa và có duyên, lạ lùng thay, ông ta mang trên ve áo dạ hội một cái nhẫn kết bằng những nụ hoa xanh nhỏ. Hervé Joncour thấy ông ta nghiêng người và thầm thì điều gì sát bên tai Hélènẹ Nàng bật cười, một cái cười tuyệt đẹp, và khi cười nàng nghiêng đầu về phía người Anh đến mức để tóc nàng vuốt nhẹ vai ông ta, một cử chỉ tự nhiên, không thấy có gì lúng túng nhưng rất chính xác làm anh ta bối rối. Hervé Joncour hạ ánh mắt xuống đĩa đồ ăn. Anh không thể không nhận ra bàn tay mình đang cầm chặt chiếc thìa nhỏ bằng bạc bắt đầu run rẩy thấy rõ.
Sau đó, ở phòng hút thuốc, Hervé Joncour, người lảo đảo vì hơi quá chén, đến gần một người đàn ông ngồi một mình ở bàn, mắt nhìn về phía trước với vẻ mặt hơi ngơ ngác. Anh chồm người về phía ông, nói chậm chạp.
- Thưa ông, tôi phải loan báo cho ông một điều hệ trọng. Chúng ta cả thảy đều đang ghê tởm. Chúng ta cả thảy đều tuyệt diệu và chúng ta cả thảy đều đang ghê tởm.
Ông đến từ Dresdẹ Buôn bán bê bò và chẳng hiểu được tiếng Pháp bao nhiêu. Ông ta bật lên một tràng cười ầm ỉ, vừa lúc lắc cái đầu nhiều lần tỏ vẻ đồng tình, không biết khi nào ông mới dứt cơn cười bò như thế.
Hervé Joncour và người vợ còn ở vùng Riviera cho đến đầu tháng chín. Họ cảm thấy bùi ngùi khi phải rời cái biệt thự nhỏ vì giữa những bức tường này họ cảm nhận số phần yêu nhau của họ với tấm lòng thanh thản.
o0o
41.
Từ sáng sớm Baldabiou đã đến nhà Hervé Joncour. Họ ngồi dưới hiên cổng.
- Cái công viên này chẳng thấy gì đẹp cả.
- Tôi chưa bắt đầu xây nó mà.
- Ừa, thật à ?
Baldabiou không bao giờ hút thuốc vào buổi sáng. Ông móc ống điếu, nhồi thuốc và châm lửa.
- Tôi đã gặp tên Pasteur. Anh ta cừ lắm. Đã chỉ cho tôi. Đủ sức phân biệt trứng nào vướng bệnh, trứng nào lành mạnh. Dĩ nhiên, anh ta không chữa được. Nhưng đủ sức cách ly những trứng khoẻ. Và anh ta nói rằng chắc độ ba mươi phần trăm số trứng ta sản xuất là lành mạnh.
Ngừng.
- Người ta kể ở Nhật chiến tranh đã bùng nổ, lần này là thực sự. Người Anh giao vũ khí cho phía chính phủ, người Hà Lan trang bị súng ống cho phe nổi loạn. Hình như họ có thoa? ước ngầm. Họ để cho dân Nhật làm thịt lẫn nhau, và sau đó họ sẽ lấy tất cả và chia chác giữa họ với nhau. Tòa lãnh sự Pháp ngồi nhìn, chẳng làm trò trống gì khác, chỉ ngồi nhìn thôi. Chỉ giờ ngồi gởi những bức điện kể lể chuyện tàn sát và những ngoại kiều bị cắt cuống họng như cừu.
Ngừng.
- Còn cà phê không ?
Hervé Joncour rót thêm cà phê cho ông.
Ngừng.
- Hai tên Ý đó, Ferreri và tên... kìa, hai đứa đi Tàu năm ngoái đó... chúng trở về với mười lăm ngàn lượng trứng, hàng tốt, bọn làm cho Bollet đã mua một số, bảo rằng trứng thuộc loại thượng hạng. Hai đứa đó sẽ đi lại trong tháng tới... Chúng đề nghị với chúng ta một hợp đồng hấp dẫn, giá cả đưa ra rất phải chăng, mười một quan một lượng, tất cả đều được bảo hiểm. Chúng là dân đàng hoàng, có cả một tổ chức vững chắc sau lưng, bán trứng cho một nửa châu Âu. Dân đàng hoàng lắm, tôi bảo đảm cậu.
Ngừng.
- Tôi không biết, nhưng có lẽ chúng ta sẽ xoay sở được. Với trứng riêng của ta, với sự nghiên cứu hiện nay của Pasteur, và những gì ta mua được từ hai tên Ý... ta sẽ làm được việc. Ở cái thị trấn này, thiên hạ đã lên tiếng, chỉ có điên mới gởi cậu đi xuống đó lần nữa... với tất cả những phí tổn không tránh được... họ nói, nhiều bất trắc quá, và họ có lý chứ không phải chơi đâu, những lần trước thì khác, nhưng bây giờ... bây giờ đâu dễ gì về lại đây toàn mạng.
Ngừng.
- Thực tế mà nói, họ không muốn chấp nhận cái nguy cơ mất trứng. Và tôi, tôi không muốn mất cậu.
Hervé Joncour đưa mắt nhìn đăm đăm cái công viên chưa ra đời, chưa có mặt. Rồi anh làm một chuyện mà xưa nay anh chưa bao giờ làm.
- Tôi sẽ đi Nhật.
Anh nói.
- Tôi sẽ mua trứng, và nếu cần, tôi sẽ bỏ tiền ra muạ Ông chỉ việc quyết định bán trứng cho ông hay không, hay là ông bán cho người nào khác.
Baldabiou đâu có cho sự thể xảy ra như vậy. Như thể thấy tên cụt tay thắng bàn biđa, vào cú chót, thọc quả banh chạy bốn băng bàn, một hình học không thể có.
42
Baldabiou loan báo cho những người chăn tằm ở Lavilledieu rằng Pasteur chẳng đáng tin chút nào, rằng hai tên người Ý đã quịt cả một nửa châu Âu, rằng ở Nhật chiến tranh sẽ chấm dứt trước mùa đông tới và nữ thánh Agnès trong chiêm bao đã hỏi thẳng ông có phải những người chăn tằm là một bọn nhát như cáy. Nhưng với Hélène ông không thể nói láo.
- Có thực sự cần thiết anh ấy phải đi không, ông Baldabiou ?
- Không.
- Thế thì tại sao ?
- Tôi không thể ngăn nó. Và nếu nó muốn đi xuống đó, tôi chỉ có thể cho nó một lý do để mà nó còn trở về đây.
Tất cả những người chăn tằm ở Lavilledieu, dù muốn dù không, đều đóng góp phần mình tài trợ cho chuyến viễn hành. Hervé Joncour bắt đầu sửa soạn hành trang, và vào những ngày đầu tháng mười, anh sẵn sàng lên đường. Như mọi năm, Hélène giúp anh chuyện này, chuyện nọ, không mở miệng hỏi anh điều gì và giữ riêng cho mình những nỗi lo âu. Chỉ vào buổi tối cuối cùng, sau khi tắt đèn nàng mới thấy mình đủ sức nói với anh.
- Hứa với em là anh sẽ trở về.
Với một giọng quả quyết, gần như nghiêm khắc.
- Hứa với em là anh sẽ trở về.
Trong bóng tối, Hervé Joncour trả lời.
- Anh hứa.
43.
Ngày 10 tháng mười năm 1864, Hervé Joncour làm chuyến viễn hành thứ tư sang Nhật. Anh qua biên giới Pháp gần thành Metz, đi xuyên qua vùng Wurtemberg và vùng Bavière, vào nước Áo, lên thành Vienne rồi thành Budpest bằng tàu lửa, tiếp tục đi đến thành Kiev. Anh cưỡi ngựa băng qua hai ngàn cây số vùng thảo nguyên Nga, vượt rặng núi Oural, tiến vào Sibérie, mất hết bốn chục ngày nữa anh mới đến được hồ Baikal mà người dân địa phương gọi là: ông thánh. Anh xuôi dòng sông Amour, đi dọc theo biên giới Tàu cho đến bờ Đại dương, và khi tới đó anh nằm dài tám ngày ở hải cảng Sabirk chờ đợi một con tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh tới Capo Teraya ở bờ biển phía Tây nước Nhật. Đi ngựa trên những con đường phụ, anh băng ngang các tỉnh Thạch Xuyên, Hộ Sơn, Tân Tích, vào sâu trong tỉnh Phúc Đạo. Khi đến thành phố Bạch Xuyên, anh thấy nó đã bị tàn phá hết một nửa và một đội quân chính phủ đóng trại giữa cảnh hoang tàn. Anh rời thành phố bằng cách đi vòng về phía đông và chờ đợi suốt năm ngày một phái viên của Nguyên Mộc, một cách vô ích. Vào rạng đông ngày thứ sáu, anh ra đi về phía những ngọn đồi, theo hướng bắc. Anh chỉ có vài tấm bản đồ được vẽ phỏng chừng và những gì còn ghi lại trong trí nhớ. Anh lang thang nhiều ngày cho tới khi anh nhận ra một con sông, rồi một đám rừng, rồi một con lộ. Tận cùng con lộ, anh tìm ra ngôi làng của Nguyên Mộc: bị đốt cháy hoàn toàn, nhà cửa, cây cối, tất cả.
Chẳng còn gì cả.
Chẳng một bóng người.
Hervé Joncour đứng im, sửng sờ, nhìn đăm đăm cái đám cháy rực lửa kếch xù đã tắt. Sau lưng anh là một con đường dài tám ngàn cây số. Và trước mặt anh, không có gì. Bỗng dưng anh thấy ra cái mà anh đã tin là không thể nào thấy được.
Sự tận thế.
44.
Hervé Joncour ở lại hằng giờ giữa những tàn tích của ngôi làng. Anh thấy không đủ sức bỏ đi, mặc dù anh chưa biết rõ mọi giờ mất ở đây có thể mang đến tai họa cho anh và cả cho toàn thị trấn Lavilledieu: anh không có trứng tằm, và ngay cả tìm được trứng để mua, anh chỉ còn hai tháng ngắn ngủi để băng qua thế giới một lần nữa trước khi trứng nở, biến thành một đống sâu tằm vô dụng. Ngay trễ một ngày thôi có thể xem như chấm dứt, không làm ăn được gì nữa. Anh biết rõ điều này, vậy mà anh vẫn thấy không đủ sức bỏ đi. Anh cứ ở đó, cho tới khi một việc đáng ngạc nhiên và phi lý xảy ra: thình lình, không biết từ đâu ra một thằng nhỏ xuất hiện. Ăn mặc rách rưới, nó đi chậm chạp, nhìn người xa lạ này với nỗi sợ hãi trong mắt. Hervé Joncour không cử động. Thằng nhỏ còn bước vài bước rồi ngừng. Cả hai đều bất động, nhìn nhau, cách nhau vài thước. Rồi thằng nhỏ lui cui rút ra thứ gì đó từ tấm áo rách, bước lại gần Hervé Joncour, người run lên vì sợ, đưa nó cho anh. Mốt chiếc găng. Hervé Joncour thấy mình nhớ lại một bờ hồ, và tấm áo choàng màu cam bỏ trên đất, và những con sóng nhỏ đùa nước vào bờ, như thể những con sóng này được gởi đến từ một nơi nào xa thẳm. Anh cầm chiếc găng và mỉm cười với thằng nhỏ.
- Tôi đây, người Pháp đây... người tơ lụa, người Pháp, em hiểu không ? Tôi đây.
Thằng nhỏ ngừng run.
Nó có đôi mắt lóng lánh, có lẽ vì nước mắt, nhưng bây giờ nó cười. Nó bắt đầu nói, gần như hét, rồi chạy đi, ra dấu cho Hervé Joncour chạy theo. Nó biến mất trong một con đường mòn dẫn vào rừng, theo hướng núi.
Hervé Joncour vẫn ngồi nguyên chờ. Anh lật qua lật lại chiếc găng, như thể nó là một di vật duy nhất cho anh còn sót lại từ một thế giới đã bi chìm ngập. Anh biết bây giờ đã trễ quá rồi. Và anh chẳng còn có sự chọn lựa nào nữa.
Anh đứng dậy. Chậm rãi, anh bước lại gần con ngựa. Leo lên yên. Rồi anh làm một điều kỳ quặc. Anh thúc gót giày vào bụng ngựa. Và lên đường. Hướng vào rừng, theo sau thằng nhỏ, đi cho tới tận bên kia sự tận thế.
45.
Cuộc hành trình lên phía bắc của họ kéo dài nhiều ngày, xuyên qua những rặng núi. Hervé Joncour không biết cả hai đang đi về đâu nhưng anh cứ để cho thằng nhỏ dẫn đường, không tìm cách hỏi nó gì cả. Họ vào đến hai ngôi làng. Dân chúng trốn lánh trong nhà. Đàn bà trốn đi nơi khác. Thằng nhỏ tỏ ra vui thích la hét những lời không thể hiểu sau lưng dân làng. Nó không quá mười bốn tuổi. Nó cứ thổi hoài cái ống sáo bằng sậy phát ra những tiếng kêu thuộc đủ loại chim trên mặt đất. Nó trông như người đang trải qua những giây phút đẹp đẽ nhất của đời mình.
Ngày thứ năm, họ lên đến một đỉnh đèo. Thằng nhỏ đưa tay chỉ một điểm trước mắt, trên con đường đi xuống thung lũng. Hervé Joncour rút ống dòm và cái anh thấy là một đoàn người đang kéo nhau đi: đàn ông mang vũ khí, đàn bà và trẻ em, xe kéo bốn bánh, súc vật. Toàn bộ một làng đang di chuyển trên đường. Anh thấy, ngồi trên ngựa, mặc đồ đen, Nguyên Mộc. Sau lưng ông là một cái kiệu đi hơi lắc lư, khép kín bốn bên bằng những tấm vải màu sắc lộng lẫy.
46.
Thằng nhỏ xuống ngựa, nói cái gì đó rồi bỏ chạy. Trước khi biến mất sau những bụi cây, nó quay lại, đứng im một lát, tìm một cử chỉ để nói lên cuộc hành trình vừa qua rất tốt đẹp.
- Chuyến đi này rất tốt đẹp, Hervé Joncour nói tỏ vẻ phía nó.
Suốt ngày hôm đó, Hervé Joncour đi theo đoàn người, từ xạ Khi anh thấy họ dừng chân để nghỉ qua đêm, anh cứ cho ngựa đi tiếp trên đường cho tới khi hai người đàn ông mang vũ khí chặn anh lại, giữ lấy ngựa và hành lý, và dẫn anh vào một căn lều. Anh ngồi chờ rất lâu, rồi Nguyên Mộc đến. Ông ta không chào. Cũng không ngồi xuống.
- Làm sao tới được đây, tên Pháp kia ?
Hervé Joncour không trả lời.
- Tôi hỏi ông ai đã dẫn ông tới tận đây.
Im lặng.
- Ở đây, chẳng có gì cho ông cả. Chỉ có chiến tranh. Và đâu phải cuộc chiến của ông. Nên rời khỏi đây đi.
Hervé Joncour rút ra một túi nhỏ bằng da, mở ra và đổ trút xuống đất. Những thỏi vàng.
- Chiến tranh là một cuộc chơi tốn kém lắm. Ông cần tôi, và tôi cũng cần ông.
Nguyên Mộc không buồn nhìn cả những thoi vàng vung vãi trên đất. Ông quay lưng và bỏ đi.
47.
Hervé Joncour ngủ qua đêm ngoài bìa trại của đoàn người. Chẳng ai nói chuyện với anh, chẳng ai tỏ ra thấy anh. Họ ngủ dưới đất, gần những đám lửa trại. Chỉ có hai căn lều. Gần một căn, Hervé Joncour nhận ra cái kiệu, trống rỗng: móc ở bốn góc kiệu là bốn lồng chim nhỏ: những con chim. Những quả chuông nhỏ xíu bằng vàng được treo ở mắt lưới lồng chim. Chuông kêu thánh thót, nhẹ nhàng trong làn gió nhẹ ban đêm.
48.
Khi anh thức dậy, anh thấy cả làng lăng xăng sửa soạn lên đường. Hai cái lều đã gỡ đi. Chiếc kiệu vẫn còn đó, còn trống. Dân làng leo lên những chiếc xe kéo, trong im lặng. Anh đứng dậy, nhìn lâu và kỹ xung quanh mình, nhưng những cặp mắt bắt gặp ánh mắt anh, tất cả đều có dáng phương đông, và hạ xuống tức khắc. Anh thấy những người đàn ông mang vũ khí, và những đứa trẻ không khóc lạ Anh thấy những khuôn mặt khép kín thường gặp ở những con người trên đường trốn chạy. Và anh thấy một cây to bên bờ đường. Và treo cổ vào một cành cây là thằng nhỏ đã dẫn anh đến tận đây.
Hervé Joncour tiến đến gần, đứng im một lúc lâu, nhìn xác thằng nhỏ như thể bị thôi miên. Rồi anh gỡ sợi dây treo ở cành cây, hạ thân xác thằng nhỏ xuống, để nó nằm dài trên đất rồi quỳ xuống bên cạnh. Anh không thể nào rời mắt khỏi khuôn mặt thằng nhỏ. Vì vậy anh đã không thấy cả đoàn người ra đi, chỉ nghe thôi, tưởng chừng đến từ nơi nào rất xa, những tiếng động của dòng người đi lướt qua anh khi lên mặt lộ. Anh không đưa mắt nhìn lên, ngay cả khi anh nghe tiếng Nguyên Mộc, cách anh hai bước, nói:
- Nhật là một nước rất lâu đời, ông biết không ? Luật lệ của nó cũng rất lâu đời: luật nói rằng có mười hai trọng tội, qua đó cho phép kết án tử hình những ai phạm vào. Và một trong mười hai tội đó là người đầy tớ mang thư tình của nữ chủ nhân trao cho người khác.
Hervé Joncour vẫn không rời mắt khỏi khuôn mặt thằng nhỏ bị giết.
- Nó có mang bức thư tình nào đâu.
- Chính nó là bức thư tình.
Hervé Joncour cảm thấy vật gì ấn chặt vào gáy mình khiến anh phải cúi đầu gần sát mặt đất.
- Tên Pháp này, đây là khẩu súng trường. Tôi yêu cầu ông không được nhìn lên.
Hervé Joncour không hiểu ngay tức khắc. Rồi giữa tiếng xào xạc của dòng người trên đường trốn chạy, anh nghe âm thanh trong trẻo như tiếng vàng, thánh thót, từ hàng ngàn quả chuông nhỏ xíu, tiến lại gần anh, lần lần, và mặc dù trước mắt anh chỉ là mặt đất đen, anh cũng hình dung được chiếc kiệu, lắc lư, đung đưa như quả lắc đồng hồ, anh hầu như thấy được nó rồi, đang đi lên mặt lộ, từng bước một, tiến lại gần anh, chậm rãi nhưng da diết, tưởng như được khiêng bởi những âm thanh này, càng lúc càng to hơn, to không thể chịu được, càng lúc càng gần hơn, gần như lướt sát bên anh, cái tiếng chuông vàng bây giờ đã đến trước mặt anh, ngay trước mặt anh, vào cái khoảnh khắc chính xác này, trước mặt anh.
Hervé Joncour ngửng đầu lên.
Những tấm vải tuyệt đẹp, lụa, bao bọc chiếc kiệu, hàng ngàn sắc màu, cam, trắng, bạc, màu đất son, nhưng không có chỗ nào mở ra trong cái tổ lộng lẫy này, chỉ có tiếng rào rạt của những sắc màu gợn sóng trong gió, không thể nào xâm nhập được, nhẹ hơn hư không.
Hervé Joncour không nghe tiếng nổ kết liễu đời mình. Anh nghe những tiếng chuông thánh thót xa dần, nòng súng trường rút khỏi gáy anh, và tiếng nói của Nguyên Mộc, dịu ngọt.
- Hãy rời khỏi đây, anh người Pháp. Và không bao giờ quay lại nữa.
49.
Chẳng còn gì khác ngoài sự im lặng trên đường. Xác thằng nhỏ trên mặt đất. Một người đàn ông quỳ. Cho tới những tia sáng cuối cùng trong ngày.
50
Hervé Joncour mất hết mười một ngày mới tới được Hoành Tân. Anh hối lộ một công chức Nhật mua được mười sáu hộp trứng tằm đến từ miền nam đảo. Anh gói trứng trong những tấm khăn lụa, bỏ vào trong bốn thùng tròn bằng gỗ, bít kín và gan xì. Anh xoay sở lên được một chiếc tàu thuỷ đưa anh về đại lục, và vào những ngày đầu tháng ba anh đến bờ biển Ngạ Anh chọn con đường cực bắc, tìm thời tiết lạnh để ngăn chặn trứng phát triển bình thường, kéo dài thời gian còn lại trước khi trứng nở. Dầm mưa dãi tuyết, anh băng qua bốn ngàn cây số vùng Sibérie, vượt rặng núi Oural và đến Saint - Pétersbourg. Anh mua hàng tạ nước đá với giá vàng rồng, cho chất vào hầm tàu chung với các thùng gỗ chứa trứng trong một chiếc tàu thuỷ đi Hambourg. Mất hết sáu ngày mới đến hải cảng đó. Anh lấy xuống bốn cái thùng tròn bằng gỗ và lên tàu lửa xuôi Nam. Khoảng mười một giờ đồng hồ sau khi rời ga, vừa ra khỏi ngôi làng tên là Eberfeld, tàu dừng lại lấy nước. Hervé Joncour nhìn quanh. Một mặt trời mùa hè chói lọi chiếu sáng trên màu xanh những đồng lúa mì, và trên cả mặt đất. Ngồi trước mặt anh là một lái buôn người Nga: ông ta đã cởi giày và quạt lấy, quạt để với trang chót của một tờ báo viết bằng tiếng Đức. Hervé Joncour nhìn kỹ ông. Anh thấy những đốm mồ hôi trên áo sơ mi và những giọt mồ hôi đọng trên trán và trên cổ ông. Người Nga vừa nói cái gì đó, vừa cười. Hervé mỉm cười với ông, đứng dậy, lấy hành lý và xuống tàu. Anh đi ngược lên toa cuối cùng, toa hàng hóa cho cá và thịt ướp trong nước đá. Nước chảy rỉ như một cái chậu bị bắn thủng bởi ngàn viên đạn. Anh mở cửa toa, leo vào và lấy xuống từng cái một bốn thùng tròn bằng gỗ, đem ra ngoài, đặt xuống đất, bên cạnh đường rầy. Rồi anh đóng cửa toa tàu lại, và chờ. Khi tàu sắp sửa chuyển bánh, hành khách trên tàu la hét kêu anh gấp rút nhanh chân leo lên nhưng anh lắc đầu và ra dấu chào từ biệt. Anh nhìn đoàn tàu xa dần rồi khuất hẳn. Anh chờ cho tới khi chẳng còn nghe một tiếng động nào nữa. Rồi anh cúi xuống trước một thùng gỗ, cắt xí và mở ra. Chậm rãi, cẩn thận.
Hàng triệu con sâu tằm. Chết. (Ohhhhh no!!!)
Đó là ngày 6 tháng năm 1865.
51.
Hervé Joncour vào thị trấn Lavilledieu chín ngày sau đó. Người vợ Hélène trông thấy từ xa chiếc xe leo len lỏi vào nhiều bóng cây trước nhà. Nàng tự nhủ không nên khóc và không nên bỏ trốn.
Nàng đi xuống tận cửa ra vào, mở ra và đứng ở ngưỡng cửa.
Khi Hervé Joncour đến gần, nàng mỉm cười. Anh xiết chặt người nàng trong vòng tay, nói dịu dàng.
- Ở lại với anh, anh mong lắm.
Đêm đó họ thức khuya, ngồi trên bãi cỏ trước nhà, người này bên cạnh người kia. Hélène kể cho anh nghe về Lavilledieu, về những tháng đợi ngày chờ vừa qua, nhất là những ngày cuối cùng, khủng khiếp.
- Anh đã chết.
Nàng nói.
- Và chẳng còn cái gì đẹp nữa, trên đời này.
52.
Trong các nông trang ở Lavilledieu, người ta nhìn những cây dâu đầy lá xanh tươi và thấy sự phá sản của họ. Baldabiou tìm mua được một số trứng nhưng những con sâu tằm chết ngay khi ra ánh sáng. Số lượng tơ sống rút từ những con sâu tằm sống sót hiếm hoi chỉ vừa đủ cho hai nhà máy dệt làm việc, hai trên bảy nhà máy trong vùng.
- Cậu có ý nào không ? Baldabiou hỏi.
- Một ý, Hervé Joncour trả lời.
Ngày hôm sau anh loan báo cho mọi người biết là anh có ý định, vào mùa hè này, bắt đầu cho xây cái công viên xung quanh nhà anh. Anh thu dụng, đàn ông, đàn bà trong thị trấn, hàng chục người. Họ đốn cây, đào góc trên ngọn đồi, san một số chỗ cho bớt dốc, làm cho sườn đồi dẫn xuống thung lũng trở nên thoai thoải. Bằng cây cối và hàng rào, họ dựng lên những mê cung nhẹ nhàng và thấy sướng. Bằng đủ loài hoa, họ tạo ra những mảnh vườn hiện ra bất ngờ giữa những lùm cây bulô như những quảng rừng trông bất ngờ hiện ra khi ta đi trong rừng. Họ bắt nước từ sông lên, rồi cho nước chảy xuống, từ đài nước này sang đài nước nọ, cho đến ranh giới phía tây của công viên, ở đó nước làm thành một hồ nhỏ được những đồng cỏ bao bọc. Về phía nam, giữa những cây chanh và cây ô liu, họ xây một chuồng chim cao lớn, làm bằng gỗ và sắt, trông như một bức đồ thêu treo trên không.
Họ làm việc suốt bốn tháng. Vào cuối tháng chín, công viên hoàn thành. Mọi người ở Lavilledieu chưa từng bao giờ thấy một công viên như thế. Họ đồn rằng Hervé Joncour tiêu hết vốn liếng cho nó. Họ còn nói thêm là anh từ khi ở Nhật về đã đổi khác, có lẽ bệnh hoạn. Họ nói anh đã bán trứng cho người Ý và bây giờ có một tài sản bằng vàng cất giữ trong các ngân hàng ở Paris. Họ cũng nói nếu không có công việc xây dựng công viên này, tất cả bọn họ đã chết đói vào năm đó. Họ nói anh là một tên bịp. Họ nói anh là một ông thánh. Một vài người lại nói: anh có cái gì đó, như một nổi bất hạnh vận vào người.
53.
Tất cả những gì Hervé Joncour kể về chuyến đi là số trứng mua ở Nhật đã nở ra tại một làng quê gần Cologne, và cái làng ấy mang tên Eberfeld.
Bốn tháng sau và mười ba ngày sau khi về quê nhà, Baldabiou đến ngồi đối diện với anh, bên bờ hồ, ở ranh giới phía tây của công viên và nói với anh.
- Dù sao đi nữa, cậu phải nói ra sự thật, với ai đó, sớm hay muộn.
Ông nói một cách nhẹ nhàng, và phải cố gắng lắm, vì ông không tin, không bao giờ tin, là sự thật có thể phục vụ hay có ích cho cái gì.
Hervé Joncour đưa mắt nhìn ra công viên.
Mùa thu đã đến mang về một thứ ánh sáng hão huyền lan tràn mọi chốn.
- Lần đầu tiên tôi thấy Nguyên Mộc, ông ta mặc một tấm áo sậm màu, ngồi xếp bằng, bất động, trong một góc phòng. Một người đàn bà nằm dài bên cạnh, đầu tựa lên đùi ông. Đôi mắt nàng không có dáng phương đông và khuôn mặt nàng là khuôn mặt của một cô gái trẻ.
Baldabiou nghe trong im lặng, cho tới đoạn cuối, cho tới chuyến tàu ở Eberfeld.
Ông không suy nghĩ gì cả.
Ông chỉ nghe.
Ông cảm thấy đau nhói khi nghe Hervé Joncour nói dịu dàng, nhỏ nhẹ để kết luận.
- Tôi chẳng bao giờ nghe được ngay cả giọng nói của nàng.
Và một lát sau.
- Đó là một nỗi đau khổ lạ lùng.
Dịu dàng.
- Chết vì luyến tiếc não nùng một cái gì mà ta chưa bao giờ sống qua.
Hai người đi ngược lên trong công viên, bên cạnh nhau. Điều duy nhất Baldabiou thốt ra là :
- Nhưng vì cái quái gì mà trời lạnh dữ dội thế này ?
Ông nói thế, vào một lúc sau đó.
54.
Vào đầu năm mới - 1866 - Nhật Bản chính thức cho phép xuất khẩu trứng tằm.
Trong thập niên tiếp theo, nước Pháp nhập vào một số lượng trứng Nhật lên đến mười triệu quan tiền Pháp.
Bắt đầu từ năm 1869, kênh đảo Suez được mở ra, đi Nhật chỉ mất không quá hai mươi ngày. Và từ đó trở lại, ít hơn một chút.
Lụa nhân tạo sẽ được cấp bằng sáng chế vào năm 1884 cho một người Pháp tên là Chardonnet.
55.
Sáu tháng sau khi về lại Lavilledieu, Hervé Joncour nhận qua đường bưu điện một bì thư màu vàng sẫm. Khi mở ra, anh thấy có bảy tờ giấy dày đặc chữ viết kiểu hình học: mực đen, chữ Nhật. Ngoại trừ tên và địa chỉ ngoài bì thư, chẳng có gì được viết bằng chữ phương tây. Theo những con tem, lá thư hình như được gởi từ Ostende.
Hervé Joncour giở ra từng tờ, và xem xét rất lâu. Nó giống như một quyển sưu tập những dấu chân chim nhỏ bé được sắp đặt từ một niềm say mê tỉ mỉ. Thật ngạc nhiên khi nghĩ rằng thật ra đó là những dấu hiệu, là tro tàn của một tiếng nói đã bị ngọn lửa thiêu đốt.
56
Trong nhiều tuần lễ, Hervé Joncour giữ bức thư trên người anh, gấp làm đôi để trong túi. Khi anh thay quần áo, anh cẩn thận để bức thư vào túi quần áo mới thaỵ Không bao giờ anh mở nó ra để ngắm nhìn. Thỉnh thoảng anh thọc những ngón tay rờ rẫm, vuốt ve nó trong khi anh nói chuyện với một tá điền hay chở giỏ ăn tới, ngồi trước hiên nhà. Vào một buổi tối, anh bắt đầu xem xét nó trước ánh sáng ngọn đèn trong phòng làm việc của anh. Giấy mỏng thấy xuyên qua được, những dấu chân chim bé xíu lên tiếng với một giọng nghẹn ngào. Chúng nói lên một điều gì tuyệt đối vô nghĩa, hay là điều gì đủ sức làm đảo lộn một đời người: không thể nào biết được và Hervé Joncour thấy mình bằng lòng với ý nghĩ này. Anh nghe bước chân của Hélènẹ Anh đặt lá thư lên bàn. Nàng lại gần và cũng như mọi tối muốn hôn anh một cái trước khi về phòng riêng của mình. Khi nàng cúi người để hôn, chiếc áo khoác về đêm hé lộ nửa chừng trước ngực nàng. Hervé Joncour thấy rõ nàng không mang gì cả, bên trong, và đôi vú nàng thì nhỏ và trắng ngần như của một cô gái trẻ.
Trong bốn ngày, anh tiếp tục cuộc sống đều đặn, giữ nguyên những nề nếp sinh hoạt thận trọng hàng ngày. Buổi sáng ngày thứ năm, anh mặc bộ đồ lớn màu xám trang nhã và lên đường đi Nimes. Anh nói anh sẽ về nhà trước khi trời tối.
57
Đường Moscat,ở số 12, mọi sự trông giống như ba năm trước. Cuộc truy hoan cũng vẫn không chấm dứt. Các chị em ta đều trẻ và đều là người Pháp. Người nhạc công dương cầm vẫn chơi một cách nhỏ nhẹ những bản nhạc mang hương vị Ngạ Có lẽ vì tuổi già, có lẽ vì nỗi đau tồi tệ nào đó: mỗi khi chấm dứt một bài, anh ta không còn đưa bàn tay lên mặt vuốt tóc, và cũng chẳng còn nói thầm thì:
- Thế đấy.
Anh ta lặng lẽ, nhìn xuống đôi bàn tay mình, bối rối.
58
Bạch nương tiếp anh không nói lấy một lời. Tóc đen nhánh, nét mặt phương đông, tuyệt đẹp. Những nụ hoa xanh nhỏ ở giữa những ngón ngay như chừng ấy nhẫn. Một chiếc áo dài, trắng, hầu như trong suốt. Đi chân không.
Hervé Joncour ngồi đối diện nàng. Anh móc túi lấy ra lá thư.
- Bà còn nhớ tôi không ?
Bạch nương khẽ gật đầu, chừng một ly.
- Tôi cần bà một lần nữa.
Anh đưa nàng lá thự Nàng chẳng có lý do gì để nhận nhưng vẫn đưa tay cầm, và mở ra. Nàng nhìn kỹ bảy tờ giấy, từng tờ một, rồi nhướng mắt về phía Hervé Joncour.
- Thưa ông, tôi không thích thứ tiếng này chút nào. Tôi muốn quên nó, và tôi muốn quên cái xứ sở đó, cuộc đời tôi ở đó, và tất cả cái khác.
Hervé Joncour ngồi bất động, hai tay nắm chặt chỗ dựa tay của chiếc ghế bành.
- Tôi sẽ đọc thư này cho ông nghe. Tôi sẽ đọc. Và tôi không muốn tính chuyện tiền nong. Nhưng tôi cần một lời hứa: ông đừng bao giờ trở lại đây nữa nhờ tôi làm việc này.
- Thưa bà, tôi hứa.
Nàng nhìn thẳng vào mặt anh. Rồi nàng hạ ánh mắt xuống trang thứ nhất của lá thư, giấy bản, mực đen.
- Ông chúa yêu quí của em.
Nàng nói:
- Đừng sợ, đừng cục cựa, cứ im lặng, không ai thấy được chúng ta đâu.
59
Nằm im như thế, em muốn nhìn anh, em đã nhìn anh nhiều lần rồi nhưng anh đâu có thuộc về em, và bây giờ anh là của em, anh đừng lại gần, anh yêu, xin đừng, cứ nằm tại chỗ như thế, ta có một đêm riêng tư, và em muốn nhìn anh, chưa bao giờ em thấy anh như bây giờ, thân xác anh là của em, da thịt anh, nhắm mắt lại, anh tự vuốt ve đi, em khẩn khoản cầu anh.
Bạch nương nói, Hervé Joncour lắng nghe.
Đừng mở mắt ra, nếu anh đủ sức nhắm mắt hoài, và anh tự vuốt ve đi, bàn tay anh đẹp biết mấy, em đã nằm mơ bao nhiêu lần khiến bây giờ em muốn nhìn nó, em muốn nhìn bàn tay anh như thế, trên da thịt anh, tiếp tục, em khẩn khoản cầu anh, đừng mở mắt ra, em đây, không ai có thể trông thấy chúng ta, và em đang ở bên anh đây, anh vuốt ve anh đi, ông chúa yêu quí của em, em khẩn khoản cầu anh, chậm rãi, dịu dàng.
Nàng ngừng. Tiếp tục, tôi xin bà, anh nói.
Nó đẹp lắm, bàn tay anh, đừng ngừng lại, em thích nhìn nó và nhìn anh, ông chúa yêu quí của em, đừng mở mắt ra, chưa đâu, anh đừng lo sợ gì cả, em đang ở bên anh đây, anh nghe được em không ? Em đây, vuốt nhẹ anh dịu dàng, lụa đấy, anh cảm thấy không ? lụa áo dài của em, đừng mở mắt và anh sẽ có da thịt em.
Nàng nói, đọc nhỏ nhẹ, với giọng của một đàn bà - trẻ con.
Anh sẽ có đôi môi em, khi nào em chạm vào anh lần đầu tiên, em sẽ chạm bằng môi, anh không biết chỗ nào, nhưng vào một lúc nào đó anh sẽ cảm thấy hơi ấm từ đôi môi em, trên người anh, anh không thể biết chỗ nào nếu anh không mở mắt, đừng mở mắt, anh, anh sẽ cảm thấy miệng em, anh không biết chỗ nào, bất ngờ,
anh lắng nghe, bất động, từ cái túi nhỏ trên ngực áo vét xám của anh trồi ra ngoài một chiếc khăn tay trắng ngần, có lẽ trên đôi mắt anh, em sẽ ấn miệng em xuống trên mi mắt và lông mày, lông mi, anh sẽ cảm thấy hơi ấm đi sâu vào đâu, và đôi môi em trên mắt anh, trong mắt anh, em sẽ ấn môi em, chỗ đó, và em sẽ mở đôi môi ra từ từ khi đi xuống.
Nàng nói, và đầu nàng cúi xuống trên những trang giấy, và nàng vuốt nhẹ cổ mình, chậm rãi, bằng đầu những ngón tay, anh lắng nghe, để ánh mắt mình dán vào cái khung ảnh bằng bạc, trống rỗng, treo trên tường.
Rồi vào lúc cuối cùng em sẽ hôn lên chỗ trái tim anh, vì em muốn anh, em sẽ cắn ngập chỗ da thịt đập theo nhịp tim anh, vì em muốn anh, và khi em có được quả tim anh dưới môi em, anh sẽ thuộc về em, thật sự, với môi miệng em trong quả tim anh, anh sẽ thuộc về em, mãi mãi, nếu anh không tin em thì hãy mở mắt ra ông chúa yêu quí của em và nhìn em, em đây này, có ai bao giờ đủ sức xóa nhòa được cái khoảnh khắc này, thân xác em không còn lụa bao phủ, bàn tay anh vuốt ve, đôi mắt anh ngắm nhìn.
Nàng nói, và nàng nghiêng mình về phía ngọn đèn, ánh sáng rọi lên những tờ giấy và xuyên qua chiếc áo dài mỏng suốt của nàng.
Những ngón tay anh trên người em, lưỡi anh trên môi em, thân anh trượt duỗi thân em, anh kéo chặt hông em đẩy người em lên, rồi để thân em trượt trên anh, dịu dàng, có ai bao giờ đủ sức xóa nhoà được kỷ niệm này, anh ở trong em xê dịch chậm chạp, bàn tay anh trên mặt em, những ngón tay trong miệng em, niềm sung sướng hiện rõ trong mắt anh, tiếng nói anh, anh xê dịch chậm chạp, tất cả làm em gần như đau, niềm vui sướng của em, tiếng nói của em.
Anh lắng nghe, vào một lúc nào đó anh quay người để nhìn nàng, anh thấy nàng, anh muốn hạ ánh mắt mình xuống nhưng thấy mình không thể làm được, thân em ở trên người anh, lưng anh nâng em lên, vòng tay anh không để em rời anh, những cú thúc, cú đẩy của anh trong người em, sự mãnh liệt và dịu dàng, em thấy mắt anh tìm kiếm ánh mắt em, đôi mắt muốn biết tới lúc nào anh làm em đau, cứ làm tới mức mà anh muốn, anh vui, ông chúa yêu quí của em, không có chấm dứt, không thể chấm dứt, niềm vui này, anh không thấy sao ? không ai đủ sức xóa nhòa khoảnh khắc này bao giờ, mãi mãi anh sẽ ngửa đầu ra sau, kêu lên, mãi mãi em sẽ nhắm mắt lại để những giọt nước mắt rơi khỏi mi, tiếng nói em ở trong tiếng nói anh, sự mãnh liệt khi anh ôm chặt em, chẳng còn thời gian để trốn tránh, chẳng còn sức lực để kháng cự, khoảnh khắc này phải có, khoảnh khắc này đã có, hãy tin em, ông chúa yêu quí của em, và khoảnh khắc này sẽ có, bây giờ và mãi mãi, nó sẽ có, cho đến lúc tận cùng.
Nàng nói giọng nhỏ thôi, rồi im bặt.
Không còn chữ nào nữa trên tờ giấy nàng cầm trong tay: tờ cuối cùng. Nhưng khi nàng lật nó để đặt lên bàn thì thấy ở trang sau còn có vài chữ được viết thẳng hàng cẩn thận, mực đen ở giữa giấy trắng. Nàng đưa mắt lên nhìn Hervé Joncour. Nàng bắt gặp ánh mắt của anh nhìn nàng từ bao giờ, và nàng chợt nhận ra đôi mắt đó đẹp tuyệt vời. Nàng lại hạ một lần nữa ánh mắt mình xuống trang giấy.
- Chúng ta chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa, ông chúa của em.
Nàng nói.
Điều gì dành riêng cho đời ta, chúng ta đã làm, như ông biết. Tin em đi: hai ta đã thực hiện nó mãi mãi. Hãy giữ đời ông ngoài đời em. Và đừng có lưỡng lự một giây lát nào cả, nếu thấy nó có ích cho hạnh phúc của ông, quên đi người đàn bà này mà bây giờ xin nói với ông, không nuối tiếc, vĩnh biệt.
Nàng tiếp tục nhìn tờ giấy một lát, rồi đặt lên trên những tờ khác, bên cạnh nàng, trên cái bàn gỗ nhỏ màu sáng. Hervé Joncour ngồi bất động. Anh chỉ quay đầu và hạ ánh mắt. Anh cứ nhìn cái nếp quần của mình, thẳng thóm, trên chân phải, từ đùi tới đầu gối.
Bạch nương đứng dậy, nghiêng người tắt đèn. Căn phòng chỉ còn lại chút ít ánh sáng đến từ phòng khách thông qua cửa sổ. Nàng lại gần Hervé Joncour, kéo ra khỏi ngón tay chiếc nhẫn kết bằng những nụ hoa nhỏ xíu và đặt bên cạnh anh. Rồi nàng đi xuyên căn phòng, mở một cánh cửa nhỏ, sơn và giấu trong tường, và đi khuất để cánh cửa chỉ khép nửa chừng thôi sau lưng.
Hervé Joncour còn ngồi lại rất lâu trong cái ánh sáng lạ lùng đó, xoay đi xoay lại chiếc nhẫn kết bằng những nụ hoa xanh nhỏ xíu giữa những ngón taỵ Những nốt nhạc của chiếc đàn dương cầm mệt mỏi đến từ phòng khách: những nốt nhạc xóa nhòa thời gian khiến ta khó lòng nhận ra nó nữa.
Cuối cùng anh đứng dậy, đến gần cái bàn gỗ nhỏ màu sáng, thu lại bảy tờ giấy bản . Anh đi xuyên căn phòng, đi ngang trước cánh cửa nhỏ chỉ khép nửa chừng không ngoái đầu lại, và ra về.
60
Hervé Joncour trải qua những năm đầu sợ hãi bằng cách chọn cho mình một lối sống trong sáng thích hợp với một người không còn như câu nào nữa trong đời. Ngày tháng trôi qua với những xúc động vừa phải mà anh đã định trước. Ở thị trấn Lavilledieu anh được thiên hạ ngưỡng mộ trở lại vì người hình như thấy nơi anh một cách thể đứng đắn sống ở đời. Họ còn nói anh đã như thấy ngay trong thời tuổi trẻ, trước chuyến đi Nhật.
Anh còn có thêm một thói quen mới là hàng năm, cùng với người vợ Hélène, anh đi du lịch đây đó, không xa . Họ viếng Naples, Madrid, Munich, La Mã, Luân Đôn . Có năm họ đi tận Prague, nơi mà mỗi thứ có vẻ như: sân khấu . Họ đi, chẳng bận tâm về ngày giờ hay chương trình . Và thấy ngạc nhiên trước mọi sự: ngay trước hạnh phúc của mình, một cách thầm kín. Khi nào cảm thấy nhớ sự tĩnh lặng, họ lại quay về thị trấn Lavilledieu.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Lụa.