Chương 15: Tấm bản đồ khắc trên quan tài đá (2)
-
Mắt âm dương
- Lãnh Tàn Hà
- 16009 chữ
- 2020-05-09 09:35:28
Số từ: 16007
Size chữ :
Vương Uy cau mày. Anh không phát hiện được gì ở nơi cái xác kia vừa nằm, liền xăm xăm đi về phía cái xác vừa bỏ chạy. Đi chừng mười mét, anh soi đuốc thấp xuống, bỗng trông thấy dưới mặt đất có một vệt máu chạy dài. Mỗi vũng má
Nhị Rỗ chống tay xuống đất đứng dậy, bỗng nhiên mí mắt giật lên một cái, trông thấy một cái xác đang động đậy, Nhị Rỗ giật nảy mình, đánh rơi cả đuốc. Ngỡ mình nhìn nhầm, Nhị Rỗ bèn soi đuốc lại gần xác tên lính nhà Thanh bên cạnh mình, ngọn đuốc vừa soi đến, Nhị Rỗ đã sợ đến hồn phi phách tán, mặt méo xệch như thể bị người ta giáng cho mấy đấm.
Cái xác ấy đang mở to mắt, nhìn xoáy vào gã, còn đột ngột chớp chớp mắt mấy cái, đôi tay cũng đang cử động nhè nhẹ.
Vương Uy đứng sau Nhị Rỗ mấy bước, thấy hết tất cả, cũng toát mồ hôi lạnh, mẹ kiếp, đứng là gặp phải xác sống rồi!
Nhị Rỗ vốn là người có bản lĩnh, mồm miệng lại nhanh nhảu, nhưng lúc này cũng sợ cứng cả người, chỉ biết giương mắt trân trân nhìn cái xác kia. Vương Uy bèn rút súng, từ từ nhắm thẳng vào đầu nó, định bóp cò.
Đột nhiên Nhị Rỗ thét lên khản cả giọng khiến Vương Uy giật bắn mình, cái xác kia liền lồm cồm bò dậy, lẩn nhanh vào bóng tối, không còn thấy đâu nữa.
Vương Uy bắn vớt vát theo cái xác hai phát, Dương Hoài Ngọc bừng tỉnh, cũng bắn loạn cả lên, không biết nó có trúng đạn hay không. Vương Uy đi tới, kéo Nhị Rỗ dậy hỏi:
– Anh có nhìn rõ không đấy, hắn là người sống hay xác chết?
Nhị Rỗ tái mặt đáp:
– Là xác chết mà, không sai đâu, là xác lính nhà Thanh.
u có ba, bốn giọt, cách chừng một mét lại có một vũng, không còn nghi ngờ gì nữa, chính là máu của cái xác kia. Vương Uy ngoảnh gọi Nhị Rỗ:
– Anh xác định đó là xác chết chứ?
Nhị Rỗ thấy Vương Uy có vẻ khác thường, liền bước tới, nói:
– Phàm là việc nghiêm túc, cả đời Nhị Rỗ tôi không có câu nào là không đáng tin, chỉ huy còn phải nghi ngờ à?
Vương Uy chỉ xuống đất, nói:
– Anh nhìn đây.
Nhị Rỗ lại ần, nhìn thấy những giọt máu tươi dưới đất, liền tái mét mặt:
– Đúng là gặp ma rồi, người đã chết mấy chục năm nay, làm gì còn máu?
Xác người trên chiến trường tuy bị ảnh hưởng của nhiệt độ nên không thối rữa, nhưng những cái xác này đã bị đóng băng hơn mười năm nay, toàn thân teo tóp, da thịt co rút lại, máu đã đông cứng từ lâu, làm sao còn chảy máu được?
Nhị Rỗ gãi đầu, nói:
– Tôi sống bao nhiêu năm nay, đây là là lần đầu gặp chuyện quái gở này, rõ ràng cái xác lính cờ xanh kia đã khô quắt lại, chỉ còn một nhúm da làm thế nào mà thoắt cái đã sống dậy, lại còn chảy cả máu?
Vương Uy bảo Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc:
– Đừng nói vớ vẩn nữa, mau bám theo nhanh lên, biết đâu lại có lối ra đấy.
Ba người lần theo vết máu. Vương Uy thầm lấy làm may mắn vì mình đã bắn theo mấy phát súng, nếu không, với tốc độ của cái xác ấy, không biết nó đã chạy đến chỗ nào. Lỡ như thình lình đụng phải, nó sẽ đứng trong tối âm thầm quan sát, chỉ cần có chút cơ hội liền xông ra bắt người, khiến tất cả chết sạch mới thôi. Dù thế nào đi nữa, phải tìm cách tiêu diệt nó mói được, nếu không cứ để lại một mối họa như thế, dọc đường đi không an toàn chút nào.
Cái xác kia lúc đi sang Đông lúc lại ngoặt sang Tây, cứ vòng vèo ngoắt ngoéo, lúc tấp vào ngách hang bên phải, khi lại tấp vào ngách hang bên trái, lúc thì đi lòng vòng trên mặt đất vài vòng, thật khó đoán biết.
Nhị Rỗ lẽo đẽo đi theo hồi lâu, chợt nói:
– Hỏng rồi, nếu nó là người đi nữa, cũng làm gì có nhiều máu để chảy ra như thế? Chúng ta đã đi được hai tiếng đồng hồ rồi đấy.
Vương Uy cũng lấy làm lạ, nếu người đã chết một, hai chục năm nay, chắc chắn không còn máu nữa, nếu là người sống, máu chảy suốt dọc đường mà vẫn chưa hết thì quả là kỳ tích. Có lẽ thứ đó không phải là xác chết, mà cũng không phải người sống, vậy rốt cuộc là gì đây? Chẳng nhẽ là ma cà rồng chuyên hút máu ư?
Họ lại đi tiếp một quãng, hang động bỗng thay đổi đột ngột, không giống cái hang mà họ đã đi lòng vòng mất hai lần chút nào. Họ lần theo vết máu, đến một hang động lạ. Cái hang này hẹp hơn hang bên ngoài nhiều, nhưng chiều ngang cũng phải đến mấy chục mét, trên vách và nóc hang có nước nhỏ xuống, chốc chốc vẫn nghe thấy tiếng tí tách.
Nhị Rỗ xoắn râu
– Sao chẳng thấy cửa hang mà tự dưng đã đổi sang một hang khác thế?
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc không đáp, Nhị Rỗ bĩu môi, biết vấn đề này không có lời giải, cũng chẳng ai giải đáp cho mình được, chỉ còn biết im lặng.
Họ tiến vào hang, cứ đi thẳng về phía trước, được một quãng lại thấy trên mặt đất có xác lính của Mã Văn Ninh, nhưng bọn lính quân phục vàng này không cầm vũ khí ma là cầm xẻng, đẩy xe, sát vách hang còn có cần cẩu và các thiết bị khác. Đến tận lúc chết, bọn chúng vẫn cầm xẻng, cuốc, lại có cả hai tên cầm sọt đựng đất, sọt chưa đưa đến nơi thì người đã chết, còn một tên lính nằm ngửa, tay cầm dây thừng buộc cái sọt, một tên quỳ một gối xuống, đều là mệt quá mà chết.
Ba người đi giữa những xác chết, tuy trong hang này nhiệt độ tương đối thấp, nhưng xung quanh lại có nước, xác chết ngâm trong nước, phần lớn đã rữa nát, không khỉ nồng nặc mùi hôi thối khiến Dương Hoài Ngọc lợm giọng, mấy lần suýt nôn mửa.
Họ vào trong hang chưa được bao lâu, nước ngầm đã dâng lên đến mắt cá chân, vết máu kia không còn thấy đâu nữa, manh mối đến đây coi như đứt hẳn. Trong hang, cứ cách một đoạn lại có mấy cái xác, có cả giàn giáo bằng gỗ.
Tình cảnh này thật lạ lùng, Mã Văn Ninh là tên đầu trộm đuôi cướp, hắn dẫn cả nghìn người ngựa, bỏ không thèm làm hoàng đế vùng Tạng Xuyên Trung, tiến sâu vào vùng núi Đường cổ Lạp, không đào trộm mộ, không ăn cắp báu vật, lại bày đặt xây lăng mộ dưới lòng đất làm gì? Phải chăng Mã Văn Ninh tính được ngày chết của mình sắp đến, nên muốn xây mộ ở nơi này?
Vương Uy suy nghĩ, cảm thấy suy đoán này chẳng có cơ sở chút nào. Hơn nữa, văn hóa mộ táng cả nghìn năm nay của Trung Quốc, kỵ nhất là chôn cất nhiều người cùng một chỗ, huyệt báu phong thủy đã bị kẻ khác giành mất, thì có làm nền cho người ta, cũng chỉ phá hỏng phong thủy, hủy hoại thanh danh mà thôi. Các bậc đế vương hiển quý của Trung Quốc xưa nay chưa ai làm chuyện ngu ngốc như thế bao giờ, Mã Văn Ninh rất trọng sĩ diện, quyết không thể làm chuyện đó.
Hơn nữa, lúc bấy giờ Mã Văn Ninh không còn, bọn quân phiệt xung quanh địa bàn của họ Mã nhân cơ hội gây sự, bao vây tiêu diệt, lật đổ hoàn toàn bè lũ quân phiệt nhà họ Mã, người nhà của Mã Văn Ninh cũng bị thảm sát không còn một ai. Mộ táng tìm phong thủy chính là để con cháu được nhờ, mộ tổ tiên táng vào đất tốt, đời sau ắt sẽ hiển đạt.
Mã Văn Ninh thừa biết đám quân phiệt xung quanh đang gườm gườm trông vào mình, hồi ấy quân phiệt miền Xuyên Trung đều xuất thân thổ phỉ, nên rất coi trọng khả năng hiệu triệu của cấp trên tất cả đều là một đám người vô tổ chức, vô kỷ luật, tất cả đều tuân theo ý của người đứng đầu, bảo gì nghe nấy. Lúc đánh nhau, nếu vị lãnh tụ ấy bỗng nhiên chết thì trận ấy coi như vỡ trận, lòng quân ly tán, hàng ngũ tan tác, mấy chục vạn binh mã đều không còn.
Mã Văn Ninh vẫy vùng ở Xuyên Trung bấy nhiêu năm, từ một tên thổ phỉ vô danh trở thành người chỉ huy bảy tám vạn binh mã, những quy tắc trong thời kỳ quân phiệt hỗn chiến, hắn chắc chắn biết rõ, vậy mà có thể vứt bỏ đại nghiệp giữa lúc nước sôi lửa bỏng đó, bất chấp cả tính mệnh vợ con người nhà, thâm nhập vào vùng núi Đường Cổ Lạp, ắt hẳn bí mật bên trong phải vô cùng kỳ quái.
Nhị Rỗ nói:
– Hai người nhìn xem, những sọt đất và xe đẩy này đều được đưa từ bên ngoài vào, chắc chắn thằng cha Mã Văn Ninh kia định xây cất gì đó ở đây.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc cũng chú ý tới những chi tiết đó, càng đi sâu vào hang nước càng sâu, rất nhiều xác người nổi lềnh bềnh, giơ đuốc soi chỉ thấy từng đống đen đen bập bềnh trên mặt nước, trông thật rùng rợn.
Nhị Rỗ nói:
– Hơn một nghìn quân của Mã Văn Ninh, một phần chết bên ngoài hang, một phần nữa chết dọc đường vào hang, còn lại một phần vào được đến đây để xây cất công trình, vậy là hơn một nghìn con ngưòi đều chết trong hang này. Mẹ kiếp, đúng là lũ thiêu thân, làm thế này biết chắc là chết, thế mà vẫn cứ lao vào, lạ thật, không biết bọn chúng định làm trò trống gì.
Vương Uy nói khẽ:
– Cứ qua xem cái đã, đừng nói gì.
Nhị rỗ thấy sắc mặt Vương Uy có vẻ nghiêm túc, ánh mắt khác hẳn bình thường, biết là có chuyện, vội im bặt. Trong hang chỗ nào cũng có tiếng tí ta tí tách, bỗng phía trước rung lên, tiếp theo lại có tiếng nước ì oạp như thể có người lội nước đi đến.
Nhị Rỗ nhìn Vương Uy, Vương Uy gật đầu, ba người vội tách nhau ra, tay lăm lăm khẩu súng, sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào.
Cả ba dừng bước, nấp vào sau những tảng đá gồ ghề lồi lõm trong hang động, để lại mình Vương Uy giơ đuốc, đợi thứ ở đằng sau bước ra. Lúc này ba người đều đoán rằng, những âm thanh kia là do cái xác lính nhà Thanh phát ra, tuy nó là xác sống, nhưng khi trúng đạn lại chảy máu, điều đó ít nhiều tiếp cho họ chút sức mạnh, trong tay có súng, cũng vững tâm hơn.
Ba người chờ một lúc chẳng thấy tiếng động kia vang lên nữa. Vương Uy lập tức xông ra khỏi chỗ nấp, dẫn đầu đuổi theo, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc ào ào lội nước bám theo sau.
Họ chạy chừng hơn hai chục mét thì thấy phía trước xuất hiện một chỗ ngoặt. Vương Uy xông tới, Nhị Rỗ xách tiểu liên theo sau, uy phong lẫm lẫm nhao lên, bỗng thấy phía trước có ánh đèn mờ ảo, chính là ngọn đèn họ thấy giữa chiến trường.
So với lúc thấy ở giữa chiến trưòng, ngọn đèn lần này sáng hơn nhiều, nhưng vẫn không gần không xa, mơ hồ như đom đóm giữa đêm đen. Ngọn đèn mà họ thấy trên chiến trường trông không thật, không phân biệt được là ma trơi hay là đèn của con người, nhưng nhìn thế này lại thấy rất thật, có thể khẳng định đấy quả thực là một ngọn đèn.
Nhìn thấy một vật có thật, ba người đều cảm thấy nhẹ nhõm hẳn đi. Nhưng âm thanh như tiếng lội nước kia thoáng cái đã không còn, khiến cả hang động chìm trong bầu không khí quỷ dị vô cùng. Vương Uy dặn mọi người phải cẩn thận, tách nhau ra mà đi, hễ phát hiện điều gì bất thường lập tức lên tiếng ngay.
Qua một khúc quanh, nước trong hang càng sâu hơn, đã ngập đến nửa người. Trên mặt nước đầy xác lính quân phục vàng, bọn lính này lúc chết đều trong tư thế lao động, chắc hẳn phần đông đều chết vì kiệt sức, có thể thấy cái giá Mã Văn Ninh phải trả là quá lớn. Cả ba người đều tự hỏi, không biết hắn định xây cái gì.
Vương Uy đang lội nước bỗng thấy ngay trước mặt, cách chừng một mét có bọt nước sủi lên, hình như thứ gì đó dưới nước đang nổi lên. Không kịp nghĩ ngợi, Vương Uy liền nhằm vào giữa đám bọt nước bắn liền hai phát, nước bắn tung tóe, một con vật thuộc loài bò sát to bằng bàn tay từ dưới nước nổi lên, mặt nước xung quanh nó nổi lên một lóp váng dầu đặc quánh, mùi rất buồn nôn.
Nhị Rỗ vừa thấy liền nói ngay:
– Là ba ba ăn xác.
Vương Uy rùng mình, thấy đằng trước vẫn còn mấy chỗ sủi bọt lên, đường như mấy đám bọt nước ấy đang tiến về phía này, chắc hẳn dưới nước còn nhiều ba ba lắm.
Dương Hoài Ngọc theo sau Vương Uy, hấp tấp hỏi:
– Làm thế nào bây giờ?
Vương Uy đảo mắt quan sát xung quanh, đoạn nói:
– Dựa sát vào vách hang, xem gần đấy có giá chỗ nào không, tạm tránh đi rồi nói.
Đám bọt nước ùn ùn tiến về phía ba người, ba người vừa bắn vừa lùi, cứ bắn một phát lại thấy một mảng dầu trào lên mặt nước, xác ba ba cũng nổi lên theo, chỉ một lúc sau, trên mặt nước đã có mấy chục con ba ba nổi lềnh phềnh.
Họ không bắn còn đỡ, lúc này đám ba ba nổi lên khiến lớp váng dầu lan ra, thu hút những con ba ba gần đấy lại, nhưng trong phạm vi chục mét quanh đó, chỗ nào cũng thấy bọt nước sủi lên, từng đám từng đám, không đếm nổi có bao nhiêu con.
Thấy vậy, Vương Uy thất kinh hồn vía, đàn ba ba ăn xác chỉ còn cách anh chừng một mét, hơn nữa vòng vây đang từ từ thu nhỏ lại, dồn anh vào góc chết. Trước đây anh chưa bao giờ thấy ba ba ăn xác, nhưng có lần Nhị Rỗ uống rượu vào có nhắc qua, nói rằng giống này hễ đụng phải máu là ùng ục mất dạng, nội trong một tuần hương sẽ bò khắp cơ quan nội tạng trong cơ thể người ta, người bị nó chui vào chỉ có thể trơ mắt nhìn một khối u trồi lên bò quanh người mình, hết một tuần hương là nội tạng bị khoét rỗng.
Trong lúc nguy cấp, Vương Uy chẳng kịp nghĩ ngợi gì nhiều, vội giơ súng bắn liền. Khẩu súng lục của anh rất ít đạn, hơn nữa lại không thể bắn liên tục, chỉ trong nháy mắt, Vương Uy đã hết đạn.
Nhị Rỗ ở phía sau kêu to:
– Chỉ huy, đến đây, chỗ này có cái bè gỗ.
Vương Uy vừa lên đạn vừa ừm một tiếng đáp lời, chợt thấy phía sau có một loạt đạn bắn đến, ngăn đám bọt nước kia lại, Vương Uy tranh thủ lắp xong đạn, quay ngoắt lại, bắn tan mấy đám bọt nước.
Cách chỗ anh chừng mười mét, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đã leo lên bè gỗ, Nhị Rỗ đang dốc ngược một cái thùng, không biết để làm gì. Dương Hoài Ngọc giơ súng bắn quét một loạt đạn, phát nào cũng trúng, không có phát nào trật, quả là thiện xạ.
Dương Hoài Ngọc bắn nát một đám ba ba ăn xác bâu quanh bè gỗ, đàn ba ba ngửi thấy mùi dầu đều bơi về phía thi thể đồng loại, áp lực từ đám ba ba phía sau Vương Uy tạm thời giảm đi. Anh phối hợp với Dương Hoài Ngọc bắn nát mấy con xung quanh đấy, mở một đường thoát, đoạn lội nước chạy về phía bè gỗ. Dương Hoài Ngọc bắn quét một loạt sau lưng anh, tạo thành một bức tường nước, ngăn không để lũ ba ba ăn xác tiến đến gần.
Vương Uy tranh thủ trèo lên bè gỗ, Nhị Rỗ cầm một nùi giẻ đã tẩm đẫm dầu, kéo Vương Uy lên bè, rồi đốt nắm giẻ tẩm dầu, ném vào giữa đám ba ba đang tranh nhau hớp dầu.
Nắm giẻ tẩm dầu ném xuống nước hồi lâu không tắt, thêm vào đó, bầy ba ba ăn xác đang tranh nhau hớp dầu nên đều nổi cả lên mặt nước. Nắm giẻ vừa khéo rơi xuống đúng vũng dầu, lập tức bừng lên thiêu cháy hàng loạt ba ba, xác chúng nổi phềnh lên thành từng đám trên mặt nước không khí xung quanh đầy mùi xác
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc mỗi người cầm một cái sào chống bè gỗ từ từ tiến về phía trước. Mặt nước dập dờn đầy những ba ba, lại lềnh bềnh một lớp váng dầu đặc sệt, chẳng biết bên dưới nước còn bao nhiêu ba ba ăn xác nữa, chỉ thấy mặt nước cứ như sôi sùng sục cả lên.
Có điều chiếc bè gỗ này rất chắc chắn, không lo thế gọng kìm của lũ ba ba ăn xác kia từ hai bên kẹp lại làm thủng bè, ba người đứng trên bè không phải sợ chúng nữa.
Bè gỗ tiến về phía trước, ba ba cũng nổi trên mặt nước thành đàn kéo dài cả trăm mét, nhiều xác người từ trên nguồn trôi xuống lập tức bị đám ba ba bu đầy, những con ba ba ăn xác béo núc rúc vào thi thể, chui từ đầu vào, rồi thò ra ở đằng bụng, trong ít phút, xác chết chỉ còn lại cái vỏ, khiến ba người đứng trên bè nhìn mà lạnh toát cả người. Nếu không tìm được cái bè gỗ, e rằng cả ba cũng đã trở thành những cái vỏ rồi.
Bè gỗ đi thêm một đoạn nữa, bỏ đàn ba ba ăn xác lại phía sau. Mặt nước lặng dần, nhìn không thấu đáy, hẳn là sâu lắm. Vương Uy mấy lần dùng sào để thăm dò độ sâu nhưng đầu sào không chạm được đến đáy nước.
Nhị Rỗ phóng mắt nhìn ra xa, thấy ngọn đèn phía trước mỗi lúc một to hơn, lúc này đã sáng như một hạt đỗ tằm, nhưng lại không nhìn rõ được cảnh tượng quanh đó.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc ra sức chống sào, cái bè đi được mấy trăm mét, xác chết trên mặt nước bỗng nhiều lên, dày đặc trôi xuống vùng hạ du. Vương Uy cảm thấy có vấn đề, bèn bảo Nhị Rỗ chú ý quan sát. Một lúc sau bỗng nghe Nhị Rỗ kêu lên:
– Nhìn kìa, ngọn đèn kia rồi!
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc cùng dõi mắt nhìn quả nhiên thấy sâu trong bóng tối có một đám lửa lơ lửng trên nóc hang, phải ngước lên mới trông thấy. Bên dưới đám lửa hình như còn có gì đó, chỉ có thể thấy lờ mờ hình dạng, là một vật vuông vuông, có góc có cạnh. Nhị Rỗ chăm chú nhìn ngọn lửa đến đờ cả mặt ra.
Vương Uy nói:
– Có thấy rõ không? Hay là chúng ta bám vào vách động leo lên xem?
Một lúc sau mới nghe Nhị Rỗ đáp:
– Ngọn lửa ấy không phải ở vách hang, mà ở chính giữa vòm hang.
Vương Uy liên tiếp tránh mấy mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước, ngẫm nghĩ lời Nhị Rỗ:
– Ở chính giữa vòm hang à? Chính giữa vòm hang làm sao treo lơ lửng
Anh dừng tay chống bè, nhìn về phía trước, quả nhiên trông thấy ngọn lửa ở giữa vòm hang mỗi lúc một cháy sáng, vật phía dưới ngọn lửa cũng hiện rõ dần lên, bắt đầu thấy lờ mờ những góc cạnh.
Dương Hoài Ngọc còn quên cả chống bè, cô căng mắt ra nhìn một hồi, rồi buột miệng:
– Cái đó hình như là kim tự tháp, giống như kim tự tháp của các Pharaoh Ai Cập ấy.
Vương Uy sững sờ, Nhị Rỗ cũng ngớ ra hỏi lại:
– Kim tử[1] tháp là thế nào? Tháp vàng á? Cái cô này tham vàng đến sắp phát điên rồi hay sao?
[1] Trong tiếng Trung Quốc, chữ
tử
và chữ
tự
phát âm gần giống nhau nên Nhị Rỗ hiểu lầm.
Dương Hoài Ngọc hừ mũi đáp:
– Kim tự tháp chính là lăng mộ của các Pharaoh Ai Cập cổ, có hình chóp tam giác đều, xây toàn bằng đá lớn, nhiều kim tự tháp đã sừng sững giữa sa mạc cả nghìn năm nay rồi.
Nhị Rỗ nhổ toẹt một cái, nói:
– Mẹ kiếp, ả tây rởm này thật quái đản, tháp đá thì cứ gọi là tháp đá, bày đặt cái gì kim tự tháp, nghe không xuôi tí nào.
Dương Hoài Ngọc nổi cáu:
– Anh…
Vương Uy chống bè đến gần kim tự tháp, thấy một phần của nó chìm trong nước, phần lộ ra trên mặt nước cao đến mấy chục mét, dưới rộng trên hẹp, càng lên cao đỉnh chóp càng nhỏ lại, trông thật kỳ quái.
Vương Uy nhìn kỹ, thấy một cạnh lộ ra trên mặt nước của kim tự tháp này cũng phải đến mấy chục mét, quả là một công trình kiến trúc lớn.
Nhị Rỗ tặc lưỡi, nói:
– Hai người bảo, có phải Mã Văn Ninh dẫn bấy nhiêu quân lính chui xuống đây để xây cái thứ gọi là kim tự tháp này không?
Bè gỗ áp sát vào kim tự tháp, nhưng xung quanh lềnh phềnh đầy những xác người mặc quân phục vàng, bè không có cách nào cập gần hơn được nữa. Đến lúc này ba người mới có cảm giác không tài nào chịu đựng nổi nữa, mùi hôi thối của xác chết làm họ nôn ồng ộc ra cả nước chua.
Vương Uy chẳng biết làm sao, đành gắng bình ổn lại hơi thở, dùng cây sào tre gạt bớt những xác người bám quanh kim tự tháp, trong khi Dương Hoài Ngọc chống bè đề phòng bị nước xô dạt đi.
Nhị Rỗ chăm chú nhìn mặt kim tự tháp gần phía cái bè gỗ, tìm một chỗ tương đối để leo lên kim tự tháp. Gã nhìn ngó hồi lâu, thầm chửi Mã Văn Ninh sao lại xây kim tự tháp đẹp đến thế, tất cả đá bên mặt tường đều được mài nhẵn bóng, tuy có thể đặt chân vào giữa các khe đá, nhưng muốn leo lên cũng khá vất vả.
Nhị Rỗ thấy ngọn lửa trên nóc hang vẫn cháy rừng rực, thầm lấy làm lạ, ngọn lửa này đượm lâu như vậy, không phải cũng giống mấy chiếc đèn đồng thắp bằng mỡ người trên chim sắt đấy chứ, bằng không sao có thể sáng được hơn chục năm trời?
Đang suy nghĩ, Nhị Rỗ bỗng thấy phía dưới ngọn lửa lộ ra một cái bóng, vội dụi mắt, nhìn lại thật kỹ. Nhị Rỗ không nhìn nhầm, đúng là có một bóng người đang nằm bò trên đỉnh tháp.
Nhị Rỗ đẩy Vương Uy, chỉ chỉ lên trên. Vương Uy biết ý, nhìn theo, vừa trông thấy bóng người, anh chợt giật nảy mình.
Vương Uy vội đưa tay ra dấu cho Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc một hồi, Dương Hoài Ngọc ở lại chống bè, còn anh và Nhị Rỗ mỗi người một góc leo lên bắt cái bóng đen kia.
Thấy hai người gật đầu đồng ý, Vương Uy liền cắn chặt lấy bó đuốc, Nhị Rỗ tắt đuốc, cầm súng lên, Dương Hoài Ngọc chống bè vào sát kim tự tháp, hai người lập tức băng qua, mỗi người một góc, bám vào đường gờ tháp leo lên.
Hết chừng một tuần hương, cả hai đã lên đến gần đỉnh tháp, càng lại gần, ánh lửa trên đỉnh tháp càng sáng khiến họ chói cả mắt. Lúc leo lên Vương Uy còn đem theo đuốc, nhưng sợ cái bóng kia phát hiện ra bọn họ, anh vội dập tắt đuốc, lập tức xung quanh tối om, hai người rơi vào thế bị động.
Leo lên gần đến nơi Vưong Uy mới phát hiện ngọn lửa kia đang cháy rần rật, không phải trong một chốc một lát nói dập tắt là dập được ngay, bèn tắt đuốc, cắm bó đuốc khô vào kẽ đá của kim tự tháp, không ngờ kẽ đá quá nông, không giữ được bó đuốc, Vương Uy vừa buông tay, bó đuốc đã rơi ngay xuống nước.
Bóng đen trên tháp giật mình, rụt người lại. Vương Uy và Nhị Rỗ nhìn nhau, lăm lăm tay súng, thoắt cái đã leo đến đỉnh tháp.
Trên đỉnh kim tự tháp có một cỗ quan tài đá trong mờ, nhưng không có một bóng người. Nhị Rỗ lấy làm lạ, cũng chẳng buồn nhìn đến cỗ quan tài, vội chạy sang phía bên kia kim tự tháp, vừa khéo nhìn thấy bóng đen kia nhảy xuống nước. Nhị Rỗ không nghĩ ngợi nhiều, lia luôn một loạt đạn. Vương Uy cũng kịp bò sang, bắn mấy viên xuống chỗ mặt nước mà bóng đen kia vừa nhảy xuống.
Tiếng súng vừa lặng nước dần yên tĩnh trở lại. Vương Uy nói:
– Bóng đen kia giống cái xác tên lính nhà Thanh quá nhỉ?
Nhị Rỗ gật đầu:
– Đúng vậy, mẹ kiếp, tôi còn trông thấy cái nón của lính thời Thanh mà.
Vương Uy thấy động tác của bóng đen ấy rất nhanh nhưng tư thế khá cứng nhắc, đoán chừng đấy là xác sống, dáng vẻ nó rất giống gã đội viên đội thám hiểm mà anh thấy trong núi tuyết Đường cổ Lạp, nhưng rốt cuộc bên trong đã xảy ra chuyện gì thì rất khó nói rõ.
Hai người quay lại đỉnh kim tự tháp, thấy ở chính giữa có đặt một cỗ quan tài đá trong mờ, vừa rồi bọn họ vội vã chạy sang phía kia, không kịp nhìn kỹ.
Lúc này nhìn lại mới cảm thấy không bình thường, cỗ quan tài này giống hệt cỗ quan tài mà họ đã thấy trong rừng ở Xương Đô, chỉ có điều cỗ này toàn bộ đều trong mờ, lại lớn hơn cỗ kia nhiều mà thôi. Ở tít trên cao, cách nắp áo quan khoảng mười mấy mét là ngọn lửa tỏa sang chói mắt, dập dờn nhảy múa.
Vương Uy nhận xét:
– Có thể đây là cỗ quan tài mà Mã Văn Ninh đưa vào núi Đường cổ Lạp, anh nhìn xem, chiều rộng đáy quan tài rất giống với phần gốc của cái cây đá.
Nhị Rỗ đi quanh quan tài một vòng, nói:
– Không sai chút nào chỉ huy ạ, Mã Văn Ninh mất bao công sức đưa cỗ quan tài này đến, lại huy động công sức cả nghìn con người để làm ra thứ kỳ quái này, có phải đầu óc lão có vấn đề rồi không?
Vương Uy chẳng buồn để ý đến lời Nhị Rỗ, anh leo lên nắp quan tài, áp mặt xuống, toan nhìn xem bên trong có gì. Có điều bên trong quan tài chỉ thấy một khối lờ mờ đùng đục, nhìn thế nào cũng không thấy rõ được, ngược lại, trên nắp quan tài còn vương mấy giọt máu tươi, có lẽ là máu của tên lính nhà Thanh.
Vương Uy đổi mấy góc nhìn nhưng cũng không thấy gì, đành tụt xuống, nói với Nhị Rỗ:
– Không đúng rồi, theo lời đồn đại thì Mã Văn Ninh đã dùng thuốc nổ làm nổ tung nắp quan tài ra rồi cơ mà? Nắp quan tài này vẫn nguyên vẹn, có thấy xây xước chút nào đâu.
Nhị Rỗ cũng cảm thấy khác thường, nghe nói trong cơn kích động, Mã Văn Ninh đã phá nắp quan tài, nên mới phát hiện ra vị lạt ma bị xé xác bên trong, trông như được thiên táng, nhưng nắp chiếc quan tài này vẫn nguyên vẹn, không hề bị vỡ.
Vương Uy lại quỳ xuống xem xét chỗ tiếp giáp giữa nắp với quan tài, thấy có nhiều chỗ sứt mẻ lõm vào, nhưng đều bị nắp áo quan che lại, chỉ có thể thấy mà không thể chạm vào. Anh đẩy thử, nhưng nắp quan tài không hề xê dịch. Nhị Rỗ nói:
– Hay là Mã Văn Ninh vốn không mở nắp quan tài ra, tin đồn xưa nay hay thất thiệt, lúc ấy chả bảo Mã Vãn Ninh bị thiên táng là gì? Ai mà ngờ được hắn chẳng những vẫn sống sờ sờ, lại còn dẫn đội đào trộm mộ xuống sâu cả nghìn mét dưới thung lũng tuyết Đường cổ Lạp?
Vương Uy lắc đầu:
– Tôi quan sát kỹ rồi, nắp quan tài đúng là bị thuốc nổ làm bật ra, anh xem chỗ tiếp giáp giữa nắp và thân quan tài, có những vết lõm ăn sâu vào và những vết sứt sẹo bên ngoài được bào nhẵn. Hơn nữa, nắp và thân quan tài không đối xứng lắm, nắp nhỏ hơn nhiều, anh có nhớ lúc chúng ta kiểm tra xem xét chỗ khuyết dưới gốc cái cây đá, chỗ khuyết ấy cao hơn cái quan tài này rất nhiều, độ cao ấy đúng bằng độ cao của nắp quan tài đấy.
Nhị Rỗ sáng mắt lên nói:
– Tôi hiểu rồi, lần ấy Mã Văn Ninh dùng thuốc nổ làm nổ tung nắp quan tài, rồi cho người đến nơi có cái cây đá kia cưa lấy một khúc về để làm nắp áo quan
Vương Uy gật đầu:
– Mã Văn Ninh đã mở ra một lần rồi, hẳn bây giờ cũng không khó mở lắm đâu, chúng ta thử đẩy nắp áo quan ra xem.
Hai người nói là làm, họ đứng ở một đầu quan tài đá, cố sức đẩy, nhưng đẩy mấy cái vẫn chẳng suy chuyển gì. Bỗng Vương Uy sực nhớ ra chuyện gì đó, vội nói:
– Cái xác lính Thanh vừa nãy hướng về phía này, phải không? Tức là đối diện với chúng ta?
Nhị Rỗ ngơ ngác gật đầu, không biết Vương Uy có ý gì. Vương Uy lại nói:
– Anh leo lên thành của nắp quan tài đi, đừng cử động nhé.
Nói rồi, Vương Uy đi sang phía mà vừa rồi họ từ đó leo lên kim tự tháp, nhìn xuống dưới, quả nhiên thấy bóng Nhị Rỗ trùng vị trí với bóng của cái xác tên lính nhà Thanh khi nãy. Dưới kim tự tháp, Dương Hoài Ngọc đang chống bè và nhìn lên trên này. Vương Uy quay trở lại, nói:
– Đúng vậy, chúng ta đẩy từ hướng này xem.
Vương Uy cũng nằm rạp xuống, hai người đồng thời ra sức, cùng hô một… hai… ba… nắp quan tài lịch kịch mở bung ra, mùi hôi thối xộc lên khiến hai người liên tục nôn khan.
Chờ cho mùi thi bay đi bớt họ mới lại gần xem. Nắp quan tài mở ra một nửa, ngọn lửa trên vòm hang rọi xuống soi rõ mọi thứ bên trong. Hai người vừa cúi xuống nhìn, đã giật thót mình, chỉ thấy bên trong là một đống xương trắng, hơn nữa còn tàn khuyết, không phải một bộ xương hoàn chỉnh.
Trước đấy, hai người đã từng trăm suy nghìn đoán về những gì có trong quan tài, nhưng không ngờ bên trong chỉ có một đống xưong, khác xa tưởng tượng của họ. Mã Văn Ninh bỏ không làm vua một cõi, không cần tám vạn binh mã, không cần sinh mạng vợ con, lẽ nào chỉ vì muốn đưa đống xương này tới đây?
Chuyện này nói ra thật hoang đường, nếu đổi lại là Vương Uy hay Nhị Rỗ hẳn họ cũng không làm, huống hồ Mã Văn Ninh lại là một tên quân phiệt vô cùng hung ác. Không có lợi ích
tuyệt đối
, hắn sẽ không giở thủ đoạn
tuyệt đối
. Mã Văn Ninh đã đào trộm không biết bao nhiêu mồ mả, mỗi lần đào một ngôi mồ lại vứt bừa xương cốt ra đồng hoang, đều là những việc làm xấu xa tuyệt tử tuyệt tôn, sao có thể bỏ lại mọi thứ để đưa một đống xương khô xuống dưới lòng đất chứ?
Nhị Rỗ nói:
– Dân gian đồn rằng, trong quan tài đá có tấm bản đồ thần bí lắm, Mã Văn Ninh lần theo tấm bản đồ đó mới tìm đến nơi này, chúng ta thử tìm xem?
Vương Uy gật đầu. Hai người nhặt hết xương ra, thấy bên trong quan tài còn một lớp vôi bột dày. Trong ba lô của Nhị Rỗ có một bọc quần áo của đám lính quân phục vàng, gã chuẩn bị sẵn để đề phòng lũ ba ba ăn xác bò lên được bè gỗ, hiện giờ vừa khéo đến lúc dùng.
Nhị Rỗ xé đống quân phục vàng ra làm hai phần, mỗi người một nửa, cả hai cùng chui vào quan tài, mau chóng gạt sạch vôi bột trong đó.
Gạt hết lớp vôi bột, quả nhiên trông thấy giữa quan tài có một bức hình khắc chìm, nhưng không phải bản đồ, mà là một bức tranh. Đường nét trong tranh thật rõ ràng, nét khắc tình tế, Vương Uy và Nhị Rỗ xem xong bức tranh, liền đưa mắt nhìn nhau, gần như cùng một lúc buột ra câu hỏi: Có phải chính bức tranh này đã xui khiến Mã Văn Ninh vượt ngàn dặm xa xôi đưa quan tài đá tới đây?
Bức tranh vẽ cảnh một vị quý tộc xuất tuần, kẻ hầu người hạ và cung nữ vây quanh không biết bao nhiêu mà kể, ô lọng, ngựa xe tấp nập. Vị quý tộc ngồi trên chiếc xe ngựa sang trọng dẫn đầu đoàn xa giá hai cô nữ tỳ ngồi hai bên vén rèm. Những nhân vật khác trong tranh đều đưọc chạm khắc rất sinh động, duy chỉ có vị quý tộc, y phục gấm hoa đều rõ nét, riêng khuôn mặt là mờ mịt, chỉ thấy một mảng tối đen, trông rất kỳ dị.
Vương Uy nói:
– Đống xương này là của tay quý tộc trong tranh hay của vị lạt ma đưa bản đồ đến cho Mã Văn Ninh nhỉ?
Nhị Rỗ khẳng định:
– Chắc chắn là tay quý tộc, lạt ma là cái thá gì? Lúc ông ta còn sống, Mã Văn Ninh đã cắt gân chân tay của ông ta, không coi ông ta ra gì, huống hồ khi ông ta đã chết?
Vương Uy không nói gì, anh cũng cho rằng Nhị Rỗ nói đúng. Nhưng Vương Uy không rõ tại sao Mã Văn Ninh chỉ vì một bức tranh như thế này mà hy sinh nhiều đến vậy, thậm chí vứt bỏ tất cả để đưa cỗ quan tài tới đây?
Lại nói đến đại tướng quân Trương Tử Thông những năm Vạn Lịch thời nhà Minh. Cũng giống như Mã Văn Ninh, hoàng đế Vạn Lịch nhận được tấm bản đồ của vị lạt ma, liền phái năm nghìn binh hùng tướng mạnh vào núi Đường Cổ Lạp, lẽ nào vấn đề bắt nguồn từ tấm bản đồ chứ không phải là bức vẽ trong quan tài sao?
Vương Uy nói với Nhị Rỗ suy nghĩ của mình, Nhị Rỗ cũng cảm thấy nghi ngờ, vấn đề là trong quan tài chỉ có bộ xương khô và bức vẽ, không có cái gì gọi là bản đồ cả, biết tìm đáp án ở đâu đày?
Nhị Rỗ nhìn kỹ lại bức tranh trong quan tài, nhưng không nhận ra được điều gì, đành nhặt xương cốt bỏ lại vào trong. Ngay lúc ấy, gã phát hiện một mảnh đồng lẫn trong đống xương,
Mảnh đồng này Nhị Rỗ trông rất quen, giống hệt với mảnh đồng buộc trên lục lạc mà gã lấy được từ cái xác máu, đúng là cùng một khuôn đúc ra.
Vương Uy thấy Nhị Rỗ mân mê mảnh đồng trên tay, bèn nói:
– Có phải mảnh đồng còn thiếu trên chiếc chuông Kim Cương không?
Nhị Rỗ trả lời:
– Giống lắm, nhưng phải cắm thử vào xem mới biết được.
Nhị Rỗ lấy chiếc chuông Kim Cương giắt ở thắt lưng ra, loay hoay thử nhét miếng đồng vào lỗ vuông trên bầu chuông, chợt nghe trong chuông lách cách một tiếng, mảnh đồng vừa khéo lấp kín ba lỗ vuông phía trước. Nhị Rỗ phấn khởi reo lên:
– Đúng nó rồi!
Mảnh đồng cắm vào lỗ, kết hợp với những đường nét trên bầu chuông, lại tạo thành một bức tranh, Nhị Rỗ vừa nhìn, bỗng ngớ ra.
Vương Uy cũng đến gần, nhìn những nét chạm khắc trên bầu chuông, ba lỗ vuông được mảnh đồng lấp kín kết hợp với những đường nét chạm khắc trên bầu chuông Kim Cương tạo thành một bức tranh, trong tranh có một hang động, cửa hang đầy sương mù, chẳng khác nào tiên cảnh, trong hang có một người đang ngồi thiền, dáng dấp rất giống vị quý tộc trong bức tranh khắc trong quan tài, gương mặt cũng chỉ là một mảng tối. Toàn thân người này trần truồng, tay cầm cái gì đó giống như tấm áo, buông rũ xuống.
Vương Uy lấy làm lạ, hỏi:
– Ông ta đang ngồi thiền, còn cầm áo làm gì?
Mặt Nhị Rỗ phủ một tầng sương lạnh, gã nhìn vào mắt Vưong Uy, nói:
– Chỉ huy xem kỹ lại đi, có phải áo không? Rõ ràng là một tấm da người.
Nghe Nhị Rỗ nói vậy, lòng Vương Uy chợt trầm hẳn xuống, anh nhìn Nhị Rỗ, thấy sắc mặt Nhị Rỗ hết sức u ám, lại nhìn sang bức họa trên bầu chuông Kim Cương. Vương Uy quan sát kỹ người ngồi thiền kia, thấy tấm áo người đó cầm trên tay rũ xuống, dính lại thành một đống, hơn nữa còn lờ mờ trông thấy sắc đỏ tươi, đúng là một tấm da người. Lại nhìn thân hình lõa lồ của người kia, thấy toàn thân trắng lôm lốp như trẻ con, nhưng thể hình cũng phải khoảng ngoài bốn mươi tuổi rồi.
Nhị Rỗ chăm chú nhìn Vương Uy, nói:
– Chỉ huy có nhận ra không, ông ta đang tự lột da mình ra đấy.
Vừa nghe nói, toàn thân Vương Uy liền nổi hết da gà. Nhị Rỗ nói đúng, người kia đã lột da của mình ra cầm trên tay. Vương Uy cầm chiếc chuông Kim Cương đến so sánh với bức vẽ trong quan tài, thấy tư thế ngồi cùng thần thái của vị quý tộc trong tranh giống hệt người kia, hơn nữa ở một góc trên bầu chuông có khắc một đống áo quần, nhìn kỹ có thể thấy đó là áo quần mà vị quý tộc trong tranh mặc trên người.
Sự thật chứng minh, vị quý tộc trong bức tranh trong quan tài đá và người khắc trên bầu chuông là một. Người này lột da của mình, nhưng chẳng những không chết mà còn mọc ra một lớp da non như của trẻ sơ sinh, chuyện này thật quá chừng quái gở. Vương Uy nhìn hình khắc người lột da trên bầu chuông, thấy rợn cả tóc gáy.
Nhị Rỗ ngồi trước mặt Vương Uy, cứ xoắn mãi bộ râu dê của mình, đôi mày cau rúm lại, miệng méo xệch đi, trông dung tục vô cùng.
Thình lình Nhị Rỗ nói:
– Chỉ huy bảo, những người đã tận hưởng mọi vinh hoa phú quý ở đời, đứng trên muôn vạn người như hoàng đế Vạn Lịch hay Mã Văn Ninh sợ nhất điều gì?
Vương Uy như được đánh thức, vội đáp:
– Trường sinh bất tử, à ra là họ đang tìm phương pháp trường sinh bất tử.
Nhị Rỗ gật đầu, nói đầy vẻ kỳ bí:
– Người tự lột da được khắc họa trên bầu chuông Kim Cương, chẳng nhẽ là đang dùng tà thuật gì đó để lột xác, nên tuy tuổi đã gần năm mươi mà vẫn có được thân thể như trẻ sơ sinh, trường sinh bất lão? Mã Văn Ninh và hoàng đế Vạn Lịch tin điều đó nên mới không tiếc mọi giá, lặn lội tìm đến chốn này ư?
Vương Uy nghe mà rùng cả mình, lột da để sống tiếp thoạt nghe thực là hoang đường, nhưng những bức vẽ trong quan tài và trên bầu chuông Kim Cương lại miêu tả hết sức rõ ràng sống động, khiến Vương Uy xem mà lạnh hết sống lưng, dựng cả tóc gáy.
Nhị Rỗ ngồi đối diện với Vương Uy, im lặng hồi lâu, đoạn nói:
– Cứ coi như Mã Văn Ninh đến đây để cầu trường sinh bất lão, nhưng hắn ta xây cái gọi là kim tự tháp dưới nước này, lại đặt cỗ quan tài đá lên trên đó, liệu có thể đạt được mục đích lột xác để tiếp tục sống không? Chuyện này không cách nào giải thích rõ được.
Vương Uy cũng hết sức nghi hoặc, họ đi từ hẻm núi lớn thời tiền sử đến đây, trải qua muôn vàn hiểm nguy, thập tử nhất sinh, khó khăn lắm mới tìm thấy chỗ táng quan tài đá của Mã Văn Ninh, vậy mà không có bất cứ manh mối nào. Nếu cứ tiếp tục chống bè đi mãi, họ có thể chống được tới đâu? Nếu không tìm thấy lối ra, họ sẽ chết trong hang động sâu dưới lòng đất hàng mấy nghìn mét này ư?
Nhị Rỗ xoắn râu, gắng nghĩ xem lý do nào có khả năng nhất khiến Mã Văn Ninh phải tốn công sức để làm những việc này, gã lật đi lật lại cái chuông Kim Cương, xem đi xem lại hai bức vẽ, trong hang động rộng lớn, tiếng chuông cứ ngân nga hoài không dứt.
Vương Uy đột nhiên nói:
Anh có để ý không? Cái xác tên lính nhà Thanh kia nhảy xuống nước bỏ trốn, xét theo tình huống lúc bấy giờ, nhảy xuống nước chạy trốn là phương án duy nhất, nhưng cái kim tự tháp này có một phần chìm sâu dưới nước, phải chăng dưới nước vẫn còn có hang động? Tôi cứ cảm thấy mục đích của Mã Văn Ninh xây kim tự tháp không chỉ đơn thuần là để đặt cỗ quan tài đá này đâu.
Nhị Rỗ nhìn hai bức tranh khắc họa người lột da và Đại âm khư nói:
– Người lột da và địa thế phong thủy ở Đại âm khư có quan hệ gì? Tại sao hai bức họa này lại được khắc chung một chỗ?
Vương Uy nói:
Xem ra chỉ có lặn xuống nước xem thử mới rõ được. Nhị Rỗ thần người hỏi:
– Xuống nước thì giải quyết lũ ba ba ăn thịt như thế nào?
Vương Uy nói:
– Đám ba ba đều đã bơi xuôi xuống hạ lưu rồi, xung quanh kim tự tháp tuy nhiều xác người, nhưng tôi thấy đều nguyên vẹn, không có cái nào chỉ còn vỏ rỗng cả.
Nhị Rỗ nghe nói vậy, chừng như nhớ ra điều gì, liền bước ra mép của đỉnh tháp nhìn xuống, quả nhiên thấy trên mặt nước lềnh bềnh rất nhiều xác lính mặc quân phục vàng, cái nào cái nấy miệng mũi đều hoàn chỉnh, không có dấu vết bị ba ba gặm rỉa.
Bỗng Nhị Rỗ nói lớn:
– Đúng rồi, địa thế ở đây có gì đó khác lắm, tại sao trên mặt nước dày đặc xác người như thế mà ba ba ăn xác lại không dám đến? Là vì đây chính là Đại âm khư. Đại âm khư là gì, là sào huyệt của ngàn vạn ma quỷ, ngay đám ba ba ăn xác cũng phải sợ âm khí của nó, đời nào dám bén mảng?
Vương Uy nghe mà sững sờ, vội nói:
– Theo anh nói thì Đại âm khư ở dưới chân kim tự tháp này à?
Nhị Rỗ gật đầu, nói:
– Có thể lắm, nếu không phải bên dưới là tuyệt địa phong thủy Đại âm khư thì dưới chân kim tự tháp nhiều xác người như vậy, đáng lẽ đám ba ba ăn xác đã bu đặc rồi mới phải. Hơn nữa, chỉ huy xem, cái xác lính nhà Thanh kia trong nháy mắt đã có thể vùng dậy, đi lại như gió, theo tôi đến tám chín phần mười có liên quan tới Đại âm khư.
Vương Uy nhìn Nhị Rỗ, thấy gã đang buộc lại cái chuông Kim Cương vào thắt lưng, nhét súng tiểu liên vào trong áo bông, rồi nhanh nhẹn trượt xuống kim tự tháp, nhảy ùm xuống nước. Vương Uy cũng tụt từ đỉnh tháp xuống theo, thuật lại sơ qua cho Dương Hoài Ngọc biết kế hoạch hành động, đoạn hai người buộc bè gỗ vào một tảng đá của kim tự tháp, cùng nhảy xuống nước.
Dưới nước tối om om, Vương Uy vừa lặn xuống đã không thấy gì nữa, chỉ nghe thấy tiếng nước chảy bên tai, cùng tiếng Dương Hoài Ngọc quạt nước đằng sau. Nhị Rỗ xuông trước họ chừng hơn mười phút, vậy mà phía trước lại chẳng thấy động tĩnh gì, không biết gã đã bơi đi đâu nữa.
Vương Uy lần theo một mặt tường của kim tự tháp, dưới nước là hàng lớp đá, anh cứ mò mẫm lặn xuống. Đá ngâm lâu ngày dưới nước, sờ vào như chạm phải băng, lạnh đến run người.
Vương Uy mò mẫm lặn xuống hơn chục mét, trong đầu chợt thoáng ý nghĩ, Nhị Rỗ lặn xuống hơn chục phút mà vẫn chưa ng lên thở, lẽ nào đã xảy ra chuyện gì, hay đã phát hiện ra lối vào nào khác rồi, bằng không gã đổi hơi thế nào?
Lặn xuống đến đây, Vương Uy bắt đầu cảm thấy áp lực nước quá lớn, khiến anh hơi ngạt thở, bèn nghĩ tới việc ngoi lên lấy hơi rồi lặn tiếp. Hai tay anh nắm lấy những tảng đá bên mặt tường kim tự tháp, tìm cách xoay người hướng lên trên, chợt đầu anh đụng phải một vật gì đó, đoán rằng đấy là Dương Hoài Ngọc, anh liền đẩy cô ra, tỏ ý bảo cô ngoi lên lấy hơi đã rồi hẵng lặn xuống tiếp.
Vương Uy đẩy mạnh một cái, chạm phải đùi Dương Hoài Ngọc nhưng cô chẳng hề phản ứng gì. Vương Uy bị ngạt tưởng như sắp đứt hơi tới nơi, vậy mà Dương Hoài Ngọc vẫn chắn ngang trước mặt, khiến anh không sao ngoi lên nổi. Anh lại cố sức đẩy lần nữa, nào ngờ Dương Hoài Ngọc vẫn bất động. Không còn cách nào, Vương Uy đành nhích sang vị trí khác, tránh Dương Hoài Ngọc ra để nổi lên.
Anh lấy làm lạ, Dương Hoài Ngọc là người sống, vậy mà tại sao vô duyên vô cớ lại chẳng phản ứng gì cả? Vương Uy âm thầm chú ý, bèn bơi tới bên cạnh Dương Hoài Ngọc từ từ sáp lại gần cô, còn chưa chạm đến người Dương Hoài Ngọc, anh đã thấy lạnh buốt xương, như chạm vào đá lát trên tường kim tự tháp vậy, thật là kỳ lạ?
Vương Uy tay cầm súng, lùi dần về phía sau, anh có thể khẳng định thứ ở đằng trước không phải người sống, thân mình người sống luôn ấm áp, đâu thể lạnh buốt như vậy?
Thứ lạnh như băng kia hình như phát hiện ra Vương Uy đang đến gần, bỗng nhiên thân thể nó quẫy mạnh, khiến nước xung quanh cuộn lên. Vương Uy chỉ thấy loáng cái trước mặt đã không còn gì, vật đó lặn tuốt xuống dưới, nước xung quanh cuộn lên dữ dội, khiến anh bị sóng nước đẩy lùi về phía sau.
Vương Uy hết sức ngạc nhiên, từ lúc xuống nước, Dương Hoài Ngọc vẫn bám theo sau, cách anh chưa tới một mét, anh còn nghe rõ tiếng quẫy nước của cô, tại sao người bỗng nhiên không thấy đâu nữa? Còn một khả năng khác, chính là vào một lúc nào đó, Dương Hoài Ngọc đã lặng lẽ biến mất, thứ lạnh như băng kia nhân cơ hội ấy bèn bám theo anh mà anh không hay biết.
Vương Uy nhớ lại cảm giác lạnh buốt mà anh chạm phải vừa rồi, tim bỗng tê dại đi, anh nương theo hướng luồng nước lặn xuống, dưới làn nước tối tăm xòe bàn tay không thấy ngón, tất cả chỉ dựa vào cảm giác, Vương Uy gắng nén sợ hãi, tiếp tục lặn sâu xuống, áp lực nước càng lúc càng lớn hơn, khiến anh tưởng chừng sắp vỡ phổi tới nơi.
Vương Uy nương làn sóng, bám theo thứ lạnh như băng kia, giữ một khoảng cách vừa phải. Bỗng ngọn sóng xô vào tường kim tự tháp rồi lặng dần, Vương Uy cầm súng, thận trọng bơi đến, anh áp sát người vào bức tường, đột nhiên sờ thấy một lỗ hổng, thứ kia đã lỉnh vào bên trong kim tự tháp.
Dưới áp lực của nước, ngực Vương Uy vô cùng khó chịu, anh vội nổi lên, hổn hển hít thở cho đến khi hơi thở bình ổn trở lại, rồi hít một hơi thật sâu, lặn xuống tìm đúng chỗ cái lỗ kia, khom người chui vào.
Vương Uy theo lối cũ nổi lên, rồi lại theo lối cũ lặn xuống nhưng vẫn không phát hiện tung tích Dương Hoài Ngọc. Anh từng chứng kiến tài bơi lội của Dương Hoài Ngọc, cô ta là thổ phỉ trên biển, chiến đấu dưới nước hay giết người đoạt mạng dễ như trở bàn tay, nếu nói một con người dũng mãnh như thế bỗng dưng biến mất thì quả là khó bề tưởng tượng.
Vương Uy chui qua lỗ hổng trên tường kim tự tháp, lọt vào hang đá, tuy cái lỗ khá lớn, nhưng vào sâu chừng mười mấy mét thì hang đá đột ngột thu hẹp lại, chỉ đủ cho một người chui lọt.
Anh mò mẫm những tảng đá xây quanh lỗ hổng, phát hiện ra chúng không theo một quy chuẩn nào cả, chỗ nào cũng có dấu vết đục đẽo sứt sẹo, tổng thể tựa như đã bị cho nổ tung ra vậy. Vương Uy lần theo hang đá lặn xuống, lòng bỗng rờn rợn, hang đá này rất hẹp, nếu bên trong xảy ra chuyện gì thì không có cách nào né tránh cả, cho dù thứ kia không làm hại mạng người thì chỉ cần nó bịt chặt lối vào, người bên trong chẳng sống nổi mấy phút đã ngạt thở chết rồi.
Hang đá này chênh chếch hướng xuống, ăn sâu vào giữa kim tự tháp mấy chục mét. Vương Uy mò mẫm bơi vào đến tận cùng, chợt đụng phải một phiến đá đáy hang. Hang đá này thẳng băng không có ngóc ngách nào cả, vừa rồi anh bám theo thứ lạnh như băng kia mới tìm thấy lối vào, thứ ấy đích xác đã chui vào đây, không còn nghi ngờ gì nữa. Vương Uy chỉ nổi lên lấy hơi trong một khắc, mà thứ kia hình thể lại rất lớn, không lý nào có thể chui ra nhanh như vậy được, thứ to lớn như vậy cũng không thể vô duyên vô cớ biến mất, vậy nó đã đi đâu?
Vương Uy rất nghi ngờ, không chỉ thứ lạnh buốt kia mà cả Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cũng vô cớ biến mất, chuyện này thật quỷ dị vô cùng, nghĩ mà lạnh cả người.
Vương Uy gõ gõ vào phiến đá, ghé tai nghe ngóng, chỉ thấy tiếng nước chảy róc rách, quả nhiên phía sau có không gian, anh cũng có phần yên tâm hơn. Nhưng xung quanh phiến đá này hết sức bằng phẳng, không chỗ nào có thể dùng lực tác động cả, Vương Uy sờ quanh phiến đá vài lần, nhưng chẳng thấy có chỗ lõm nào hết. Ngụm khí anh gắng nén trong ngực cạn dần, Vương Uy cũng không thể nấn ná lâu thêm dưới nước nữa, nhưng nếu nổi lên lấy hơi rồi lại lặn xuống thì xuống đến nơi cũng hết hơi. Anh đành nghiến răng, cố nhịn thở, đúng lúc này, bên trong phiến đá thình lình vang lên tiếng gõ đập, anh vội lùi lại, móc súng ra lăm lăm trên tay, chờ thứ ở sau phiến đá xông là nổ liền hai phát súng, cứ bắn gục nó trước rồi sẽ tính sau. Nếu không, lại phải giao tranh dưới nước với thứ đó, mà phổi anh đã nóng như lửa đốt, không sao thở nổi, lỡ bị sặc nước chắc chắn sẽ bỏ mạng trong hang động này.
Trong hang đá ồn ào một hồi, bỗng ào một tiếng, nước từ sau phiến đá tràn ra, Vương Uy biết thứ kia đã xuất hiện, vội giương súng nhắm bắn. Nào ngờ, thứ đó đã nhanh chóng tóm lấy khẩu súng trong tay anh ấn xuống, Vương Uy không kịp trở tay, cánh tay cầm súng của anh bị ấn chặt xuống nền đất, không sao cử động nổi.
Vưong Uy vừa kích động thì ngụm khí vẫn nín nãy giờ cũng cạn luôn, anh há miệng hớp phải hai hớp nước, bị nghẹn lại ở cổ họng, khạc không ra nuốt không vô, đầu óc dần mơ hồ hẳn đi.
Thứ kia tóm tay Vương Uy lôi vào trong, anh đang bị ngạt thở, toàn thân vô lực, đành mặc cho nó tóm chặt, không sao giãy giụa được.
Hai mắt Vưong Uy đã trắng dã, bọt khí ùng ục thoát ra theo đường miệng đường mũi, dù đang mê man nhưng anh vẫn phải liều mạng nín hơi, giữ lấy một hơi thở, cảm giác này quả là sống không bằng chết.
Thứ đó một tay kẹp Vương Uy vào nách, tay kia đẩy mạnh vào phiến đá, loay hoay mấy lần, rồi chuồi mình vào làn nước, bơi về phía trước. Tuy Vương Uy bị nghẹn khí đến nỗi mơ hồ hẳn đi, nhưng tâm trí anh vẫn tỉnh táo, đầu óc không ngừng xoay chuyển, suy đoán xem nó rốt cuộc là cái gì.
Có thể thứ đó có hơi ấm, hình như là người sống, dưới lòng đất này đâu đâu cũng có người chết, người sống chỉ còn ba người họ và lão Tôn chưa biết sống chết thế nào mà thôi. Sực nhớ đến lão Tôn, Vương Uy chợt thấy hết sức căng thăng. Thân hình kẻ này cũng không cao, rất giống dáng gù gù của lão Tôn, nơi nào có lão Tôn xuất hiện, nơi đó bọn Vương Uy không được sống yên, huống hồ lão còn ra mặt ngay trong tòa kim tự tháp thần bí này.
Người đó bơi trong nước một quãng, rồi bất ngờ nổi lên mặt nước, đẩy Vương Uy lên bờ, bản thân cũng bò lên theo. Miệng mũi Vương Uy đau rát, mắt không mở ra nổi, anh há hốc miệng định nôn nước trong họng ra, nhưng gắng mấy vẫn không nôn ra nổi.
Người đó đặt Vương Uy nằm thẳng lên bờ, rồi vỗ vỗ vào lưng anh cho xuôi khí. Vương Uy được vỗ lưng, cuối cùng cũng ọc ra mấy ngụm nước thối, khí độc bị nén trong ngực cũng tan đi, người khỏe khoắn hẳn lên.
Vương Uy vừa lấy lại sức, lập tức trở mình tóm lấy tay kia của kẻ đó, trong tay hắn vẫn còn cầm khẩu súng của Vương Uy, lúc bị hắn kẹp vào nách Vương Uy đã mấy lần đụng phải khẩu súng này rồi.
Người kia vừa ngồi xuống trước mặt Vương Uy, anh liền lấy đầu húc mạnh vào chính giữa ngực hắn. Cú húc này của anh rất mạnh, lại trúng vào ngực, khiến hắn không kịp trở tay, ngã lăn ra đất. Anh thừa cơ nhảy lên người hắn hai chân ghì lấy đầu gối hắn, hai tay bóp cổ đối phương.
Người kia nằm dưới Vương Uy, giãy giụa một hồi, rồi từ từ đuối sức, không cục cựa gì được nữa. Vương Uy nới lỏng tay bóp cổ, hạ giọng hỏi:
– Mày là ai?
Người kia ho sặc lên một hồi mới hắng giọng đáp:
– Chỉ… chỉ huy, tôi là… Nhị Rỗ đây… mà…
Vừa nghe thấy giọng Nhị Rỗ, Vương Uy lập tức buông ngay tay ra. Nhị Rỗ ho sặc sụa một lúc mới nói năng bình thường lại được. Vương Uy châm đuốc lên, thấy Nhị Rỗ nằm ngửa trên mặt đất, mặt mày đỏ có trắng có, chòm râu dê dính bết vào mặt, trông thật thê thảm.
Nhị Rỗ thở hắt ra, hào hển nói:
– Chỉ huy đúng là… thân thủ nhanh quá…
Vương Uy vỗ vỗ vào người Nhị Rỗ:
– Anh giả thần giả quỷ khá quá nhỉ, may mà tôi chưa cho một băng đạn đấy.
Nhị Rỗ nhăn nhó, đáp:
– Tôi ở dưới nước, hễ há miệng ra là nước ộc vào, còn nói gì được nữa?
Vương Uy cứng họng, vội chuyển chủ đề:
– Cô Ngọc đâu rồi?
Nhị Rỗ nói:
– Cô ấy ở trên giữ bè cơ mà? Xuống nước làm gì?
Vương Uy bèn kể lại cho Nhị Rỗ nghe mọi chuyện từ sau khi gã nhảy xuống nước, gã cũng lấy làm kinh ngạc, rõ ràng một người sống sờ sờ như vậy, sao có thể vô cớ mất tích được, huống hồ cô ta còn là cướp biển.
Nhị Rỗ nói:
– Tôi đoán cái thứ lạnh buốt mà chỉ huy bảo là xác tên lính nhà Thanh, trước khi anh bơi vào hang, tôi còn giáp mặt với nó. Nó chạy cực nhanh, thoáng cái đã va vào tôi làm tắt cả đuốc, rồi mất hút.
Vương Uy lẩm bẩm:
– Người nó lạnh ngắt, nhưng lại có thể chảy máu, rốt cuộc là người hay thây ma đây?
Nhị Rỗ lắc đầu
– Phải bắt được nó, hỏi cho rõ mói biết được.
Vương Uy đứng dậy, soi đuốc nhìn quanh một vòng, họ đang đứng bên mép nước, giữa một vùng trống trải, dưới chân là nền đá lát, vực nước này xem ra là một đầm nước bên trong kim tự tháp, nước không sâu, có thể nhìn thấy đáy.
Nhị Rỗ cũng thắp đuốc lên, hai người đi tiếp một quãng nữa thì thấy dưới nền đá trải đầy da thú, đều là những tấm da hoàn chỉnh, sờ tay vào có cảm giác khô ráo lạ thường.
Vương Uy sờ mãi những tấm da thú rồi lật qua lật lại xem, đoạn nói với Nhị Rỗ:
– Anh xem, sao tôi chưa bao giờ thấy những tấm da này nhỉ, không phải da hổ, cũng không phải là da sư tử hay báo?
Nhị Rỗ ngửi ngửi tấm da, rồi dí ngọn đuốc lại xem cho rõ, nhận xét:
– Tôi thấy cũng chưa chắc, những tấm da này có vẻ rất giống da trên mình những con thú mà chúng ta đụng phải trong sương mù, chỉ huy thử nghĩ xem, có đúng không?
Bấy giờ cả ba người đều không trông rõ được hình dáng của những con thú trong sương mù ấy, chỉ có chút ấn tưọng mơ hồ mà thôi. Hơn nữa, chúng chạv rất nhanh, lại ẩn náu trong sương mù và bóng tối, chỉ có thể thấy chiếc bóng lướt qua, nhưng thân mình chúng quả thực có màu vàng xám.
Nhị Rỗ đi vòng quanh đống da trên mặt đất, chợt buột miệng nói:
– Chỉ huy xem, hình như trên mặt đất có khắc gì này.
Vương Uy lại gần, quả nhiên thấy trên nền đá có những đường vòng cung, nhưng chỉ lộ ra một phần, đại bộ phận còn lại bị những tấm da che khuất. Vương Uy và Nhị Rỗ dồn những tấm da vào một góc, rồi soi đuốc nhìn, chỉ thấy trên nền đá khắc một tô tem khổng lồ hình một vòng tròn lớn, ở giữa đầy những vòng tròn nhỏ sin sít nhau, đây chẳng phải là thế trận mà những quái vật náu mình trong sương mù bày ra hay sao?
Hai người nhìn nhau, lòng hoang mang như có một lớp sương mù bao phủ, từ bàn tay pho tượng đất đến Thần Thú đại điện, rồi lại đến bức tô tem, thế trận thần bí này rốt cuộc có ý nghĩa gì? Tại sao ở những nơi ly kỳ này lại có thể xuất hiện một thế trận như vậy?
Nhị Rỗ cầm hai tấm da lên, lật đi lật lại xem kỹ, đoạn nói:
– Mẹ kiếp, lại còn là cả tấm da nguyên vẹn nữa chứ, móng vuốt lẫn đầu đều đủ hết.
Vương Uy tái mặt, ngay từ đầu, anh đã để ý thấy những tấm da này đều còn nguyên vẹn, thậm chí những tay lột da giỏi đến đâu cũng không thể lột được hoàn mỹ như vậy, trong đầu anh chợt thoáng một ý nghĩ, phải chăng những tấm da này do những thứ ẩn mình trong sương mù kia tự lột ra? Chúng tự lột da mình ư?
Nhị Rỗ cũng nghĩ tới điểm này, buột miệng:
– Bức họa miêu tả cảnh lột da trong quan tài đã được nghiệm chứng trên mấy con quái vật đó rồi đấy thôi, đây toàn là những tấm da tự lột cả, nếu không đâu thể lột được hoàn chỉnh như vậy.
Nhị Rỗ đã nói trúng ý Vương Uy đang nghĩ, bức tranh kỳ dị đã để lại một bóng đen trong tâm lý hai người, nhưng những tấm da sờ sờ trước mắt càng khiến họ lạnh cả xương sống, tim như bị thứ gì siết lại. Những con quái vật kia có thể lột da để trường sinh bất tử, còn con người thì sao? Thomas và Mã Văn Ninh đến đây là để tìm kiếm thuật lột xác hòng trường sinh bất lão, nếu họ quả thật đã nắm được kỹ thuật này, phải chăng họ vẫn đang sống dưới lòng đất sâu?
Vương Uy nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch, kiếp này anh thân mang dị thuật, lòng ôm hoài bão dấn thân báo quốc mà gác bỏ bút nghiên, chinh chiến ở miền Xuyên Trung hơn chục năm, kiến thức và sự từng trải của anh người bình thường khó mà bì nổi. Nhưng những gì gặp phải trong thung lũng lớn thời tiền sử tại núi Đường Cổ Lạp đã khiến nhận thức của anh về thế giới thay đổi hoàn toàn, phương pháp lột da để được trường sinh này lại càng khiến anh ghê sợ hơn.
Anh và Nhị Rỗ đứng ngay giữa trung tâm hình tô tem, tâm trạng nặng nề, tay chân nặng như đeo đá. Nếu nơi này thật sự quái gở như vậy, bọn họ tiếp tục đi về phía trước, liệu sẽ gặp thêm những sự việc rùng rợn gì nữa? Họ không dám tưởng tượng.
Đằng trước tô tem là một bức tường đá ngả vào phía trong, nơi tiếp giáp giữa bức tường này với bức tường bên hông có một cái lỗ, nhìn vào trong chỉ thấy đen ngòm, Vương Uy và Nhị Rỗ tìm kiếm xung quanh một lượt, nhưng không thấy có gì khác.
Cả hai bèn khom người chui vào lỗ, phía sau cái lỗ đó là một thông đạo chếch xuống phía dưới, bấy giờ cái xác lính Thanh kia sau khi đụng phải Nhị Rỗ liền cắm đầu chạy vào đây, nháy mắt đã mất dạng. Nhị Rỗ thấy lối đi quá hẹp, sợ trúng quỷ kế của nó nên không dám tiến vào. Gã biết Vương Uy thể nào cũng sẽ đuổi theo, nên lại nhảy xuống đầm nước, chờ Vương Uy vào cùng.
Trong thông đạo nồng nặc mùi xác thối, hai người đi được một đoạn thì thông đạo chênh chếch thông thẳng vào trong lòng kim tự tháp, nếu không bám vào hai bên vách tường, rất dễ bị trượt xuống.
Hai người đi thêm một đoạn nữa lại nghe có tiếng chân, rất giống với tiếng chân của họ, từ sâu bên trong lối đi vọng ra, nghe rất mông lung.
Nhị Rỗ nói:
– Lại là cái xác ấy đấy, mẹ kiếp đồ âm hồn bất tán, cứ bám riết lấy chúng ta. Đi một lúc lâu thế rồi, sao vẫn chưa được xa mấy nhỉ?
Vương Uy nói:
– Ở đây nhiều chuyện kỳ quái lắm, chúng ta phải cẩn thận mới được, chưa chắc đã là cái xác kia đâu.
Đi một hồi lâu, hai người vẫn nghe thấy âm thanh dai dẳng ấy, tận cùng lối đi là một cánh cửa đá, âm thanh ấy phát ra từ bên trong cánh cửa này.
Hai người chuẩn bị sẵn sàng, rồi tung cửa xông thẳng vào trong, chỉ thấy sau ô cửa đá là một mộ thất rất rộng, nhìn không thấy vách tường và trần mộ, xung quanh là bóng tối mênh mông, sâu trong bóng tối lại vang lên tiếng chân, nhưng lần này rất khẽ khàng.
Nhị Rỗ nổi giận, giơ súng lên toan lia một loạt đạn về phía âm thanh kia nhưng Vương Uy lôi gã lại, lớn tiếng quát vào bóng tối:
– Mày là người hay ma đấy? Cứ nấp nấp nom nom như vậy còn ra thể thống gì nữa?
Trong bóng tối chợt lóe lên ánh đèn, có điều ngọn đèn ấy ở trong góc tối, xa trông cứ mờ mờ ảo ảo. Vương Uy và Nhị Rỗ vội tới gần, nào ngờ chừng mười mét phía trước là một vực sâu, cắt ngang qua trung tâm mộ thất, ánh đèn ở tít phía bờ vực bên kia.
Hai bờ vực cách nhau hơn hai mươi mét, cả hai nằm rạp người trên một tảng đá bên bờ vực, thấy một ngọn đèn bão đặt trên tảng đá đối diện bên kia. Dưới ngọn đèn ló ra một mái đầu đội nón chóp của lính nhà Thanh sùm sụp che khuất cả gương mặt, kẻ đó đang dùng tay che mắt nhìn sang bên này.
Vương Uy lên tiếng:
– Mày thử nói xem, mày là người hay là ma?
Một lúc lâu sau, giọng khàn khàn của cái xác lính nhà Thanh mới cất lên:
– Tôi là người, ở đây chỉ còn một mình tôi là người sống thôi.
Câu nói của tên lính nhà Thanh khiến hai người nhẹ nhõm hẳn, nhưng ngay sau đó họ lại nghi ngờ hỏi:
– Mày có biết mày đã sống dưới lòng đất này bao lâu rồi không? Ở dưới này mày ăn gì, uống gì?
Tên lính nhà Thanh trả lời:
– Bao lâu thì tôi cũng không biết nữa, tôi theo Thái tử thiếu bảo Thuần thân vương đến vùng núi Đường cổ Lạp từ năm Tuyên Thống thứ ba, lúc ấy còn có một ông tây dẫn đầu, chúng tôi từ thung lũng dưới chân núi tuyết tiến vào, dọc đường gặp nhiều chuyện kỳ dị, đã chết rất nhiều người. Về sau Thuần thân vương lệnh cho chúng tôi hạ trại, xây một tòa tháp lớn dưới nước.
Vương Uy và Nhị Rỗ nghe tên lính nhà Thanh nói, mới từ từ lần ra đầu mối cho nhiều nghi vấn trong lòng. Khi Vương Uy bị rắn cắn, anh lia con rắn trúng vào một ngọn tháp băng khiến nó đổ sụp, dưới chân ngọn tháp ấy có mai táng một viên quan nhất phẩm, chắc hẳn đó là Thái tử thiếu bảo Thuần thân vương mà tên lính kia nói. Nhưng thật không ngờ, chẳng những Mã Văn Ninh xây kim tự tháp, mà ngay cả một nghìn quân do Thomas đem đến đây cũng xây kim tự tháp, bọn họ xây thứ đó để làm gì?
Nhị Rỗ nói:
– Này, mày có biết ông tây ấy đưa chúng mày đến đây xây kim tự tháp làm gì không?
Phía bên kia im lặng một lúc rồi mói chậm rãi nói:
-Ông bảo cái này gọi là kim tự tháp à? Chúng tôi là người dưới, họ bắt làm thì chúng tôi làm, còn thì có được biết gì đâu. Ở đây khắp nơi đều tối om om, chúng tôi cũng không biết mình đã làm bao nhiêu ngày đêm nữa, các anh em xuống dưới này thường hay đau ốm, hơn nữa dưới lòng đất lại có nhiều chuyện kỳ quái, không cẩn thận là chết người như bỡn. Chúng tôi làm việc ở đây không biết đã bao lâu, bỗng có một bọn người ở ngoài xông vào, không hỏi han gì cả, cứ thấy người là giết. Vũ khí của họ rất lợi hại, chúng tôi yếu thế hơn nên chết nhiều lắm. Nhưng dưới trướng Thuần thân vương có cao nhân, hơn nữa chúng tôi ở dưới lòng đất cũng đã lâu, thông thạo địa hình, bọn người kia dần dà không đánh lại được chúng tôi. Hai bên đánh nhau không biết bao lâu, cho đến một hôm, trong một trận đánh giữa rừng tháp băng, đối phương vây chặt chúng tôi, nhất tề dùng hỏa lực thật mạnh, phe chúng tôi chết quá nửa, đành rút lui về cố thủ trong tháp đá, tháp đá tức là cái mà các ông gọi là kim tự tháp ấy. Đối phương thừa thắng truy sát, nhưng Thuần thân vương đã giăng sẵn trận thế xung quanh chiến trường, ngăn cản được một cánh quân địch, những kẻ còn lại đuổi kịp chúng tôi, bèn thẳng tay chém giết, chỉ còn lại chưa đến trăm người trốn được vào đường hầm bí mật trong tháp đá. Tòa tháp đá này chúng tôi chỉ góp công xây dựng một phần, còn phần chính của nó ở dưới nước, nghe nói là do người xưa dựng nên. Chúng tôi trốn vào đường hầm bí mật, nhưng trong đó đầy những cơ quan cạm bẫy, gần một trăm người kẻ thì chết, người thì ốm, chết dần chết mòn, hiện giờ chỉ còn lại mình tôi. Về sau tôi lẻn ra khỏi tháp đá, phát hiện kẻ địch đã chết hết, ở dưới lòng đất mênh mông này chỉ còn lại một người sống là tôi.
Nói đến đây, giọng tên lính nhà Thanh chợt ngắt quãng, xen lẫn cả tiếng nức nở, chừng như đang đau xót cho hơn một nghìn anh em bạn bè của hắn.
Nhị Rỗ nói với Vương Uy:
– Lạ thật đấy, Mã Văn Ninh đến xây tháp, Thomas cũng đến xây tháp, vậy tiền nhân là ai? Lẽ nào là Trương Tử Thông, hay từ thời Nguyên, thời Tống đã có người đến đây xây kim tự tháp này trước Trương Tử Thông?
Vương Uy gật đầu, hỏi:
– Chúng mày đông người như vậy, hằng ngày ăn gì?
Tên lính nhà Thanh trả lời:
– Chúng tôi ăn nhiều thứ lắm. Lúc đại quân xuống dưới lòng đất, có mua đủ các thứ đem theo, trữ đủ lương thực. Kẻ địch không ở dưới này lâu bằng chúng tôi, chỉ ít lâu sau bọn chúng đã chết sạch, lương thực mà bọn chúng đem theo còn nhiều hơn cả chúng tôi, vả lại ở dưới này nhiều hang đá, rất nhiều hang đều có những loài dã thú có thể bắt ăn thịt, không lo chết đói.
Vương Uy nửa tin nửa ngờ hỏi:
– Mày có biết trận thế trong Thần Thú đại điện và trên tô tem trong căn phòng đá ngoài thông đạo kia là gì không?
Tên lính nhà Thanh ấp úng:
– Cái đó… cái đó…
Vương Uy thấy có sự lạ, bèn nói nhỏ với Nhị Rỗ:
– Anh xem làm sao để qua được bên kia?
Nhị Rỗ chỉ về phía tay trái, nói:
– Ở kia có bóng đen, có thể là thứ gì đó tương tự cây cầu đá, để tôi đến đấy xem.
Vương Uy gật đầu. Bỗng tên lính nhà Thanh xách đèn chạy vụt vào bóng tối, Nhị Rỗ vội hô to:
– Đuổi theo…
Hai người bật dậy chạy về phía bên trái, được mấy chục mét, quả nhiên thấy một cây cầu đá cong cong bắc qua hai bờ vực, cả hai vội băng qua cầu. Tên lính nhà Thanh chạy rất nhanh, chỉ thấy ngọn đèn trong bóng tối mỗi lúc một nhỏ dần, bỗng phía trước vang lên hai tiếng súng nổ, sau đó là tiếng Dương Hoài Ngọc quát:
– Mày còn định chạy à?
Vương Uy kinh ngạc còn Nhị Rỗ biến sắc mặt, hai người vội xông tới, nào ngờ ngọn đèn bão
choang
một tiếng, rơi vỡ tan tành. Dương Hoài Ngọc nhanh nhẹn đốt đuốc lên, hai người tức tốc chạy lên phía trước nhưng tên lính nhà Thanh đã mất dạng.
Vương Uy hỏi:
– Người đâu rồi?
Dương Hoài Ngọc lạnh lùng đáp:
– Tôi bắn ba phát vào ngực hắn, phát nào cũng trúng chỗ hiểm, vậy mà hắn vẫn hành động như thường, anh bảo hắn có phải là người không?
Nhị Rỗ trợn mắt nhìn Dương Hoài Ngọc, hỏi:
– Tại sao cô lại ở đây?
Dương Hoài Ngọc nhìn xoáy vào Nhị Rỗ, nói:
– Anh còn phải hỏi nữa à? Lúc ấy anh bắn tôi hai phát, tưởng rằng tôi đã chết rồi chứ gì?
Vương Uy ngơ ngác:
– Hai người nói chuyện gì vậy?
Nhị Rỗ nói:
– Sao tôi cứ cảm thấy cô tây rỏm này quái quái thế nào ấy?
Dương Hoài Ngọc phẫn nộ:
– Chính mày, mày định giết người diệt khẩu.
Ngay lúc ấy, bóng tối trước mặt bọn họ bỗng lóe lên một tia sáng, mỗi lúc một sáng hơn. Ba người ngạc nhiên nhìn thấy cách đấy mấy chục mét, sừng sững một tấm bia mộ, vì tấm bia nằm giữa vùng tối nên không biết nó nhô lên từ đâu, cao chừng nào. Trước tấm bia là cửa hang rộng mấy thước, dài mấy trượng, bên trong hắt ra ánh lửa bập bùng, chiếu sáng cả tấm bia.
Trên tấm bia vẽ một người thân thể cao lớn, mặc áo lông vũ nhưng lại có bộ mặt chim. Gương mặt này hết sức quen thuộc, tượng người chim trong rừng rậm Xương Đô, tượng người chim trong cánh rừng ngầm đều có cùng một bộ mặt ấy.
Vương Uy nhìn bộ mặt kia, lòng chợt thấy u ám nặng nề khó tả, dường như mọi ý nghĩ trong đầu đều bị cặp mắt kia nhìn thấu.
Ba người đến trước cửa hang, nhìn ngọn lửa đang cháy bên dưới, khói đen cuồn cuộn bốc lên, Dương Hoài Ngọc nói:
– Đây là núi lửa đang hoạt động.
Ba người đến gần mới phát hiện trước tấm bia có một cỗ quan tài đá, nằm kẹp giữa và tấm bia. Vương Uy đến gần, khẽ đẩy nắp quan tài ra, cùng với tiếng nắp áo quan bị đẩy ra kèn kẹt, trong quan tài chợt vang lên tiếng
tích tích
. Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đồng loạt rọi đuốc vào, thấy bên trong có một cái máy điện báo đã han gỉ, thiết bị phát trên máy đang rung nhè nhẹ, phát ra tiếng
tích tích
.
Dương Hoài Ngọc vừa nghe thấy tiếng máy điện báo, chợt biến sắc:
– Đây là điện mã bí mật của Không quân Hoàng gia Anh.
Vương Uy cau mày, hỏi:
– Điện mã bí mật á, cô có hiểu được không?
Dương Hoài Ngọc cắm bó đuốc vào trong quan tài, lấy ngón tay vẽ vẽ vào lòng bàn tay, một lúc sau cô nói từng chữ một:
– Tôi… là… Tho…mas… cứu… tôi… với…
Vương Uy nhìn vào bên trong quan tài, chợt thấy cạnh cái máy điện báo có một mảnh đồng, bèn nhẹ nhàng cầm lên, đoạn quay sang Nhị Rỗ lấy chuông Kim Cương, rồi học theo cách của Nhị Rỗ, cắm mảnh đồng thứ ba vào bầu chuông, chỉ nghe thấy xạch một tiếng, mảnh đồng đã cắm vào đúng vị trí.
Nhờ ánh lửa, Vương Uy trông thấy những đường nét khắc trên hai lỗ vuông cuối cùng, lòng anh chợt trầm xuống, ngoảnh sang nhìn Nhị Rỗ. Lúc này Nhị Rỗ đang chằm chằm nhìn Dương Hoài Ngọc, thoăn thoắt lấy ngón tay làm bút, dịch từng chữ trong bức điện mật, gã hoàn toàn không để ý thấy Vương Uy đang trố mắt nhìn mình.
Vương Uy chợt thấy Nhị Rỗ giống lão Tôn đến lạ kỳ, từ thân hình, ánh mắt thậm chí cả gương mặt thô bỉ kia nữa.
Vương Uy lại ngoảnh nhìn bức họa cuối cùng trên bầu chuông Kim Cương, đó là hình hai cánh cửa khép hờ, bên trong có một người đang ngoẹo đầu, người này mặc áo lông vũ, giống như người trên tấm bia mộ nhưng khuôn mặt lại là mặt Nhị Rỗ.
Tim Vương Uy đập thình thịch, anh sực hiểu ra ngay. Thì ra Nhị Rỗ trước giờ không phải là người. Vương Uy giấu cái chuông Kim Cương đi, lại nhìn sang Nhị Rỗ, thấy không biết từ lúc nào gã đã đứng phía sau hai người, thọc hai tay vào da đầu, từ từ lột da mình ra.
Mà Dương Hoài Ngọc, lại đang đọc đi đọc lại bức điện mật đã được dịch ra:
– Tôi… là… Tho… mas… cứu… tôi…với…
Lòng Vương Uy nặng trĩu, anh thấy Nhị Rỗ đang chăm chú lột da, không hề để ý đến mình và Dương Hoài Ngọc, bèn ghé tai cô, nói khẽ:
– Cô nhìn đằng sau kìa…
Dương Hoài Ngọc cũng nói khẽ:
– Tôi biết từ lâu rồi, xác tên lính nhà Thanh kia trông gương mặt rất giống Nhị Rỗ.
Vương Uy như bừng tỉnh:
– Sao lại thế được?
Dương Hoài Ngọc nói:
– Lúc tôi với anh lặn xuống nước, hình như có cái gì đó tấn công tôi, nó rất mạnh, bấy giờ anh đang mải lặn xuống, không phát hiện ra tôi bị thứ đó lôi vào bên trong kim tự tháp. Trong lúc cuống quýt, tôi bị sặc nước, rồi bị lôi vào trong một căn phòng bằng đá. Tôi ngất lịm đi một lúc vì ngạt nước. Trong khi ngất tôi mơ hồ cảm thấy có kẻ sờ vào người mình, đầu đau như búa bổ, tôi cố mở mắt ra, thình lình đầu óc bỗng tỉnh táo hẳn, trông thấy Nhị Rỗ đang nằm bò trước mặt, dùng dao toan rạch da đầu tôi, lưỡi dao sắc cứa vào thân thể khiến tôi tỉnh hẳn. Khả năng phản ứng được trui rèn qua bao nhiêu năm lăn lộn giữa gươm đao đã cứu sống tôi, tôi dùng đầu gối đè Nhị Rỗ xuống đất, hắn ta lợi dựng bóng tối bắn tôi hai phát, tôi tránh kịp, chui ngay vào hang. Trong hang tối, tôi phát hiện thấy máy phát điện chạy bằng sức nước rất lớn, lại thấy cả dây điện chằng chịt khắp nơi nữa. E rằng chúng ta không hình dung nổi kim tự tháp này lớn đến mức nào đâu.
Vương Uy ngoảnh nhìn Nhị Rỗ đang tự lột da xé thịt mình, bỗng thấy lạnh cả xương sống, anh nói:
– Cái máy điện báo này có ý nghĩa gì? Lẽ nào ông Thomas còn sống?
Dương Hoài Ngọc nhấc máy điện báo lên, Vương Uy soi đuốc, thấy bên dưới đế máy nối với một sợi dây điện to bằng ngón tay, xuyên qua đáy quan tài.
Thấy Dương Hoài Ngọc im lặng, Vương Uy nói tiếp:
– Nhưng tôi có thể khẳng định cha cô đã chết, hôm đó trong núi tuyết tôi đã chứng kiến tất cả, rõ ràng ông ta đã chết rồi, nếu ông ấy còn sống thì đã đến được thung lũng tuyết, tất nhiên phải ra khỏi vừng núi tuyết từ lâu rồi mới phải.
Dương Hoài Ngọc ngoảnh lại phía sau, chỉ Nhị Rỗ, trầm giọng hỏi:
– Anh không phát hiện thấy hắn có điều gì khác thường à?
Sống lưng Vương Uy lạnh buốt, lúc trò chuyên với Dương Hoài Ngọc anh đều gắng hạ giọng nói nhỏ, chỉ sợ làm kinh động thứ khủng khiếp đằng sau. Về Nhị Rỗ, trong anh luôn có một cảm giác không thể nói nên lời. Đối với kẻ khác, Nhị Rỗ là một thứ vô cùng khủng khiếp, không sao giải thích nổi, nhưng thực sự tồn tại, có điều trong lòng Vương Uy vẫn không có cách nào chấp nhận được, người anh em mười năm sát cánh bên anh sống chết có nhau, lẽ nào lại không phải là người? Cho nên, khi phát hiện Nhị Rỗ không bình thường tuy anh hết sức sợ hãi, sởn cả gai ốc, nhưng vẫn không thể nào nổ súng bắn vào đầu Nhị Rỗ được.
Dương Hoài Ngọc nói:
– Anh nhìn lại hắn ta mà xem.
Vương Uy giật thót mình, ngoảnh nhìn Nhị Rỗ, bất ngờ phát hiện, hai người đã nói chuyện đến mười mấy phút, nhưng động tác lột da đầu của Nhị Rỗ vẫn không thay đổi.
Nói cách khác, gã cứ giữ mãi một động tác, nhưng không hiểu tại sao vẫn không ngừng lột da? Chuyện này rốt cuộc là sao?
Dương Hoài Ngọc nói:
– Trước đây bác Tôn có bảo tôi, thung lũng tuyết này hết sức kỳ lạ, nhưng bác ấy không nhận ra kỳ lạ ở chỗ nào, có điều giờ thì tôi đã phát hiện ra rồi. Thung lũng này kỳ lạ ở chỗ, nó có thể lưu lại một số hình ảnh, ví dụ động tác của Nhị Rỗ lúc này, thật ra không phải là động tác thực sự của hắn mà là cảnh tượng từ mười phút trước hoặc lâu hơn. Nhị Rỗ chúng ta trông thấy đây cũng không phải là Nhị Rỗ hiện tại, mà chỉ là ảo ảnh, là những ảo ảnh được lưu lại thôi, anh có hiểu không?
Vương Uy vã mồ hôi trán, anh cảm thấy những lời của Dương Hoài Ngọc vớ vẩn hết sức, rõ ràng Nhị Rỗ đang đứng sờ sờ trước mặt anh, sao lại nói là ảo ảnh? Nhưng nhìn Dương Hoài Ngọc hạ thấp giọng, gương mặt tái mét, hai mắt giương to, những thớ thịt trên mặt căng ra, rõ ràng cô ta đang tiết lộ với anh một sự thật vô cùng đáng sợ, ánh mắt cô như nói với anh, những lời cô nói đều là thật.
Vương Uy ngập ngừng đưa tay ra đẩy Nhị Rỗ một cái, nào ngờ lại đẩy vào chỗ không người, tay anh xuyên thẳng qua người Nhị Rỗ, đồng thời, lòng anh theo đó trầm xuống.
Dương Hoài Ngọc nói:
– Có thể Nhị Rỗ mà chúng ta trông thấy là người từ một nghìn năm trước, có điều nơi lạ lùng này đã ghi lại hình ảnh của hắn.
Đầu óc Vương Uy như có một luồng điện chạy qua, anh lẩm nhẩm:
– Như vậy, ông Thomas mà tôi thấy trong thung lũng tuyết cũng chưa hẳn là người thật ư? Hoặc cũng chưa hẳn đã là ma, mà chỉ là những ảo ảnh được thung lũng tuyết lưu lại? Sao có thể như thế được?
Dương Hoài Ngọc nói:
– Đó chỉ là kết luận ban đầu của tôi thôi, nếu muốn tìm hiểu bí mật thật sự của thung lũng tuyết, chúng ta phải vào sâu bên trong kim tự tháp, chắc sẽ tìm thấy nhiều thứ nữa.
Vương Uy nhìn khuôn mặt nhợt nhạt của Dương Hoài Ngọc, bỗng giật mình, thốt lên:
– Hỏng rồi…
Sắc mặt Dương Hoài Ngọc càng nhợt nhạt hẳn đi, trong bóng tối, tiếng
tích tích
của máy điện báo như từ một thời không khác vọng về, nghe không thật chút nào. Mặt Vương Uy cũng tái nhợt theo.
Dưong Hoài Ngọc ôm lấy máy điện báo, cắt đứt sợi dây điện sau máy, nhưng những tiếng
tích… tích…
của máy vẫn đều đặn vang lên, chẳng hề ngừng nghỉ. Vương Uy đoán cái máy ấy được nối vào một bình ắc quy, bèn bảo Dương Hoài Ngọc:
– Nói như vậy thì đúng là Nhị Rỗ vẫn đi cùng chúng ta, từ khi anh ta xuất hiện trong thung lũng tuyết đến nay, tôi có vô số lý do có thể chứng minh anh ta đích xác là Nhị Rỗ, nhưng anh ta đã mất tích từ lúc nào? Trước khi ảo ảnh kia xuất hiện, anh ta làm thế nào rời khỏi chúng ta để bỏ đi được?
Dương Hoài Ngọc tái mét mặt, chỉ biết mở to mắt trừng trừng nhìn cái máy điện báo, trán lấm tấm mồ hôi. Lúc Vương Uy nói chuyện với cô, nhìn đồng tử mắt cô mở to như báo hiệu cái máy lại nói thêm điều gì đó, hơn nữa còn là một điều khủng khiếp, Vương Uy nghi hoặc hỏi:
– Có chuyện gì?
Dương Hoài Ngọc máy móc đáp:
– Nội dung của bức điện là, tôi là Nhị Rỗ… tôi là Nhị Rỗ… hãy cứu tôi…
Vương Uy thốt lên:
– Gì cơ? Điện của Nhị Rỗ à?
Vừa buột miệng, anh chợt thấy sống lưng như bị điện giật, gió từ đâu thốc thẳng vào lưng lạnh buốt. Thế giới bên dưới lòng đất này vượt xa mọi tưởng tượng của anh, dù sống đến mấy kiếp, anh cũng không thể tưởng tượng nổi những chuyện đó, huống hồ là thừa nhận?
Vương Uy khàn giọng hỏi:
– Anh ấy… Nhị Rỗ còn nói gì nữa không? Trong máy còn có tin tức gì nữa không?
Dương Hoài Ngọc thận trọng nghe lại hai lượt rồi dịch tiếp, giọng run run:
– Cẩn thận… tượng người chim… tượng người chim… quan tài đá trong mờ… quan tài đá…
Ngay lúc ấy, tiếng
tích… tích…
của cái máy điện báo bỗng ngưng bặt, bóng tối như chìm xuống, lòng hai người như bị vật gì đè nặng, ngạt cả thở. Không còn tiếng
tích tích
của máy điện báo, xung quanh tĩnh lặng đến đáng sợ. Dương Hoài Ngọc vỗ vỗ vào cái máy, cái máy kêu lên
xạch xạch… xạch xạch…
giống như âm thanh của dòng điện công suất lớn, âm thanh ấy thỉnh thoảng lại vang lên vài tiếng.
Dương Hoài Ngọc vỗ liền mấy cái, tiếng phát điện báo mất hẳn, đường dây của Nhị Rỗ hoặc của Thomas cũng bị cắt luôn. Dương Hoài Ngọc lại gắn dây điện vào, nhưng cái máy cũng chỉ
xạch… xạch…
mấy tiếng rồi thôi, không có gì khác.
Trong lòng Vương Uy chợt nảy sinh một cảm giác lạ kỳ, nhân lúc mọi người không chú ý, Nhị Rỗ đã rời bỏ đội ngũ, để rồi lạc tới một nơi vô cùng nguy hiểm, không cách nào thoát thân được. Nơi ấy có thể phát điện báo, còn có thể để Nhị Rỗ nhắc đến quan tài đá và tượng người chim, xem ra bí mật của quan tài đá không chỉ ở đây, mà còn nằm sâu bên dưới mặt nước kia, chờ được tìm ra. Nhưng kỳ lạ nhất là, Nhị Rỗ làm sao hiểu được cách đánh điện báo từ mấy chục năm trước của Không quân Hoàng gia Anh? Theo Vương Uy biết, Nhị Rỗ chỉ giỏi ăn tục nói phét, ngoài ra chẳng biết cái gì hết, huống hồ là thứ máy điện báo mà đến cả Cục Tình báo rung ương còn không có, Nhị Rỗ trình gì mà biết sử dụng chứ?
Dương Hoài Ngọc tắt máy đi, xung quanh lập tức yên tĩnh đến rợn người. Cô nói với Vương Uy:
– Tượng người chim? Quan tài đá?
Vương Uy nói:
– Nguy hiểm mà Nhị Rỗ gặp phải sợ rằng có liên quan đến tượng người chim và quan tài đá. Tôi cảm thấy sự việc càng ngày càng phức tạp. Hôm đó khi chúng tôi ở trong rừng Xưong Đô đã có hai người anh em vô cớ mất tích, về sau phát hiện ra họ rất có khả năng đã chui vào trong quan tài đá, sự việc này không sao giải thích nổi, nên chúng tôi vẫn luôn canh cánh trong lòng. Hồi đó hơn năm chục anh em chúng tôi tiến vào rừng Xương Đô, bây giờ chỉ còn lại hai người, hơn nữa Nhị Rỗ là ma hay là người, còn sống hay chết vẫn chưa biết được. Trong lòng tôi luôn có một tiếng nói không ngừng thì thào rằng, chúng tôi từng người một đi vào con đường chết, không phải vì dọc đường gặp phải các người, mà chính là bởi cái đài thiên táng kia đã gieo rắc tai họa, chắc hẳn chỗ ấy là cấm địa gì đó.
Dương Hoài Ngọc đăm chiêu gật đầu:
– Từ sau khi tụt xuống kim tự tháp Nhị Rỗ mới bắt đầu trở nên không bình thường, chắc hẳn Nhị Rỗ xuất hiện từ đấy về sau chỉ là ảo ảnh của nhiều năm trước lưu lại không phải Nhị Rỗ thật. Nhị Rỗ thật sau khi xuống nước, đã đi theo một hướng khác, nói không chừng chính Nhị Rỗ đã phát hiện ra cái máy điện báo mà bố tôi để lại cũng nên…
Vương Uy nói:
– Bây giờ cũng chỉ có giả thiết đó là hợp lý, nhưng không có manh mối nào về Nhị Rỗ cả, chúng ta phải bắt đầu từ đâu đây?
Dương Hoài Ngọc suy nghĩ giây lát rồi nói:
– Anh Uy có nhớ lúc chúng ta từ dòng sồng ngầm rơi xuống, phát hiện thấy những căn nhà gỗ trong rừng không? Anh và Nhị Rỗ đều nói, cách bài trí trong những căn nhà đó giống hệt những gì đã thấy trong rừng Xương Đô phải không?
Vương Uy gật đầu, nghi hoặc nhìn Dương Hoài Ngọc, không biết cô đang nghĩ gì. Dương Hoài Ngọc gật đầu, nói:
– Vậy là đúng rồi.
Chẳng đợi Dương Hoài Ngọc kịp nói hết, Vương Uy đã hiểu ngay ý của cô, vội nói thêm:
– Cô muốn nói đến tượng người chim trong những căn nhà gỗ kia ư? Những tượng người chim ấy rất có thể có mối liên hệ nào đó với tượng người chim trên đài thiên táng trong rừng Xương Đô, phải không?
Dương Hoài Ngọc gật đầu, nói:
– Anh khẳng định người trong cỗ quan tài đá trong mờ kia là lính của anh chứ?
Vương Uy ngớ ra, xưa nay anh chưa từng hoài nghi về điều ấy. Hôm đó anh loáng thoáng trông thấy trong quan tài đá trong mờ có một người mặc quân phục Tứ Xuyên, nên cho rằng đó là lính của mình, không hề nghĩ còn có khả năng thứ hai nữa hay không? Bây giờ nghĩ lại, thứ năm trong quan tài đá trong mờ ấy chỉ là một mớ hỗn độn, không cách nào nhìn rõ được, rất có thể anh đã hoa mắt nhận lầm. Đúng là cái xác trong quan tài mặc quân phục, nhưng quân phục màu gì, kiểu cách cụ thể ra sao… thì rất khó xác định. Vừa nghĩ vậy, Vương Uy sực hiểu ra mọi chuyện. Trên đài thiên táng họ bị những hình ảnh trước mắt làm cho khiếp sợ, có điều thứ bên trong quan tài đá hình dạng rất mơ hồ, không có cách nào xác định được cụ thể là cái gì. Những căn nhà gỗ dưới lòng sông ngầm và những ngôi nhà trong rừng ở Xương Đô nhất định có quan hệ với nhau, nói như vậy tượng người chim ở hai nơi cũng có quan hệ, vậy thì bên trong tượng người chim trên đài thiên táng ở rừng Xương Đô rất có khả năng chứa thi thể bị xé nát, càng có thể là xác hai người lính của anh.
Bỗng Dương Hoài Ngọc nói:
– Tôi cứ thắc mắc không hiểu những quan tài đá và tượng người chim mà Nhị Rỗ nói liệu có quan hệ gì đến những thứ này hay không, chúng ta xưa nay chưa từng liên hệ những quan tài đá, tượng người chim, và xác người trong tượng người chim với nhau bao giờ cả.
Thấy Vương Uy gật đầu, Dương Hoài Ngọc nói tiếp:
– Anh đã nhìn kỹ cỗ quan tài đá này chưa? Bên trong nó cũng trong mờ đấy, chỉ hiềm quá mức hỗn độn đấy thôi.
Vương Uy vội cúi xuống xem xét, quả nhiên thấy cỗ quan tài có vấn đề, ánh đuốc chiếu vào còn có phản quang. Anh đi đi lại lại trước quan tài đá, đoạn lại vòng ra phía sau bia mộ, bỗng phát hiện mặt sau của tấm bia có hình người, cũng có nghĩa là tấm bia mộ ban đầu là bản khắc đá hình một con người hoàn chỉnh, nhưng đã bị cắt mất một nửa.
Lòng Vương Uy trầm xuống, anh với Dương Hoài Ngọc cùng lúc buột miệng:
– Quan tài đá trong mờ, tượng người chim, người trong tượng người chim…