• 603

Truyện ngắn 9: Say nắng


Số từ: 4007
Dịch giả: Hà Ngọc
Nguồn: tve-4u.org
Ăn trưa xong, từ buồng ăn đèn đóm sáng rực và nóng bức, họ bước ra boong tàu và dừng chân cạnh lan can. Nàng nhắm mắt lại, đưa mu bàn tay lên áp má, thốt ra một tiếng cười giản dị mà duyên dáng, - ở người thiếu phụ nhỏ bé này mọi nét đều rất có duyên, - và nói:
- Hình như em say hay sao ấy... Anh ở đâu ra thế nhỉ? Cách đây ba tiếng đồng hồ thậm chí em không hề biết là có anh trên đời này. Thậm chí em cũng chẳng biết anh từ đâu lên nữa. Từ Xamara(1) ư? Cũng chẳng sao... Đây là em chóng mặt hay chúng ta đang quành đi đâu ấy nhỉ?
Phía trước mặt là tăm tối và những ánh đèn lửa. Từ trong tăm tối một làn gió tuy mạnh nhưng dịu dàng thổi tới phả vào mặt, còn những ánh đèn lửa thì dạt đâu đó sang một bên: con tàu với vẻ đỏm dáng của sông Volga bất thình lình ngoặt theo một con đường vòng cung rộng để áp lại gần một bến nhỏ.
Chàng trung uý nắm lấy tay nàng đưa lên môi. Bàn tay nhỏ nhưng mạnh mẽ ấy toả ra mùi cháy nắng. Vừa sung sướng lại vừa kinh hoàng, con tim chàng lặng đi khi chàng nghĩ rằng chắc hẳn toàn thân nàng đã rắn chắc lại và ngăm đen đi dưới tấm xiêm bằng vải gai này sau một tháng ròng nằm dưới ánh mặt trời phương Nam trên làn cát biển nóng bỏng (nàng bảo là nàng từ Anapa(2) tới). Chàng trung uý lúng búng:
- Ta xuống đi...
- Xuống đâu? - nàng ngạc nhiên hỏi.
- Xuống bên này.
- Để làm gì?
Chàng nín lặng. Nàng lại áp mu bàn tay vào bên má nóng bừng.
- Có mà điên...
- Ta xuống đi, - chàng nhắc lại như ngây như dại. - Anh van em...
- Ôi chao, thôi thì anh muốn làm gì tuỳ anh, -nàng vừa nói vừa quay mặt đi.
Con tàu hết đà và với tiếng va chạm nhẹ nhàng nó đụng vào cầu tàu của cái bến có ánh đèn mờ đục này, khiến hai người suýt ngã xô vào nhau. Một đoạn chão bay vút qua đầu, rồi thấy tàu trôi lùi lại, và thấy nước sủi lên sùng sục, thấy tiếng cầu tầu vang lên... Chàng trung uý chạy bổ đi lấy hành lý.
Một phút sau họ đã đi ngang qua một quầy bán vé mơ màng, bước xuống một bãi cát sâu đến tận ổ trục xe, rồi lặng lẽ ngồi lên một chiếc xe ngựa thuê, không mui, bụi bặm. Việc leo lên dốc núi thoai thoải tưởng chừng là vô tận, giữa những ngọn đèn hiếm hoi và mèo mó, theo một còn đường mịn màng và nhiều cát bụi. Nhưng rồi họ cũng đã lên được đến nơi, xe ngựa đã tiến ra chỗ bằng phẳng và lộc cộc lăn bánh trên mặt đường, và đây là một quảng trường nào đó, có những công sở, một tháp canh cứu hoả, với sự ấm áp và những mùi vị của một huyện ly đêm hè... Người xà ích dừng xe cạnh một cổng vào có đèn sáng mà đằng sau những cánh cổng mở toang là một cầu thang bằng gỗ cũ kỹ dốc ngược. Một người hầu già nua, râu không cạo, mặc chiếc sơ mi cổ chéo màu hồng và chiếc áo ngoài, đỡ lấy hành lý với vẻ không bằng lòng, rồi bước lên bằng đôi giày cũ nát. Họ bước vào một căn buồng lớn, nhưng ngột ngạt kinh khủng do đã bị nắng hun đốt cả một ngày trời, các cửa sổ đều buông rèm trắng và có hai cây nến còn chưa đốt bao giờ ở trên bàn gương. Vừa bước chân vào tới buồng và khi người hầu vừa đóng kín cửa lại, chàng trung uý sôi nổi lao mình lại phía nàng rồi cả hai cùng nghẹt thở và đắm say đến cực độ trong một cái hôn tới mức mà nhiều năm sau họ còn nhớ mãi giây phút này, bởi vì trong suốt đời họ, cả hai đều chưa hề được hưởng một giây phút như thế bao giờ.
Vào mười giờ sáng, - một buổi sáng nắng, nóng, hạnh phúc, với tiếng chuông của các nhà thờ, với cái chợ ở bãi trống trước cửa khách sạn, với mùi cỏ khô, mùi nhựa chưng với lại cái mùi của tất cả cái gì là phức tạp, là thơm tho của một huyện lỵ Nga, -người thiếu phụ vô danh nhỏ nhắn, nhất định không chịu xưng tên và tự gọi đùa minh là một người đẹp không quen biết ấy, đã ra đi. Tuy họ ngủ ít, nhưng sáng ra, bước ra khỏi tấm bình phong ở cạnh giường và sau khi đã rửa ráy, mặc quần áo trong năm phút, nàng lại tươi tắn như hồi mười bảy. Nàng có ngượng ngùng gì không nhỉ? Không, rất ít thôi. Nàng vẫn giản dị, vui tính như trước, và giờ đây đã có suy xét trở lại.
- Không, không, anh yêu ạ, - đáp lại lời chàng xin được cùng đi theo thêm nữa, nàng bảo, - không, anh phải ở lại đến chuyến tàu sau. Nếu chúng ta cùng đi, mọi chuyện sẽ hỏng mất. Em sẽ đâm ra rất khó xử mất thôi. Em lấy danh dự nói với anh rằng em hoàn toàn không phải là con người mà anh có thể nghĩ về em. Cái điều thậm chí giống với việc mới xảy ra, đối với em chưa hề có và sẽ không bao giờ có nữa cả. Hệt như em đã bị rối trí hay sao ấy... Hoặc nói đúng hơn, là cả hai chúng ta đều đã bị một cái gì giống như say nắng ấy...
Và đại thể là chàng trung uý đã dễ dàng thể theo lời nàng. Với tâm tình
nhẹ nhõm và sung sướng, chàng đưa chân nàng ra tận bến tàu, - vừa may chiếc
Máy bay
màu hồng đang sắp rời bến, - và đã hôn nàng trước mặt mọi người ở trên boong và suýt nữa thì không kịp nhảy xuống chiếc cầu tàu mà người ta đã đang rút trở lại.
Chàng quay trở về khách sạn cũng với một tâm trạng nhẹ nhõm, vô tư lự như thế. Thế nhưng có cái gì đó đã khác trước. Căn buồng vắng nàng dường như đã trở nên khác hẳn so với lúc có nàng. Nó vừa có nàng một cách đầy đủ, lại vừa trống trải. Điều đó quả là lạ lùng! vẫn còn thơm ngát mùi nước Ănglê rất dễ chịu của nàng, trong chiếc khay vẫn còn chiếc chén uống dở của nàng, vậy mà nàng không còn nữa... Và trái tim chàng trung uý bỗng thắt lại với niềm âu yếm đến nỗi chàng phải vội lấy bao thuốc ra hút và đi đi lại lại vài lần trong căn buồng.
- Một chuyện phiêu lưu kỳ lạ! - chàng vừa cười vừa nói to lên và cảm thấy nước mắt đã trào lên mi.
-
Em lấy danh dự nói với anh rằng em hoàn toàn không phải là con người mà anh có thể nghĩ về em...
Thế rồi ra đi...
Tấm bình phong đã được gạt sang bên, nhưng giường vẫn chưa được dọn dẹp gì. Và chàng cảm thấy mình lúc này quả là không còn đủ sức để nhìn vào chiếc giường ấy nữa. Chàng bèn kéo bình phong che nó đi, đóng các cửa sổ lại để khỏi nghe tiếng ồn ào của chợ búa và tiếng bánh xe cót két, hạ những tấm rèm trắng sủi bọt lăn tăn trên cửa sổ xuống, đoạn ngồi lên chiếc đi-văng... Phải, thế là
câu chuyện phiêu lưu dọc đường
ấy đã kết thúc rồi! Nàng đã ra đi - và giờ đây nàng đã xa vời, có lẽ đang ngồi trong phòng khách có cửa kính màu trắng hoặc giả là đang ngồi trên boong tàu mà nhìn ra con sông bao la óng ánh dưới ánh nắng, nhìn những bè gỗ ngược chiều, những bãi bồi màu vàng, nơi trời nước xa xăm ngời sáng, nhìn ra toàn bộ cái cảnh bát ngát mênh mang của con sông Volga ấy... Và vĩnh biệt em, vĩnh biệt em đời đời, mãi mãi nhé... Bởi một lẽ giờ đây họ còn gặp nhau vào đâu được nữa? -
Ta không sao có thể, - chàng nghĩ, - ta không sao có thể tự dưng mà đến cái thành phố đó, nơi có chồng nàng, có đứa con gái ba tuổi của nàng, nói chung là toàn bộ gia đình của nàng và toàn bộ cuộc sống thường ngày của nàng
. -Và chàng tưởng chừng như đó là một thành phố đặc biệt, một thành phố cấm, rồi khi nghĩ rằng trong cái thành phố ấy nàng vẫn cứ thế mà sống một cuộc sống lẻ loi và thường hay nhớ đến chàng, nhớ đến cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên, xiết bao ngắn ngủi ấy, trong khi chàng sẽ không giờ được gặp lại nàng nữa, ý nghĩ ấy đã khiến chàng ngỡ ngàng và hết sức ngạc nhiên. Không, không thể thế được! Nếu thế thì quả là kỳ quặc quá, không tự nhiên và chẳng giống sự thật tí nào! - Và chàng cảm thấy đau lòng, cảm thấy toàn bộ cuộc sống sau đây của mình nếu không có nàng thì sẽ vô dụng biết bao nhiêu, đến nỗi chàng đâm ra hoảng sợ vì tuyệt vọng.

Quái lạ thật! - chàng nghĩ bụng, đứng dậy và lại xoay ra đi đi lại lại trong phòng, cố không nhìn vào chiếc giường ở đằng sau tấm bình phong. -Mình làm sao thế này nhỉ? Mà nàng có gì đặc biệt và thật ra thì cái gì đã xảy ra? Quả vậy, hệt như ta bị say nắng thế nào rồi ấy! Và điều chủ yếu là: vắng nàng, giờ đây ta làm thế nào để qua được cả một ngày trời ở cái nơi hẻo lánh này?
.
Chàng vẫn còn nhớ tất cả những gì về nàng, với mọi đặc điểm dù là nhỏ nhất của nàng, nhớ mùi cháy nắng và mùi chiếc xiêm vải gai của nàng, tấm thân chắc nịch của nàng, thanh âm hoạt bát, giản dị và vui vẻ trong giọng nói của nàng... Những khoái cảm về mọi cái đáng yêu của người phụ nữ mà nàng vừa đem lại cho chàng vẫn để lại trong lòng chàng một cảm giác sống động khác thường, nhưng hiện thời điều chủ yếu lại là cái cảm giác thứ hai, hoàn toàn mới lạ, - một cảm giác kỳ dị, khó hiểu, chưa hề có mảy may trong khi họ đang ở bên nhau, một cảm giác thậm chí hôm qua chàng đã không sao tưởng tượng nổi trong khi khơi ra cái việc mà chàng tưởng đó chỉ là một sự làm quen ngộ nghĩnh, một cảm giác mà giờ đây chàng không sao có thể thổ lộ với nàng được!
Nhưng cái chính ở chỗ là, - chàng nghĩ bụng, - sẽ không bao giờ ta có thể thố lộ ra được! Và ta sẽ làm gì, sẽ làm sao để sống qua được cái ngày vô tận này, với những nỗi nhớ nhung ấy, với nỗi đau khổ không sao giải quyết được ấy, trong cái thành phố nhỏ nhoi mà Chúa đã lãng quên ngay trên con sông Volga ngời sáng này mà con tàu màu hồng ấy đã đem nàng đi theo!
Phải kiếm cho được kế thoát thân, dùng cách gì đó khiến mình bị cuốn hút và lãng quên đi, đi biệt một nơi nào đó. Chàng bèn kiên quyết đội chiếc mũ lưỡi trai lên đầu, cầm lấy roi ngựa, lê cựa giày lách cách mà rảo bước trên hành lang trống trải, rồi chạy vội xuống cầu thang dốc ngược mà ra cổng... ừ, nhưng mà ta đi đâu nhỉ? Cạnh cổng, một người xà ích trẻ tuổi, mặc một chiếc áo bành tô chẽn thân rất khéo, đang đứng chờ và điềm nhiên hút xì gà. Chàng trung uý đưa mắt nhìn anh ta với vẻ bối rối và sửng sốt: làm sao lại có thể điềm nhiên ngồi trên ghê giong xe, hút thuốc và nói chung là tỏ ra giản dị, vô tư lự và thản nhiên đến thế được nhỉ? -
Dễ thường chỉ có mình ta bất hạnh một cách đáng sợ như vậy trong cái thành phố này
, - chàng nghĩ bụng và đi ra phía chợ.
Chợ đã sắp tan rồi. Không hiểu vì sao chàng lại dấn bước qua cả những đống phân súc vật còn tươi mà-đi giữa đám xe ngựa tải, đám xe chở dưa chuột, giữa các đống bát đĩa, nồi niêu mới, và các bà nhà quê ngồi trên mặt đất bèn tranh nhau mời chào chàng, cầm các nồi niêu lên gõ côông côông để chứng tỏ là chúng bền tốt, còn các ông nhà quê thì khiến chàng điếc cả tai, hét lên với chàng:
Dưa chuột hạng nhất đây, thưa quý ngài!
. Tất cả những cái đó sao ngu xuẩn và kệch cỡm, khiến chàng phải bỏ chợ mà chạy. Chàng đi vào nhà thờ lớn, nơi đây người ta đang cất cao giọng hát một cách vui vẻ và quyết tâm, với ý thức làm tròn bổn phận. Rồi sau chàng đếm bước hồi lâu, đi vòng quanh một khu vườn hoang nhỏ bé và nóng bức trên một vách núi, trông xuống mặt nước bao la bát ngát sáng ngời như thép của con sông... Những cầu vai và cúc áo trên chiếc áo kín cổ của chàng nóng bỏng lên đến nổi không sao sờ vào chúng được. Bên trong vành mũ lưỡi trai đã đẫm mồ hôi, mặt nóng bừng khi trở về khách sạn, chàng khoan khoái bước vào một phòng ăn lớn, mát và vắng vẻ ở tầng dưới, khoan khoái cất chiếc mũ lưỡi trai ra mà ngồi vào một chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ mở toang tuy vẫn còn hơi nóng phả vào nhưng đã có gió phảng phất, và chàng gọi một món cá chua có ướp đá... Mọi việc đều tốt đẹp cả, tất thảy đều hạnh phúc vô ngần và cực kỳ vui vẻ. Dù là trong cảnh oi nồng ấy, giữa tất cả mọi mùi vị chợ búa ấy, trong toàn bộ cái thành phố không quen biết này và trong cái khách sạn huyện lỵ cũ kỹ này vẫn có niềm vui kia. Thế nhưng trái tim chàng lại như vỡ vụn ra. Chàng uống liền mấy cốc vodka, nhắm với dưa chuột muối nhạt và rau thìa là, và cảm thấy rằng mình không do dự, có thể chết ngay ngày mai cũng được, ; nếu như có thể dùng một phép lạ nào khiến nàng quay trở lại, cùng nàng chung sống thêm một hôm nay nữa, và chung sống thêm một ngày là chỉ cốt để nói cho nàng hay và dùng cách gì đó chứng minh, thuyết phục cho nàng biết rằng chàng yêu nàng khốn khổ, yêu nàng một cách hoan hỉ đến nhường nào... Chứng minh để làm gì nhỉ? Thuyết phục đế làm gì nhỉ? Chàng chẳng biết để làm gì nữa, nhưng thấy điều đò còn cần thiết hon cả sự sống nữa kia.
- Thần kinh minh căng thẳng quá sức rồi! -chàng vừa nói vừa rót cốc vodka thứ năm.
Chàng đẩy món cá chua ra, gọi cà phê đen đến rồi châm thuốc lá hút và suy nghĩ lao lung: mình làm thế nào bây giờ, làm sao thoát được cái duyên nợ bất thình lình và đột ngột này? Nhưng thoát sao cho nổi, - điều đó chàng đã cảm thấy được một cách quá sinh động. Và rồi chàng bỗng lại vụt đứng dậy, vớ lấy chiếc mũ và cây roi, hỏi xem bưu điện ở đâu rồi hớt hải đi tới đó với dòng điện báo đã sắp sẵn trong đầu:

Từ nay toàn bộ cuộc đời tôi là của em, là thuộc quyền em, vĩnh viễn, cho đền khi xuống mồ.

Nhưng, khi gần đi đến toà nhà cũ có tường dày, là nơi có bưu điện và điện báo, thì chàng thất kinh đứng sững lại: tuy chàng biết thành phố nàng đang ở, biết là nàng có chồng và có đứa con gái ba tuổi, nhưng lại chẳng biết tên, biết họ nàng là gì cả! Hôm qua chàng đã mấy lần hỏi nàng về chuyện đó trong bữa ăn và khi ở khách sạn, lần nào nàng cũng chỉ cười mà bảo rằng:
- Thế anh cần biết em là ai và tên em là gi, để làm gì nhỉ?
Ở góc phố, cạnh bưu điện có một tủ kính trưng bày ảnh. Chàng nhìn hồi lâu vào bức chân dung lớn của một quân nhân nào đó đeo những ngù vai rậm rịt, mắt lồi, trán thấp, có những chòm râu má đẹp lạ lùng, ngực rộng cực kỳ và đeo đầy huân chương... Sao mọi việc bình thường hàng ngày ấy nó hoang dã và đáng sợ thế, một khi con tim đã bị trúng thương, - phải rồi, trúng thương, giờ đây chàng đã bắt đầu hiểu được điều đó, - bởi cơn
say nắng
đáng sợ ấy, bởi mối tình quá ư lớn lao và niềm hạnh phúc quá ư to tát ấy! Chàng đưa mắt nhìn vào đôi vợ chồng mới cưới - một chàng trẻ tuổi mặc áo ngoài dài, đeo cà vạt trắng, đầu hủi cua lởm chởm, người đỗ về phía trước, khoác tay một cô gái đội mạng sa ngày cưới, -rồi lại chuyển sang nhìn vào bức chân dung của một cô tiểu thư mỹ miều, linh lợi nào đó đội lệch một chiếc mũ lưỡi trai của sinh viên... Rồi sau, do mệt
mỏi vì lòng thèm muốn day dứt với tất cả những người không đau khổ mà minh không quen biết ấy, chàng quay ra nhìn dọc theo đường phố với tâm trạng căng thẳng:
- Đi đâu bây giờ? Làm gì bây giờ?
Đường phố hoàn toàn trống trải. Ngôi nhà nào cũng như ngôi nhà nào, tất cả đều trắng, hai tầng, đều của các thương nhân, có vườn rộng, và tưởng chừng như chẳng có ma nào trong đó, một lớp bụi dày phủ trắng mặt đường: và tất thảy đều chói chang, đều chan hoà một ánh nắng gay gắt, nung nấu và tươi vui nữa, nhưng ở đây cái ánh nắng ấy lại dường như vô chủ đích. Đường phố dâng cao lên ở đằng xa, rồi gù lưng xuống mà tựa vào một khoảng lưng trời quang mây, xam xám, có ánh nắng phản chiếu vào. Ở đó có cái gì như cảnh miền Nam, hao hao như Xevaxtopol, Kerts... và Anapa(3). Đấy mới là điều đặc biệt khó chịu. Và chàng trung uý cúi gục đầu, mắt nheo lại vì ánh sáng, chăm chú nhìn xuống dưới chân mình, lảo đảo quay bước trở lại, vừa đi vừa va vấp, cựa giày nọ ríu vào cựa giày kia.
Trở về đến khách sạn, chàng mệt nhoài hệt như vừa trải qua một chặng đường lớn lao ở tận Turkestan, Sahara(4). Thu hết tàn lực, chàng bước vào
căn buồng lớn và trống trải của mình. Căn buồng đã được dọn dẹp và đã mất hết những vết tích cuối cùng của nàng, - duy chỉ cỏ một chiếc trâm cài đầu nàng bỏ quên là còn nằm trên chiếc bàn nhỏ ở đầu giường! Chàng cởi bỏ áo ngoài và soi mình trong gương: khuôn mặt chàng, - một bộ mặt sĩ quan bình thường, sạm đi vì cháy nắng, với bộ ria đã nhạt màu, bạc phếch ra vì ánh mặt trời, với cặp mắt vốn trắng xanh nhưng do dại nắng nên dường như càng trắng thêm, - khuôn mặt ấy giờ đây đã mang vẻ bị kích động, điên dại đi, còn trong tấm sơ mi trắng, mỏng, cổ cồn đứng thẳng thì lại có vẻ gì non trẻ nhưng bất hạnh sâu sắc. Chàng nằm ngửa lên giường, đôi ủng bụi bặm vắt sang một bên. Các cửa sổ đều mở và đều buông rèm, làn gió nhẹ chốc chốc lại thổi vào những bức rèm, và phả vào buồng hơi nồng của những mái sắt bị hun nóng và của toàn bộ cái thế giới sáng láng vùng Volga mà giờ đây đã hoàn toàn vắng vẻ và im lìm. Chàng nằm đút hai bàn tay xuống dưới gáy, đăm đăm nhìn ra phía trước mặt. Rồi sau chàng nghiến chặt răng, khép đôi mí mắt lại và cảm thấy lệ trào ra và lăn trên má. Cuối củng chàng đã thiếp đi và khi lại mở mắt ra thì thấy đằng sau rèm mặt trời buổi chiều đã nhuốm một ánh vàng phơn phớt đỏ. Gió đã lặng, căn buồng ngột ngạt và khô, khác nào trong một lò sấy... Và khi nhớ lại ngày hôm qua và buổi sáng nay, chàng thấy hệt như chúng đã qua đi cách đây tới mười năm rồi vậy.
Chàng thong thả cất mình dậy, thong thả rửa mặt, kẻo rèm lên, điện thoại gọi đưa xamovar và giấy thanh toán lên, đoạn ngồi uống trà với chanh hồi lâu. Rồi chàng ra lệnh gọi người xà ích đến, mang đồ đạc ra, và khi bước lên chiếc xe ngựa, ngồi vào chiếc đệm ghế hung hung đỏ đã bạc màu, chàng đã cho người hầu tới cả năm rúp.
- Thưa quý ông, hình như chính tôi đã chở ngài đến đây hồi đêm! - người xà ích cầm lấy dây cương vui vẻ nói.
Khi xuống đến bên, trên sông Volga đã biếc lên một đêm xanh mùa hạ và có nhiều đốm sáng đủ loại màu rải rác trên sông, và đã thấy cả những đốm sáng treo trên những cột của một con tàu đang chạy tới.
- Tôi đã đưa ngài đến vừa đúng giờ đấy ạ! -người xà ích nói với vẻ nịnh bợ.
Chàng trung uý cũng cho bác ta năm rúp, lấy vé rồi bước ra bến... Cũng như hôm qua, lại có tiếng va chạm nhẹ nhàng vào bờ và lại thấy hơi chóng mặt vì tàu chòng chành dưới chân, rồi đoạn chão bay vút qua, tiếng nước sủi sùng sục tuôn về phía trước dưới những chiếc bánh guồng của con tàu đang hơi lùi lại phía sau... Và người ta cảm thấy có sự đặc biệt ân cần niềm nở và dễ chịu khi thấy số hành khách đông đảo trên một con tàu đã thắp đèn sáng trưng và chỗ nào cũng thấy bốc ra mùi xào nấu này.
Một phút sau tàu đã chạy tiếp, ngược lên phía trên, về phía mà nàng đã ra đi chỉ mới sáng nay.
Bóng hoàng hôn tăm tối của mùa hạ đã dần tắt xa xa ả phía trước, mơ màng phản chiếu muôn màu trên con sông đây đó còn lấp loáng ảnh nước gợn lung linh ở đằng xa dưới bóng hoàng hôn, và những đốm lửa rải rác trong bóng tối chung quanh cứ trôi, trôi mãi trả lại phía sau.
Chàng trung uý ngồi dưới một mái che trên boong tàu, cảm thấy mình già đi mất mười tuổi.
Vùng Alps duyên hải, 1925
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Những Lối Đi Dưới Hàng Cây Tăm Tối.