• 281

Phần II - Chương 1


Số từ: 4648
Dịch giả: Trần Đĩnh
NXB Hà Nội
Phần 2: Những người chưa ló mặt

Ngày thứ Hai, 16 tháng Mười một năm 1959 ấy vẫn là một tiêu bản đẹp của thời tiết săn trĩ trên bình nguyên cao trồng lúa mì miền Tây bang Kansas - một ngày vòm trời sáng huy hoàng, lấp lánh như mica. Những năm trước đây, vào những ngày này, Andy Erhart thường dành suốt nhiều buổi chiều dài săn trĩ ở Trại Lũng Sông, nhà của Herb Clutter, người bạn tốt của ông, và trong các buổi thể thao dã ngoại đó ông hay đi với ba người bạn thân nhất của Clutter: J. E. Dale, bác sĩ thú y, Carl Myers, chủ xưởng chế biến sữa, và Everett Ogburn, doanh nhân. Giống như Erhart, người phụ trách Trạm Thí nghiệm Nông nghiệp của Đại học Kansas, tất cả đều là những công dân nổi tiếng của Garden City.
Hôm nay, bộ tứ bạn săn lâu đời lại tụ tập làm một chuyến dã ngoại quen thuộc nhưng với một tinh thần chẳng hề quen thuộc, với những thiết bị kỳ quặc phi thể thao - tải lau sàn, xô thùng, bàn chải cọ rửa và một giỏ chất đầy những giẻ lẫn chất tẩy mạnh. Họ đều mặc những bộ quần áo cũ kỹ nhất. Vì cảm thấy đây là nghĩa vụ của mình, một bổn phận của người theo đạo Cơ đốc, những người này đã tình nguyện dọn dẹp sạch sẽ một số phòng trong số mười bốn phòng của ngôi nhà chính ở Trại Lũng Sông: những phòng đã có bốn người trong gia đình Clutter bị giết bởi
một hay nhiều kẻ chưa được nhận diện
như biên bản về cái chết của họ đã chứng thực.
Erhart và các bạn lái xe trong im lặng. Một người về sau nhận xét,
Chuyến đi làm cho cả bọn câm nín hết. Sự kỳ lạ của chuyến đi này. Đi ra ngoài đó, nơi chúng tôi xưa nay luôn được đón chào như thế.
Lúc này thì một người cảnh sát tuần tra xa lộ đón chào họ. Người tuần đường, người trông coi cái rào chắn nhà chức trách dựng lên ở lối vào khu trại, vẫy tay cho họ vào, và họ đi thêm nửa dặm nữa, xuống con đường nhỏ trồng du Tàu dẫn vào nhà Clutter.
Alfred Stoecklein, người làm mướn duy nhất sống ở trên đất nhà ông Clutter, đang chờ để nhận họ vào.
Trước tiên họ vào phòng lò sưởi ở tầng hầm, nơi người ta tìm thấy ông Clutter mặc pijama nằm còng queo trên một cái thùng các tông đựng đệm. Từ đây, họ đi vào phòng giải trí trong đó Kenyon đã bị bắn chết. Chiếc đi văng, một kỷ vật Kenyon đã cứu lấy và vá víu lại, còn Nancy thì phủ vải và chồng chất lên nó những chiếc gối có đề chữ, nó bây giờ là một tàn tích vấy đầy máu; giống như cái thùng đựng đệm, cũng cần phải đem đốt. Dần dần, khi đám người dọn dẹp từ dưới tầng hầm tiến đến các phòng ngủ ở tầng ba nơi Nancy và mẹ cô bị giết ngay trên giường, họ đã có được thêm chất đốt cho cuộc hỏa thiêu sắp tới - chăn đệm giường ố máu, một tấm thảm cạnh giường, một con gấu bông búp bê.
Tuy thường ít nói, Alfred Stoecklein hôm đó đã phải nói nhiều khi ông lấy nước nóng, không thì giúp việc dọn dẹp. Ông mong
họ hàng ông Clutter sẽ thôi cằn nhằn và cố hiểu cho
tại sao ông và vợ ông tuy sống chỉ cách nhà Clutter có một trăm mét mà lại
không nghe thấy tí ti gì
- cả đến tiếng vọng khẽ nhất của súng nổ cũng không - về sự thảm khốc đang diễn ra.
Cảnh sát trưởng và tất cả các ông ấy đã lấy dấu tay ở ngoài kia, đã cào bới khắp chung quanh, các ông ấy có nghề, họ thì họ hiểu chuyện đó thế nào. Như thế nào mà chúng tôi lại không nghe thấy ấy à! Vì một lẽ là gió. Gió Tây thổi, như lúc này đây, thì sẽ mang tiếng động đi tới chỗ khác. Một cái nữa, giữa nhà ông ấy và nhà chúng tôi có một cái kho chứa cao lương. Cái kho cũ ấy nó chắn mất nhiều thứ trước khi vọng đến chúng tôi. Với lại các ông có nghĩ tí nào tới chỗ này không? Là cái đứa đã làm cái đó, nó hẳn phải biết
chúng tôi không nghe thấy được. Không thì nó chẳng có dại - bắn những bốn phát súng vào giữa đêm hôm khuya khoắt! Họa có mà điên. Dĩ nhiên, các ông có thể nói rằng chắc nó điên. Mới đi làm cái trò đó chứ. Nhưng ý tôi thì đứa làm cái đó chắc phải tính hoàn hảo đến cùng mọi sự cả rồi. Nó đã biết
. Và có một điều tôi cũng biết. Tôi và bà nhà tôi, chúng tôi đã ngủ đêm cuối cùng ở đây. Chúng tôi sẽ dọn đến cái nhà ở dọc xa lộ.

Đám người làm việc từ trưa tới chiều tối. Đến lúc đốt các thứ nhặt nhạnh được, họ chất chúng lên một chiếc xe tải nhỏ, rồi với Stoecklein cầm lái, họ đi sâu vào dải đồng ở phía Bắc khu trại, một chỗ bằng phẳng đầy màu sắc, tuy chỉ thuần một màu vàng hung hơi óng ánh của những cuống rạ lúa mì vào chập tháng Mười một. Đến đấy, họ dỡ xuống những gối của Nancy, đệm, khăn trải giường, đi văng ở phòng giải trí, làm thành một cái tháp; Stoecklein rảy xăng vào rồi đánh diêm.
Trong những người có mặt, không ai thân với nhà Clutter bằng Andy Erhart. Dịu dàng, quyền cao chức trọng song ân cần, một người thông thái với đôi tay lao động đầy chai và cái cổ sạm nắng, ông là bạn cùng lớp với Herb ở Đại học Bang Kansas.
Chúng tôi là bạn của nhau đã ba chục năm,
sau đó ít lâu ông nói, và trong những thập niên đó Erhart đã chứng kiến người bạn mình từ kỹ sư nông nghiệp ăn lương còm ở hạt tiến lên thành một trong những chủ trại được kính trọng khắp xa gần và được biết tiếng nhất ở vùng này:
Mọi cái Herb có là do tự kiếm ra và nhờ Chúa giúp đỡ. Herb là người khiêm tốn nhưng kiêu hãnh, và ông ấy có quyền kiêu hãnh như thế. Ông ấy đã gây dựng được một gia đình tốt đẹp. Ông ấy đã làm được cho đời mình một số điều.
Nhưng cuộc đời ấy, và những cái ông ấy làm nên cho cuộc đời ấy - làm sao mà lại hóa ra như thế, Erhart thầm nghĩ trong khi nhìn đống lửa cháy lem lém. Làm sao mà nghĩ được rằng chỉ trong một đêm, cố gắng kia, đức hạnh chân chất kia đã bị rút gọn thành làn khói này, làn khói cứ mảnh dần đi khi nó cất lên cao rồi được bầu trời lớn rộng làm tiêu tán mọi sự đón nhận lấy?
Cục Điều tra bang Kansas, một tổ chức cấp bang, sở chỉ huy đóng ở Topeka, có biên chế mười chín thám tử giàu kinh nghiệm phân bố rải rác khắp bang; khi nào có vụ gì xem vẻ vượt khỏi thẩm quyền của nhà chức trách sở tại thì người ta cậy đến những con người này. Người đại diện của Cục tại Garden City, chịu trách nhiệm về một phần đáng kể vùng Tây Kansas, là một người ở bang Kansas thuộc thê hệ thứ tư, bốn mươi bảy tuổi, người dong dỏng đẹp trai, tên gọi là Alvin Adams Dewey. Không thể tránh được việc Earl Robinson, cảnh sát trưởng hạt Finney, đã yêu cầu Al Dewey gánh lấy vụ án Clutter. Không tránh được và thích đáng. Vì Dewey, bản thân nguyên là cảnh sát trưởng hạt Finney (từ năm 1947 đến 1955) và, trước đó là đặc vụ của FBI (giữa năm 1940 và 1945, ông đã phục vụ ở New Orleans, San Antonio, Denver, Miami và San Francisco), về nghiệp vụ là đủ tư cách đối phó với một vụ án nom ngoài thì không có động cơ và không có đầu mối, lắm rắc rối như vụ giết nhà Clutter. Hơn nữa, thái độ của ông với vụ án đã làm cho nó thành ra, như sau này ông nói,
một kiến nghị của cá nhân
. Ông luôn nói ông và vợ ông
thật sự yêu mến Herb và Bonnie
,
gặp nhau mỗi Chủ nhật ở nhà thờ, năng lui tới thăm nhau
, và nói thêm,
Nhưng cho dù tôi không biết gia đình đó và mến họ đến thế, tôi cũng không cảm thấy có gì khác cả. Vì tôi đã thấy một số việc xấu xa, tôi chắc chắn là đã thấy. Nhưng không có cái nào táng tận lương tâm như vụ này. Dù vụ này có sẽ kéo dài đến mấy, có thể là suốt những năm tháng cuối đời tôi, tôi vẫn sẽ biết chuyện gì đã xảy ra ở nhà này: kẻ nào làm và tại sao.

Cuối cùng, tổng cộng mười tám người đã được giao chuyên trách vụ này, trong đó ba điều tra viên có năng lực nhất của KBI (tức Cục Điều tra bang Kansas) - các đặc vụ Harold Nye, Roy Church và Clarence Duntz. Với bộ ba này đến Garden City, Dewey thỏa mãn là đã tập hợp được
một ê kíp mạnh
.
Tốt hơn hết, ai đó hãy coi chừng!
ông nói.
Văn phòng cảnh sát trưởng ở tầng bốn của tòa án hạt Finney, tòa nhà bằng đá và xi măng tọa lạc tại trung tâm một quảng trường đầy cây mà giá không có tòa nhà thì có khi lại hấp dẫn. Garden City xưa vốn là một thị trấn biên giới khá ầm ĩ song nay khá tĩnh lặng. Nhìn chung, cảnh sát trưởng không có mấy việc để làm, văn phòng của ông, ba gian phòng bày biện thưa thớt, thông thường là một nơi im ắng chỉ có dân rảnh việc la cà mới biết đến; bà Edna Richardson, thư ký đon đả của ông, thường có một bình cà phê nhâm nhi suốt và nhiều thì giờ để
buôn dưa lê
. Cho đến khi, như bà phàn nàn,
xảy vụ Clutter
thì nó đã đem tới
tất cả các dân tứ chiếng, tất cả đám báo chí
nhặng xị ồn ào kia
. Vụ án lúc đó khiến các tít bài bay xa đến Chicago ở đằng Tây, tận Denver đằng Đông, đúng là đã dụ đến Garden City cả một đoàn báo chí đáng nể.
Trưa thứ Hai, Dewey tổ chức họp báo ở văn phòng cảnh sát trưởng.
Tôi sẽ nói sự việc chứ không nói giả thuyết,
ông thông báo với các nhà báo tụ tập ở đó.
Bây giờ, việc lớn ở đây, cái phải nhớ là, chúng ta đang phải giải quyết không chỉ một vụ án mạng mà là bốn. Và chúng ta không biết ai trong bốn người là mục tiêu chính. Nạn nhân số một. Đó có thể là Nancy hoặc Kenyon, hoặc ông bố hay bà mẹ. Một vài người nói, đúng, chắc phải là ông Clutter, vì ông ấy bị cắt cổ; ông ấy bị hành hạ nhiều nhất. Nhưng đó là giả thuyết, không phải sự việc. Nếu chúng ta biết gia đình này đã bị giết theo trật tự gì thì cũng sẽ giúp được cho chúng ta nhưng người giám định pháp y lại không thể nói rõ điều đó; ông ấy chỉ biết các vụ giết người đã xảy ra vào một lúc nào đó giữa mười một giờ đêm thứ Bảy và hai giờ sáng Chủ nhật.
Rồi, trả lời câu hỏi, Dewey nói không có, không người đàn bà nào bị
làm nhục về xác thịt
và, không, như hiện tình chúng tôi được biết thì không có gì bị lấy trộm, vâng, ông nghĩ, trong vòng tám tiếng trước khi chết, ông Clutter đã nộp bốn chục nghìn đô la tiền bảo hiểm với mức bồi thường gấp đôi, đấy chỉ là việc
thuần túy ngẫu nhiên
. Nhưng Dewey
chắc như đinh đóng cột
rằng việc này với vụ án không liên quan; làm sao có liên quan được khi mà những người duy nhất hưởng lợi về tài chính là hai người con còn sống của Clutter, người con gái cả, bà Donald Jarchow và cô Berverly Clutter? Vâng, ông bảo các phóng viên, ông cũng có ý kiến của ông về chuyện vụ án mạng này là do một hay nhiều người làm, nhưng lúc này ông không muốn lộ ra.
Đúng là lúc này, về vấn đề này, Dewey còn lưỡng lự. Ông vẫn giữ hai ý - hay để dùng từ của ông, hai
quan niệm
- và trong khi tái dựng vụ án, ông đã phát triển cả
quan niệm sát nhân đơn
lẫn
quan niệm sát nhân kép
. Trong quan niệm thứ nhất, kẻ sát nhân được coi là một người bạn của gia đình, hoặc dù thế nào thì cũng là một người có hiểu biết nhiều hơn mức qua loa về ngôi nhà và những người sống trong đó - một người biết rằng các cửa rất ít khi khóa, rằng ông Clutter ngủ một mình trong phòng ngủ ở tầng trệt, rằng bà Clutter và các con ngủ ở các phòng riêng trên tầng ba. Kẻ này, Dewey tưởng tượng như thế, đi bộ đến ngôi nhà, chắc vào khoảng nửa đêm. Cửa sổ tối om, nhà Clutter ngủ yên, còn về con Teddy, con chó giữ nhà thì, đúng, Teddy nổi tiếng là sợ súng mà. Trông thấy vũ khí của bọn đột nhập, chắc nó đã co rúm lại, rên rỉ bỏ đi. Vào trong nhà, tên sát nhân sờ trước tiên đến điện thoại - một ở trong phòng làm việc của ông Clutter, một ở trong bếp - rồi sau khi cắt đứt dây điện, hắn đã vào phòng ngủ ông Clutter đánh thức ông dậy. Trong tay người khách lạ có súng, ông Clutter buộc phải nghe theo - buộc phải đi với hắn lên tầng ba, tại đó họ đánh thức cả nhà dậy. Rồi, bằng dây thừng và băng dính do tên sát nhân đưa cho, ông Clutter đã trói và dán miệng vợ mình lại, trói con gái lại (cô không bị dán miệng, điều không thể giải thích được) rồi trói họ vào giường của họ. Sau đó, bố và con trai bị giải xuống tầng hầm, ở đấy ông Clutter bị buộc phải dán miệng rồi trói Kenyon vào đi văng ở phòng giải trí. Rồi ông Clutter bị dẫn đến phòng lò sưởi, bị đánh vào đầu, dán miệng rồi bị trói gô cả chân lẫn tay. Bây giờ thả cửa làm gì tùy thích, tên sát nhân đã giết họ lần lượt từng người, lần nào cũng cẩn thận nhặt lại vỏ đạn. Khi làm xong việc, hắn tắt hết đèn rồi bỏ đi.
Có thể chuyện đã xảy ra theo cách đó; chỉ
là có thể. Nhưng Dewey có những ngờ vực:
Nếu Herb nghĩ gia đình mình lâm nguy, nguy đến tính mạng, thì ông ấy đã chiến đấu như một con cọp rồi. Và Herb không yếu - một người khỏe vào loại hàng đầu. Kenyon cũng vậy - cao lớn như bố, một cậu trai vai to bè. Khó lòng hiểu làm thế nào mà một người, có vũ khí hay không, lại khống chế nổi được hai bố con nhà ấy.
Hơn nữa, có lý do để giả định rằng cả bốn đều bị một người trói: trong cả bốn ca đều một kiểu nút buộc như nhau, nút đơn.
Dewey - và đa số đồng nghiệp của ông cũng thế - thiên về giả thiết thứ hai, giả thiết này, ở nhiều mặt chủ yếu đi theo giả thiết thứ nhất, điểm khác quan trọng là tên sát nhân không chỉ hành động một mình mà có một tên tòng phạm giúp hắn khống chế gia đình này, dán băng miệng và trói họ lại. Nhưng, là một giả thuyết, nó cũng có khiếm khuyết. Chẳng hạn, Dewey thấy khó mà hiểu:
Làm thế nào hai cá nhân lại có thể cùng đạt tới trình độ điên rồ như nhau, loại điên rồ tâm thần bệnh hoạn cần phải có để gây ra được một tội ác như thế này.
Ông tiếp tục giải thích:
Cứ cho rằng tên sát nhân là người biết gia đình này, một thành viên của cộng đồng này; cứ cho rằng hắn là người bình thường, bình thường trừ phi hắn có một cái gì đặc biệt, một mối ác cảm điên rồ chống lại nhà Clutter hay với một người nhà Clutter - nhưng hắn tìm đâu ra một người cùng làm, một ai đó đủ điên rồ để giúp hắn? Giả thiết này không vững. Nó vô lý. Nhưng tiếp cận tắp lự vào vấn đề thì cũng lại chẳng cái gì là có lý cả.

Sau cuộc họp báo, Dewey về văn phòng, một gian buồng mà ông cảnh sát trưởng cho ông mượn tạm. Một bàn giấy và hai ghế dựa thẳng. Bàn giấy ngổn ngang những thư mà Dewey hy vọng một ngày nào đó sẽ được đem ra làm tang vật ở tòa án: băng dính cùng những thước dây cởi ở người các nạn nhân ra lúc này đựng trong những túi bằng chất dẻo niêm phong (là tang vật thì chẳng thứ nào có vẻ hứa hẹn vì tất cả đều là những mặt hàng phổ biến, ở Mỹ mua đâu cũng có), và các tấm ảnh một nhiếp ảnh viên cảnh sát chụp hiện trường vụ án - hai mươi tư tấm phóng to, nước ảnh láng bóng chụp cái đầu vỡ toác của ông Clutter, khuôn mặt bị hủy hoại của con trai ông, đôi tay bị trói của Nancy, đôi mắt vẫn mở trừng trừng, dại đi vì cái chết của mẹ cô, vân vân. Những ngày tới đây, Dewey phải xem xét những tấm ảnh này hàng giờ, hy vọng mình có thể
thình lình nhòm ra được một cái gì
, từ đó một chi tiết có ý nghĩa tự nó sẽ cung khai ra:
Giống như các trò ghép hình kia thôi. Những loại câu hỏi, ‘Bạn tìm ra được bao nhiêu giống vật trong bức vẽ này?’ Theo cách nào đó, chính đấy là điều tôi đang cố làm đây. Tìm ra những con vật ẩn núp. Tôi cảm thấy chúng ở đấy - giá như mà tôi nhìn ra chúng.
Như một sự thật hiển nhiên, một trong những tấm ảnh, một bức chụp cận cảnh ông Clutter và cái thùng đựng đệm mà ông nằm đè lên, đã hé ra một điều ngạc nhiên có giá trị: những vết chân, những vết giày bụi bặm đế có khía hình kim cương. Những vết này, không để ý thấy được bằng mắt thường, đã được ghi lại lên trên phim nhựa; quả thật, ánh chớp của đèn chụp để làm nổi bật đường nét đã làm lộ ra chính xác tuyệt vời sự có mặt của chúng. Những vết chân đó, cùng với một vết chân khác tìm thấy cũng ở trên nắp hộp các tông - một dấu hằn rõ ràng, thấm máu của một nửa đế giày Móng Mèo - là những
đầu mối quan trọng
duy nhất mà các điều tra viên có thể công bố. Không phải họ đang
công bố; Dewey và đội của ông đã quyết định giữ bí mật bằng chứng này.
Trong nhiều thứ khác trên bàn làm việc của Dewey có cuốn nhật ký của Nancy Clutter. Ông đã liếc qua, không nhiều hơn, và nay ông đang ngồi xuống để đọc kỹ từng ghi chép hằng ngày, bắt đầu từ sinh nhật lần thứ mười ba của cô và chấm dứt hai tháng sớm hơn sinh nhật thứ mười bảy; những dòng tâm sự không giật gân gì cả của một cô gái thông minh yêu loài vật, thích đọc sách, nấu nướng, khâu vá, khiêu vũ, cưỡi ngựa - một cô gái trinh bạch, xinh đẹp, được nhiều người yêu mến, từng nghĩ
con trai con gái tán tỉnh nhau thì ngộ đấy
nhưng dù sao cũng
chỉ thật sự và thật lòng yêu có Bobby thôi
. Dewey đọc dòng ghi cuối cùng trước. Gồm ba dòng, viết trước khi cô chết một hay hai giờ:
Jolene K. đến và tôi đã chỉ em cách làm bánh anh đào. Tập nhạc với Roxie. Bobby ở đây, chúng tôi xem ti vi. Về lúc mười một giờ.

Cậu Rupp non trẻ, được biết là người cuối cùng nhìn thấy cả gia đình họ còn sống, phải qua một cuộc thẩm vấn dài lê thê, và tuy cậu thẳng thắn kể lại là mình đã qua
đúng một buổi tối bình thường
với nhà Clutter, cậu được báo trước có cuộc hỏi cung thứ hai, lần này người ta sẽ cho kiểm tra cậu bằng máy dò nói dối. Rõ ràng là cảnh sát chưa sẵn sàng loại cậu ra khỏi danh sách những người bị tình nghi. Bản thân Dewey không tin cậu con trai này
có dính dáng tí nào vào đó
; nhưng ở bước đầu cuộc điều tra thì Bobby đúng là người duy nhất có thể bị gán cho một động cơ, dù nhỏ nhặt. Đây đó trong nhật ký, Nancy nhắc tới tình hình mà người ta giả định là đã tạo nên động cơ: ông bố đòi cô và Bobby
cắt đứt
, đừng
gặp nhau quá nhiều
, ông phản đối vì nhà Clutter theo dòng đạo Giám lý còn nhà Rupp thì Cơ đốc giáo - một hoàn cảnh mà theo con mắt ông đã loại bỏ bất cứ hy vọng nào về chuyện cưới xin của cặp trai gái. Nhưng ghi chép trong nhật ký làm cho Dewey phân vân nhất lại không liên quan đến cái ngõ cụt Clutter-Rupp, Giám lý - Cơ đốc. Đúng hơn là nó liên quan tới một con mèo, cái chết bí ẩn của Boobs, con mèo Nancy cưng, con mèo mà, theo như ghi chép trước khi cô chết hai tuần, cô đã tìm thấy
nằm trong nhà kho
, nạn nhân, hay là cô nghĩ thế (mà không nói lý do) của một kẻ đánh bả:
Boobs tội nghiệp, Tôi đã chôn nó tại một nơi đặc biệt.
Đọc tới đây, Dewey cảm thấy đây có thể là
rất quan trọng
. Nếu con mèo dính bả, thì cái việc đánh bả đó có thể là một dạo đầu nho nhỏ, ma quái cho các vụ án mạng hay không? Ông quyết định phải tìm ra
cái chỗ đặc biệt
Nancy chôn con mèo yêu, cho dù có phải cày xới cả cái vùng Trại Lũng Sông rộng rãi này lên.
Trong khi Dewey bận bịu với cuốn nhật ký, những trợ lý chính của ông, các đặc vụ Church, Dunzt, Nye lại đang đảo dọc đảo ngang cả vùng quê, nói chuyện, như Dunzt nói,
với bất cứ ai có thể nói cho chúng tôi bất cứ cái gì
: bộ phận giáo viên của Trường Holcomb, nơi cả Nancy lẫn Kenyon đều là học sinh hạng A, được bằng khen danh dự; những người làm mướn cho Trại Lũng Sông (vào mùa xuân và mùa hè đôi khi lên tới mười tám người nhưng trong lúc nông nhàn hiện nay thì chỉ có Gerald Van Vleet và ba người nữa, trong đó có bà Helm); bạn bè của các nạn nhân, hàng xóm láng giềng; và, rất đặc biệt, họ hàng của họ. Xa gần khắp nơi khoảng hai chục người họ hàng đến dự tang lễ tổ chức và sáng ngày thứ Tư đã có mặt.
Người trẻ nhất trong nhóm KBI, Harold Nye, một người ba mươi tư tuổi, nhỏ bé, hăng hái, với đôi mắt ngờ vực không lúc nào yên và cái mũi, cái cằm, đầu óc sắc nhọn, đã được giao cho cái việc ông gọi là
tế nhị chết rấp
- phỏng vấn họ hàng nhà Clutter:
Việc đó thật khổ tâm cho ta và khổ tâm cho cả họ. Khi đã là chuyện án mạng thì ta không thể kính trọng nỗi đau buồn. Hay sự riêng tư thầm kín. Hay tình cảm cá nhân. Ta phải đặt ra những câu hỏi. Và một số câu bập vào tới ruột gan.
Nhưng không người nào anh thẩm vấn, không câu hỏi nào anh đặt ra (
Tôi đang khám phá bối cảnh tình cảm. Tôi nghĩ câu trả lời có thể là một người phụ nữ khác - một cuộc tình tay ba. Vâng, hãy xem: ông Clutter vẫn còn khá trẻ, rất khỏe mạnh, nhưng vợ ông lại bị nửa tàn phế, bà ngủ riêng...
) đã cho ra thông tin có ích; ngay hai cô con gái sống sót cũng không thể gợi ra một lý do cho vụ án. Tóm lại, Nye chỉ biết thế này:
Trong số mọi người ở khắp thế giới này, gia đình Clutter xem ra là ít có khả năng bị giết nhất.

Cuối ngày, khi ba nhân viên được triệu tập tới văn phòng của Dewey, tình hình hóa ra là Dunzt và Church đã may mắn hơn Nye - chú Nye, như người khác gọi anh. (Người của KBI thịnh dùng biệt hiệu; Dunzt được gọi là Ông Già - không công bằng, vì ông chưa đầy năm chục tuổi, một người lực lưỡng mau chân lẹ tay với bộ mặt to bản của mèo đực, và Church, trạc sáu chục hay hơn, da hồng đỏ nom dáng chuyên nghiệp nhưng
dữ dằn

theo như lời các đồng nghiệp, và
người rút súng nhanh nhất bang Kansas
, thì được gọi là Quăn, bởi lẽ đầu ông bị hói một phần). Cả hai trong quá trình thẩm vấn đã nhặt được
những đầu mối hứa hẹn
.
Chuyện của Dunzt liên quan đến một người bố và một người con trai, những người sẽ được biết đến ở đây với tên John Già và John Trẻ. Mấy năm trước John Già đã có một vụ làm ăn nhỏ với ông Clutter, kết quả là John Già phát bực vì cảm thấy Clutter đã vứt
tiền giả
cho mình. Bây giờ cả John Già lẫn John Trẻ đều
nhậu nhẹt túy lúy
; quả thật, John Trẻ là một gã bợm nhậu hay bị bắt giam. Một ngày không may nọ, bố con nhà John, đầy dũng khí whiskey, đã xuất hiện ở nhà Clutter với ý định
thanh toán cái nợ đó với Herb
. Dịp may của hai người này đã bị khước từ vì ông Clutter, một người kiêng khem chống lại gay gắt việc uống rượu và những kẻ say bét nhè, đã cầm lấy một khẩu súng mà điệu hai bố con ra khỏi địa phận nhà mình. Sự bất nhã này bố con John không tha thứ được; mới một tháng trước đây, John Già đã bảo một người quen:
Mỗi lần nghĩ tới thằng chó đẻ ấy, bàn tay tôi lại bắt đầu giật lên đùng đùng. Tôi đang muốn choảng nó đây.

Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Máu Lạnh.