Chương ba mươi mốt
-
Nửa Mặt Trời Vàng
- Chimamanda Ngozi Adichie
- 8042 chữ
- 2020-05-09 01:32:57
Số từ: 8030
Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà
NXB Lao Động
Nguồn: vietmessenger
Olanna nhìn thấy bốn người lính ăn mặc rách rưới khiêng một xác chết trên vai. Nàng choáng váng, sợ hãi. Nàng đứng lại, chắc chắn đó là thi hài của Ugwu, cho đến khi những người lính vội vã im lặng bước qua nàng và nàng chợt nhận ra người chết không thể là Ugwu vì anh ta rất cao. Chân của anh ta nứt nẻ dính đầy bùn; anh ta đi chiến đấu mà không có giày. Olanna trân trối nhìn bóng của những người lính càng lúc càng xa dần và cố gắng cưỡng lại cơn chóng mặt buồn nôn của mình, cố xua đuổi những linh cảm đã che phủ làm mịt mờ trí óc nàng nhiều ngày nay.
Sau đó, nàng nói với Kainene rằng nàng lo sợ cho Ugwu, nàng có cảm giác như mình sắp ngoặt vào một góc đường và sẽ gặp một bi kịch kinh hoàng. Kainene quàng tay ôm nàng bảo đừng lo lắng. Madu đã gửi lời đến tất cả những người chỉ huy để tìm Ugwu; họ sẽ tìm thấy Ugwu ở đâu đó. Nhưng khi Bé By hỏi, "Mẹ Ola ơi, hôm nay Ugwu có về không?", Olanna tưởng tượng là tại vì Bé By cũng có linh cảm không hay. Khi nàng trở lại Umuahia và bà Oji đưa cho nàng một gói đồ do người nào đó đã mang đến, ngay lập tức nàng tự hỏi liệu gói đồ này có chứa đựng tin tức về Ugwu không. Tay của nàng run lẩy bẩy lúc nàng cầm cái gói giấy màu nâu bị nhăn nhúm vì truyền qua tay của quá nhiều người. Rồi nàng nhận ra nét chữ của Mohammed ghi nơi gửi đến Đại học Biafra, nét chữ dài, mềm mại, thanh nhã. Bên trong, nàng mở ra những chiếc khăn tay gấp nếp, quần lót trắng thật mới, mấy bánh xà phòng Lux và sôcôla. Nàng thầm thán phục là chúng có thể đến tay nàng mặc dù được gửi qua Hội chữ thập đỏ. Lá thư của anh đã viết trước đây ba tháng nhưng vẫn còn phảng phất mùi đàn ông quyến rũ. Những câu viết rời rạc đọng lại trong trí nàng.
Anh đã gửi cho em rất nhiều thư và không biết có lá thư nào đến được tay em. Em gái của anh, Hadiza, vừa làm đám cưới hồi tháng Sáu. Anh vẫn luôn nghĩ đến em. Anh chơi polo đã rất tiến bộ. Anh khỏe và hy vọng em với Odenigbo cũng khỏe. Cố gắng hồi âm nhé!
Nàng xoay thanh kẹo sôcôla trong tay, chăm chú nhìn dòng chữ, "Made in Switzerland", mân mê tờ giấy bạc. Rồi bất chợt nàng ném thỏi kẹo vào góc phòng. Lá thư của Mohammed làm nàng điên tiết; nó phỉ báng cuộc sống hiện tại của nàng. Nhưng anh ấy không thể nào biết được họ không có cả muối để ăn, Odenigbo uống kai-kai mỗi ngày, Ugwu bị bắt đi lính và nàng đã bán mái tóc giả của mình. Anh ấy không thể nào biết được chuyện ấy. Tuy thế nàng vẫn cảm thấy giận dữ bởi Mohammed vẫn giữ nguyên lối sống trước chiến tranh; anh ta dám viết cho nàng về trò chơi polo kia đấy.
Bà Oji gõ cửa; Olanna hít một hơi dài tự trấn an trước khi mở cửa và đưa cho bà một bánh xà phòng.
"Cảm ơn cô." Bà Oji cầm bánh xà phòng bằng cả hai tay, đưa lên mũi ngửi. Nhưng cái gói ấy khá to. "Cô chỉ cho tôi có thứ này thôi sao? Không có đồ hộp sao? Hay là cô để dành cho con nhỏ phá hoại Alice?"
"Ngwa, trả lại tôi bánh xà phòng", Olanna nói. "Bà Adanna sẽ biết quý món quà hơn."
Bà Oji vội vã kéo áo lên và nhét bánh xà phòng vào bên trong cái áo ngực đã sờn vải. "Cô hiểu là tôi rất biết ơn mà."
Có tiếng la ó ngoài đường và cả hai cùng ra xem. Một nhóm người mặc quân phục tay cầm mã tấu đang đẩy hai người đàn bà đi tới. Hai người khóc và loạng choạng trên đường; tấm quấn trên người rách bươm, mắt họ đỏ ngầu. "Chúng tôi có tội gì chứ? Chúng tôi từ Ndoni đên đây tị nạn! Chúng tôi chẳng làm gì nên tội cả!"
Mục sư Ambrose chạy ra đường và bắt đầu nguyện cầu, "Đức Chúa Cha, xin tiêu diệt đám phá hoại đã dẫn đường cho kẻ thù! Ngọn Lửa Thánh Thần!"
Có vài người hàng xóm vội vàng chạy ra nhổ nước bọt, ném đá vào lưng hai người đàn bà này. "Đồ phá hoại! Chúa sẽ trừng phạt chúng mày! Đồ phá hoại!"
"Người ta nên buộc lốp xe vào cổ bọn chúng rồi đốt cho chúng cháy rụi", bà Oji nói. "Người ta nên thiêu từng tên một trong đám phá hoại."
Olanna gấp lá thư của Mohammed lại, nghĩ đến hai cái váy bị kéo xệ xuống, bụng của hai người đàn bà phơi ra, không trả lời.
"Cô nên cẩn thận với Alice", bà Oji nói.
"Đừng có động đến Alice. Cô ấy không phải người phá hoại."
"Cô ta là loại người có thể ăn cắp chồng của người khác."
"Cái gì?"
"Cứ mỗi lần cô đi Orlu, cô ta lại ra ngoài ngồi với chồng cô."
Olanna trân trối nhìn bà Oji, ngạc nhiên vì đó là chuyện mà nàng không bao giờ nghĩ đến và cũng bởi Odenigbo chưa bao giờ nói với nàng về việc Alice và chàng có tiếp xúc với nhau khi nàng vắng nhà. Nàng chưa bao giờ thấy hai người nói chuyện với nhau.
Bà Oji trông chừng nàng. "Tôi chỉ nói là cô phải cẩn thận với cô ta. Cho dù cô ta không phải là kẻ phá hoại đi nữa, cô ta cũng chẳng phải là một người đàn bà đức hạnh."
Olanna không biết phải đối đáp như thế nào. Nàng biết là Odenigbo không bao giờ đụng đến một người đàn bà nào khác và đã thầm thuyết phục chính mình về điều này; nàng cũng biết là bà Oji ngấm ngầm ganh ghét với Alice. Tuy nàng chưa từng nghĩ đến điều mà bà Oji vừa nói ra nhưng dẫu sao từ giờ, tâm trí nàng cũng không thể yên được nữa.
"Tôi sẽ cẩn thận", cuối cùng nàng lên tiếng, nở một nụ cười.
Bà Oji có vẻ như muốn nói thêm điều gì nhưng đổi ý rồi quay sang mắng thằng con. "Đi ra khỏi chỗ đó! Mày có ngu không? Ewu awusa! Mày không biết là mày sẽ ho ngay sao?"
Một lúc sau, Olanna lấy một bánh xà phòng và gõ cửa phòng Alice, ba tiếng gõ ngắn liên tiếp để Alice biết đó là nàng. Đôi mắt Alice trông vẫn có vẻ ngái ngủ và buồn hơn thường ngày. "Chị đã về", cô nói. "Còn chị của chị thì sao?"
"Rất khỏe."
"Chị có thấy mấy người đàn bà khốn khổ kia bị làm tình làm tội và bị gọi là kẻ phá hoại?" Cô hỏi và khi Olanna chưa kịp trả lời, cô nói tiếp, "Hôm qua một người đàn ông ở Ogoja cũng bị như thế. Chúng ta không thể đánh đập người ta chỉ vì Nigeria đánh bại chúng ta. Lấy thí dụ một người như tôi, tôi chưa từng được ăn một bữa cho ra hồn suốt hai năm nay. Tôi chưa biết mùi đường. Tôi không hề được uống nước đá lạnh. Tôi lấy đâu ra sức lực để tiếp tay cho kẻ thù?" Alice ra dấu với hai bàn tay nhỏ bé của cô và cái dáng dấp mà trước đây Olanna thấy mỏng manh quý phái của cô ta bỗng nhiên trở thành cái tính kiêu kỳ, ích kỷ, đài các rởm; Alice nói như thể chỉ có một mình cô ta khổ sở vì chiến tranh.
Olanna cho cô ta bánh xà phòng. "Có người gửi cho tôi vài bánh xà phòng."
"Ồ! Thế là tôi gia nhập những người dùng Lux ở Biafra rồi. Cảm ơn chị." Nụ cười làm thay đổi hẳn nét mặt của Alice. Đôi mắt cô ta long lanh. Olanna tự hỏi không biết Odenigbo có nhận thấy cô ta xinh đẹp không. Nàng nhìn nước da vàng của Alice, cái eo nhỏ và chợt nhận ra vẻ đẹp mà có lần nàng ngưỡng mộ bỗng trở thành mối đe dọa với nàng.
"Ngwanu, tôi phải đi nấu bữa trưa cho Bé By rồi", nàng nói rồi quay người bỏ đi.
Chiều hôm ấy, nàng đến thăm bà Muokelu với một bánh xà phòng.
"Có phải đó là cô không? Anya gi! Lâu quá không gặp." Một đường rách trên áo đã làm mặt của vị Lãnh Tụ bị chia làm đôi.
"Trông bà có vẻ khỏe đấy", Olanna nói dối. Bà Muokelu có vẻ hốc hác; thân hình chắc nịch của bà bị sụt cân nhiều, lưng còng hẳn xuống, dường như bà không thể nào đứng thẳng được nữa. Ngay cả lớp lông trên cánh tay của bà cũng rũ rạp xuống.
"Còn cô thì vẫn xinh đẹp như thế", bà Muokelu nói và ôm chầm lấy Olanna lần nữa.
Olanna đưa cho bà bánh xà phòng. Nàng biết bà Muokelu sẽ không đụng đến bất cứ món đồ nào do người Nigeria sản xuất trên đất Nigeria nên nàng nói, "Mẹ tôi gửi từ Anh về".
"Chúa phù hộ cho cô", bà Muokelu nói. "Chồng của cô và Bé By, kwanu?"
"Họ vẫn khỏe."
"Thế còn Ugwu?"
"Cậu ấy bị bắt ra chiến trường rồi."
"Sau cái lần đầu tiên ấy?"
"Vâng."
Bà Muokelu ngừng một chút và chỉ vào nửa mặt trời vàng đang đeo trên cổ. "Cậu ấy sẽ trở về bình an. Phải có người chiến đấu cho lý tưởng."
Gần đây họ rất ít khi gặp nhau vì bà Muokelu bắt đầu đi buôn. Olanna ngồi xuống lắng nghe câu chuyện của bà – về giấc mơ đã phát hiện ra kẻ phá hoại dẫn đến sự thất thủ của Port Harcourt là một sĩ quan Biafra và một một giấc mơ nữa mà trong đó một dibia ở Okija đã cho Lãnh Tụ một loại thuốc cực mạnh để giành lại tất cả những vùng bị chiếm đóng.
"Họ đã bắt đầu đốn Umuahia sẽ thất thủ, okwa ya, đây à?" Bà Muokelu hỏi, nhìn chăm chăm vào mắt Olanna.
"Vâng."
"Nhưng Umuahia sẽ không thất thủ. Mọi người không cần phải sợ hãi và rậm rịch thu xếp đồ đoàn."
Olanna nhún vai; nàng tự hỏi tại sao bà Muokelu lại nhìn nàng chăm chú như thế.
"Người ta nói những người có xe hơi phải lo mua xăng đi thôi." Mắt của bà Muokelu không chớp. "Họ phải cẩn thận, rất cẩn thận, trước khi có người hỏi họ là tại sao họ lại biết là Umuahia sẽ bị mất nếu họ không phải là những kẻ phá hoại."
Olanna chợt nhận ra lúc ấy, bà Muokelu đang tìm cách báo trước cho nàng phải chuẩn bị.
"Vâng. Họ phải cẩn thận lắm." Nàng nói.
Bà Muokelu xoa xoa tay. Có cái gì đó đã thay đổi trong tâm hồn bà; bà đã để cho lòng tin tuột ra khỏi những ngón tay của mình. Biafra sẽ thắng, Olanna biết, bởi vì Biafra phải thắng, nhưng bà Muokelu, một người trong tất cả những người đã tin rằng chuyện mất Umuahia là hiển nhiên và sắp xảy ra đã làm nàng thấy nản lòng. Khi nàng ôm chào bà để chia tay, nàng có cảm giác trống rỗng như là nàng sẽ không bao giờ còn gặp lại bà nữa. Lần đầu tiên, trên đường đi bộ về nhà, nàng thật sự nghĩ đến việc mất Umuahia. Điều này có nghĩa là thắng lợi chưa thể đến. Lãnh thổ của Biafra bị thu hẹp hơn, cũng có nghĩa là họ sẽ phải dọn đi và đến sống tại nhà của Kainene ở Orlu cho tới khi chiến tranh chấm dứt.
Nàng đến cây xăng gần bệnh viện và không ngạc nhiên khi thấy một cái bảng viết ngoằn ngoèo bằng phân: HẾT XĂNG. Họ cũng ngừng không bán xăng của Biafra làm ra, kể từ khi người ta đồn Biafra sắp thất thủ để cho người dân không sợ hãi. Đêm ấy Olanna nói với Odenigbo, "Mình cần mua một ít xăng chợ đen; mình không đủ xăng nếu lỡ có chuyện gì xảy ra". Chàng mù mờ nhận biết lời nói của nàng và lẩm bẩm cái gì đó không rõ về Julius. Chàng vừa mới về từ quán rượu Tanzania và nằm trên giường, vặn radio nho nhỏ. Bên kia tấm ri đô, Bé By đang ngủ say trên nệm.
"Anh nói gì?", nàng hỏi.
"Bây giờ mình không có tiền mua xăng. Giá một bảng Anh cho một thùng bốn lít đấy."
"Người ta mới phát lương cho anh tuần trước. Mình phải biết chắc là chiếc xe sẽ chạy được."
"Anh có nhờ Julius đổi giúp tờ ngân phiếu. Nhưng ông ấy chưa đưa tiền."
Olanna biết ngay đó là lời nói dối. Họ thường đổi chi phiếu lấy tiền với Julius; không bao giờ ông ta chậm hơn một ngày trong việc giao tiền.
"Làm sao mà mua xăng đây?", nàng hỏi.
Chàng không nói gì.
Nàng đi ngang qua chàng rồi ra ngoài. Mặt trăng lấp ló sau đám mây. Ngồi trong bóng tối của sân sau, nàng có thể ngửi thấy mùi rất nặng của loại rượu địa phương rẻ tiền. Nó bám riết lấy chàng, làm mờ mịt con đường chàng đi. Thói quen uống rượu của chàng ở Nsukka – loại rượu đắt tiền màu nâu đỏ – làm trí tuệ chàng sắc bén, thanh lọc suy nghĩ và sự tự tin của chàng, vì thế chàng ngồi trong phòng khách nói, nói, nói và mọi người chỉ việc lắng nghe. Còn tật uống rượu ở đây làm chàng yên lặng. Nó khiến chàng chui vào trong thế giới nội tâm và nhìn ra thế giới bên ngoài bằng cặp mắt mệt mỏi, mù mờ. Điều ấy làm nàng nổi giận.
° ° °
Olanna đổi hết số bảng Anh còn lại để mua xăng của một người đàn ông – người đã dẫn nàng ra một cái nhà cầu ẩm thấp có cả bầy dòi béo ú lúc nhúc bò trên nền. Hắn ta cẩn thận rót xăng từ can của hắn sang can của nàng. Nàng giấu can xăng trong bao đựng bột và giấu nó trong cốp chiếc Opel khi có một chiếc xe jeep mui trần của QUÂN ĐỘI BIAFRA đi vào. Kainene bước ra, một người lính đi theo, đội mũ sắt. Và Olanna biết, ngay lập tức với cảm giác của một tiếng khóc thảm thiết đang nén lại, họ đến vì Ugwu. Chỉ vì Ugwu. Mặt trời đang cháy rực và đầu óc như sôi lên, quay cuồng, nàng nhìn xung quanh để tìm Bé By nhưng không thấy nó. Kainene đến gần, nắm vai nàng thật chặt và nói, "Ejima m, bình tĩnh đi em, Ugwu đã chết". Không phải cái tin này mà là bàn tay xương xẩu đang nắm chặt lấy nàng khiến Olanna còn tỉnh táo.
"Không", nàng nói chậm rãi. Không khí đang bao trùm một cái gì đó hoàn toàn hư ảo, nàng như bừng tỉnh trong giây lát. "Không", nàng nói, lắc đầu.
"Madu cho người cận vệ của mình đưa tin về. Ugwu ra trận với một nhóm công binh, trong chiến dịch tuần trước, họ bị tổn thất nặng nề. Chỉ vài người trở về và Ugwu không có mặt trong nhóm này. Người ta không tìm thấy xác của Ugwu nhưng cũng không có mấy người được tìm thấy xác. Chẳng có xác nào còn nguyên để nhận dạng."
Olanna tiếp tục lắc đầu, chờ sự tỉnh táo trở lại.
"Đến với chị! Đưa cháu theo. Đến và ở lại Orlu." Kainene ôm lấy nàng. Bé By nói gì đó. Có một làn khói mờ bao phủ tất cả cho đến khi nàng nhìn lên và thấy bầu trời. Xanh và trong. Bầu trời kia làm cho hiện tại trở nên xác định, bởi vì nàng chưa bao giờ nhìn thấy bầu trời trong những giấc mơ. Nàng quay người bước mạnh về cuối đường, đến quán rượu Tanzania. Nàng đi qua tấm rèm bẩn thỉu ở cửa và gạt phắt ly rượu của chàng; một thứ nước nhờn nhợt bắn tung tóe trên nền xi măng.
"Anh đã say đủ chưa? Hả?" Nàng hỏi nhỏ. "Ugwo anwugo. Anh có nghe em nói gì không? Ugwu chết rồi."
Odenigbo đứng lên, nhìn nàng. Mắt chàng sưng húp.
"Tiếp tục uống đi", Olanna nói. "Uống, uống và đừng dừng lại nữa. Ugwu chết rồi."
Bà chủ quán rượu đến gần, nói, "Ồ, tôi xin chia buồn, ndo", và có vẻ như muốn ôm nàng nhưng Olanna xô bà ta ra. "Để cho tôi yên", nàng nói. "Để tôi yên!" Chỉ lúc ấy nàng mới nhận ra là Kainene đã đi theo nàng và yên lặng ôm nàng khi nàng la hét với bà chủ quán, bà ấy đang lùi lại.
Những ngày sau đó, bức màn thời gian như xé toang những khoảng trống đen ngòm, Odenigbo không đến quán rượu Tanzania. Chàng tắm cho Bé By, làm garri cho cả nhà, đi làm về sớm. Có một lần chàng có ôm Olanna, muốn hôn nàng nhưng những đụng chạm của chàng làm nàng sởn gai ốc và nàng quay người thoát khỏi vòng tay của chàng. Nàng ra ngoài hàng hiên, ngủ trên chiếu, nơi thỉnh thoảng Ugwu vẫn ngủ ở đó. Nàng không khóc. Chỉ có một lần nàng khóc là sau khi nàng đến nhà Eberechi để báo cho cô biết Ugwu đã chết. Eberechi hét vào mặt nàng, bảo nàng nói dối; có nhiều đêm tiếng hét đó vang dội trong đầu Olanna. Odenigbo báo tin Ugwu chết về gia đình của hắn qua ba người đàn bà đi buôn bên kia chiến tuyến. Và chàng tổ chức một buổi hát tưởng niệm Ugwu ở trong sân. Có vài người trong khu nhà giúp Alice mang cái dương cầm của cô ra sân, đặt gần mấy bụi chuối. "Tôi sẽ đánh đàn nếu quý vị hát", Alice nói với đám phụ nữ tụ tập. Nhưng mỗi khi có người bắt đầu một câu hát, bà Oji lại vỗ tay, đều đặn, mạnh, như đệm vào lời hát và không lâu sau mọi người đều vỗ tay, vì thế Alice không thể đánh đàn. Cô ngồi một cách bất lực cạnh chiếc dương cầm với Bé By trong lòng.
Bài hát đầu tiên rất có khí thế; giọng của bà Adanna cất lên, khản đục và ai oán.
Naba na ndokwa,
Ugwu, naba na ndokwa
O ga-adili gi mma,
Naba na ndokwa.
Odenigbo loạng choạng bước ra khỏi sân trước khi mọi người hát xong, một vẻ thảng thốt trong mắt chàng, như thể chàng không tin được lời hát trong bài Đi bình an, mọi chuyện sẽ tốt lành với em. Olanna nhìn chàng đi. Nàng không hiểu hết cơn phẫn hận, tức bực đang dâng lên trong lòng. Chàng không thể làm gì để ngăn chặn cái chết của Ugwu nhưng những cơn say của chàng có gì đó khiến chàng mang tội đồng lõa. Nàng không còn muốn nói chuyện với chàng, ngủ bên cạnh chàng. Nàng ngủ trên cái chiếu bên ngoài sân và ngay cả việc bị muỗi cắn cũng trở thành một sự an ủi với nàng. Nàng ít khi nói với chàng ngoài những gì thật cần thiết như cho Bé By ăn gì, họ phải làm gì nếu Umuahia thất thủ.
"Mình chỉ ở nhà của Kainene cho đến khi mình tìm được chỗ ở", chàng nói, như thể họ có rất nhiều sự lựa chọn, cũng như chàng không hề nhớ là trước kia chàng từng nói Umuahia sẽ không bị mất, và nàng chẳng buồn trả lời.
Nàng nói với Bé By là Ugwu đã lên thiên dường.
"Nhưng anh ấy sẽ sớm trở lại, mẹ Ola nhỉ?" Bé By hỏi.
Và Olanna trả lời, ừ. Không phải là nàng muốn an ủi Bé By mà chỉ vì hết ngày này sang ngày khác, chính nàng cũng luôn phủ nhận sự thực là Ugwu đã chết. Nàng tự bảo mình rằng Ugwu không chết; có thể hắn đã cận kề cái chết, nhưng không chết. Nàng tập trung tư tưởng để có thể linh cảm được hiện giờ Ugwu đang ở đâu. Bây giờ nàng tắm ở bên ngoài; nhà tắm nhớt nhợt vì rêu và nước tiểu. Mỗi sáng, nàng thức giấc thật sớm, xách một thùng nước ra phía sau. Một buổi sáng nàng thoáng thấy có bóng người lay động và nhận ra mục sư Ambrose đang nhìn trộm. "Mục sư Ambrose!", nàng gọi to và ông ta vội vã bỏ đi. "Ông có biết nhục không? Phải chi ông lo tập trung cầu nguyện để có người đến báo cho tôi biết cái gì đã xảy ra với Ugwu thì hay biết mấy, hơn là đi rình trộm một người đàn bà có chồng đang tắm."
Nàng đến chơi nhà bà Muokelu, hy vọng được nghe bà ta nói mình có khả năng ngoại cảm có thể đoán biết được chuyện an nguy của Ugwu nhưng một người hàng xóm nói gia đình bà Muokelu đã dọn đi. Họ biến mất, không hề nói với ai. Nàng nghe bản tin chiến sự trên đài Biafra thật cẩn thận, như là để tìm kiếm những manh mối về Ugwu trong cái giọng đầy phấn khởi khi đọc những tin đẩy lui kẻ địch và những chiến công hào hùng của chiến sĩ Biafra. Một buổi chiều thứ Bảy, một người đàn ông đội chiếc khăn quàng vấy bẩn bước vào sân. Olanna vội vàng đến gần, chắc mẩm là ông ta mang tin của Ugwu đến.
"Nói đi", nàng nói. "Nói cho tôi nghe Ugwu đang ở đâu."
Người đàn ông có vẻ ngơ ngác. "Dalu. Tôi muốn tìm Alice Njokamma, người gốc Asaba."
"Alice?" Olanna nhìn người đàn ông chòng chọc, như thể cho ông ta một cơ hội để rút lại lời nói, rằng ông ta đi tìm nàng chứ không phải cô ta. "Alice?"
"Vâng, Alice, người Asaba. Tôi là người quen của cô ấy. Nhà tôi ở sát nhà của gia đình cô ấy."
Olanna chỉ cửa phòng Alice. Ông ta đến gõ cửa.
"Cô ấy có ở trong nhà không?" Ông ta hỏi.
Olanna gật đầu, cảm thấy tức tối vì ông ta đã không mang tin của Ugwu đến.
Người đàn ông lại gõ cửa và gọi to, "Tôi là người của gia đình Isioma ở Asaba".
Alice mở cửa và ông ta bước vào. Chỉ một lúc sau, Alice chạy nhanh ra, quăng mình xuống đất, lăn lộn, giãy giụa. Trong nắng chiều, màu da như màu cát của cô nhuộm ánh vàng.
"O gini mere? Cái gì thế?" Hàng xóm hỏi, xúm quanh Alice.
"Tôi ở Asaba và sáng nay tôi nhận được tin tức về làng của chúng tôi", người đàn ông nói. Giọng của ông ta nặng hơn giọng Alice. Ông ta nói được một lúc Olanna mới hiểu ra thứ tiếng Igbo của ông ta. "Kẻ địch chiếm làng tôi mấy tuần trước. Chúng bảo nếu dân địa phương bước ra nói ‘Tất cả đều là anh em trong một nước Nigeria’ thì chúng sẽ cho gạo. Vì thế mọi người rời chỗ ẩn núp và nói ‘Tất cả đều là anh em trong một nước Nigeria’. Rồi chúng bắn, đàn ông, đàn bà, trẻ em. Tất cả mọi người." Người đàn ông ngừng lại. "Tất cả các gia đình ở Njokamma không còn ai sống sót. Không một người nào cả."
Alice lăn lộn vật vã, lia lịa dập đầu xuống đất, rên rỉ. Cát dính đầy tóc cô. Cô nhỏm dậy chạy ra đường nhưng mục sư Ambrose chạy theo giữ lại. Cô giãy giụa vuột ra rồi lại nằm lăn xuống đất. Miệng há hoác, cô gào lên."Tại sao tôi lại còn sống? Bọn nó nên đến đây và giết tôi luôn đi! Tôi nói là chúng nó nên đến đây giết tôi luôn đi!"
Cô ta như được tăng thêm sức mạnh, gan góc hơn nỗi đau đã khiến cô trở nên điên dại. Cô chống lại tất cả những ai muốn ôm giữ cô. Cô lăn lộn trên mặt đất mạnh đến nỗi đá sỏi cứa rách da thịt cô thành vết thương rỉ máu. Hàng xóm ồ lên lắc đầu. Odenigbo ra khỏi phòng, đến gần đỡ cô đứng lên và ôm cô; cô lặng yên rồi bắt đầu khóc, dựa đầu vào vai chàng. Olanna nhìn họ. Có cái gì đó rất quen thuộc trong cách Odenigbo ôm khít khao theo đường cong của Alice. Chàng ôm cô ta dễ dàng, theo cách của một người đã từng ôm cô.
Cuối cùng Alice cũng nằm xuống một cái ghế dài, ngây dại và đau đớn. Thỉnh thoảng cô hét to "Hêy!" và đứng dậy, tay ôm đầu. Odenigbo ngồi cạnh giục cô uống một ít nước. Chàng và người đàn ông Asaba nói bằng giọng thật nhỏ nhẹ làm như chỉ có riêng họ chịu trách nhiệm lo lắng cho cô. Sau đó, chàng bước đến chỗ Olanna đang ngồi ở hiên nhà.
"Em có thể thu xếp hành lý của cô ấy không, nkem?", chàng hỏi. "Ông ta nói có một vài người Asaba ở trong nhà ông ta và ông ta sẽ đưa cô ấy đến ở với họ một thời gian."
Olanna nhìn chàng, mắt ráo hoảnh. "Không", nàng nói.
"Không?"
"Không", nàng nhắc lại, bây giờ to giọng hơn. "Không." Và nàng đứng dậy đi vào trong phòng. Nàng không biết ai thu xếp hành lý cho Alice, có lẽ Odenigbo đã làm việc đó nhưng nàng nghe "Ije oma, đi bình yên", tiếng của hàng xóm, khi Alice và người đàn ông đi vào lúc khá khuya. Olanna ngủ ở ngoài hiên, nằm mơ thấy Alice và Odenigbo trên giường ở Nsukka, mồ hôi của họ đẫm ướt tấm ga trải giường mới giặt của nàng; nàng thức giấc với một sự nghi ngờ sôi sục trong tim và tiếng nổ ầm ào của đạn pháo vang dội bên tai.
"Quân địch đến nơi rồi!" Mục sư Ambrose kêu lên. Ông ta là người đầu tiên chạy ra khỏi sân, mang theo một túi hành lý.
Sân của khu nhà bắt đầu hỗn loạn. Người ta la hét, thu xếp đồ đạc và bỏ chạy. Tiếng pháo nổ đùng đoàng hết đợt này đến đợt khác không ngừng. Chiếc xe của họ không chịu nổ máy. Odenigbo cố thử liên tục. Trên đường đã đầy người tị nạn. Tiếng nổ nghe thật to, thật gần như ở đường Thánh John. Bà Oji đang hò hét ông chồng. Bà Adanna đang năn nỉ Olanna cho bà và mấy đứa con đi chung xe. Olanna nói, "Không, dẫn con bà chạy đi".
Odenigbo vặn ổ khóa, cái xe rên ư ử rồi chết tắc. Khoảnh sân trống vắng. Một người đàn bà đang kéo một con dê bướng bỉnh trên đường, cuối cùng phải bỏ nó lại và vội vàng chạy đi. Odenigbo vặn ổ khóa lần nữa nhưng chiếc xe vẫn chết máy. Olanna có thể cảm thấy mặt đất rung chuyển theo từng tiếng nổ.
Odenigbo vặn chìa khóa, lần nữa, rồi lần nữa. Chiếc xe không chịu khởi động.
"Cho Bé By đi thôi", chàng nói. Mồ hôi ròng ròng chạy xuống chân mày của chàng.
"Cái gì?"
"Anh sẽ đón cả hai khi xe nổ máy."
"Nếu phải đi bộ, mình sẽ đi chung."
Odenigbo cố nổ máy lần nữa. Olanna quay người lại nhìn, ngạc nhiên thấy Bé By rất ngoan, ngồi im đằng sau, bên cạnh tấm nệm của họ đã cuộn tròn lại. Bé By chăm chú nhìn bố, dường như thúc giục cả hai, chàng và chiếc xe, bằng đôi mắt của nó.
Odenigbo bước ra mở mui xe, Olanna cũng bước ra và cho Bé By ra khỏi xe theo. Nàng tự hỏi không biết nên lôi cái gì ra khỏi cốp xe để mang theo và cái gì phải bỏ lại. Khoảnh sân vắng ngắt, trên đường cũng chỉ còn lại một hay hai người. Có tiếng súng nổ đì đùng gần đó. Nàng thấy sợ. Tay nàng run bắn.
"Đi thôi", Olanna nói. "Không còn ai ở Umuahia nữa cả!"
Odenigbo leo vào trong xe, hít một hơi dài rồi vặn chìa khóa. Xe nổ máy. Chàng lái thật nhanh ra ngoại vi Umuahia. Olanna hỏi, "Anh có dính líu gì với Alice không?"
Odenigbo không trả lời, nhìn thẳng về phía trước.
"Anh chưa trả lời câu hỏi, Odenigbo."
"Mba, anh chẳng có gì với Alice cả." Chàng liếc nhìn nàng và lại nhìn thẳng ra đường.
Họ không nói gì với nhau cho đến khi họ tới Orlu, Kainene và Harrison ra mở cửa. Harrison bắt đầu mang đồ trên xe vào nhà.
Kainene ôm Olanna, nhấc Bé By lên và quay sang Odenigbo. "Bộ râu trông hay nhỉ?", nàng nói. "Ta có bắt chước Lãnh Tụ không đấy?"
"Tôi chẳng bao giờ bắt chước ai cả."
"Dĩ nhiên. Tôi quên rằng anh là người rất độc đáo."
Giọng của Kainene có vẻ nặng nề cùng sự căng thẳng bao quanh tất cả mọi người. Olanna có thể cảm thấy bầu không khí ngột ngạt bao trùm căn phòng khi Richard trở lại, ngượng ngùng bắt tay Odenigbo và sau đó, khi họ ngồi ở bàn ăn vài lát khoai luộc do Harrison dọn ra những cái đĩa sứ trên bàn.
"Chúng tôi sẽ ở đây cho đến khi nào chúng tôi tìm được một chỗ để thuê", Odenigbo nhìn Kainene, nói.
Kainene nhìn lại, không chớp mắt, nhướn mày, và nói, "Harrison! Mang một ít dầu cọ cho Chiamaka, cháu tôi."
Harrison vào, đặt một chén dầu cọ trước mặt Bé By. Sau khi ông ta đi rồi, Kainene nói, "Tuần trước ông ta nướng một con chuột đồng cho chúng tôi. Nhưng quý vị có thể tưởng lầm đó là một cái đùi cừu theo cách diễn tả của ông ta".
Olanna bật cười. Điệu cười của Richard đầy vẻ dè dặt. Bé By cũng cười, làm như nó cũng hiểu. Và Odenigbo, không cười, chăm chăm nhìn vào đĩa của mình. Trên đài phát thanh, có bản tin lặp lại bản tuyên ngôn của Ahiara, Lãnh Tụ nói đầy vẻ dứt khoát và kiên định.
Biafra sẽ không phản bội người da đen. Sự chênh lệch không thành vấn đẽ, chúng ta sẽ chiến đấu bằng tất cả sức mạnh của mình cho đến khi người da đen ở bất cứ nơi nào cũng có thể tự hào khẳng định nhà nước cộng hòa này, hãnh diện ngẩng cao đầu và phản kháng, nêu một tấm gương về chủ nghĩa dân tộc của Phi châu…
Richard xin phép được vào trong và khi trở ra, chàng mang theo một chai brandy, ra hiệu với Odenigbo. "Một ký giả Mỹ cho tôi." Odenigbo chăm chăm nhìn chai rượu.
"Đây là brandy", Richard nói, giơ nó lên, làm như Odenigbo không biết vậy. Họ không nói chuyện với nhau kể từ khi Odenigbo lái xe đến nhà chàng mấy năm trước và la mắng chàng. Họ cũng chẳng nói với nhau lời nào sau cái bắt tay.
Odenigbo không đưa tay ra cầm lấy chai rượu.
"Anh có thể uống sherry của Biafra thay vì brandy", Kainene nói. "Có thể nó thích hợp cho lá gan cách mạng rất khỏe của anh."
Odenigbo nhìn nàng và khẽ nhếch mép cười mai mỉa, làm như thể Kainene khiến chàng vừa tức cười vừa bực mình. Chàng đứng dậy. "Tôi không muốn uống brandy. Xin cảm ơn. Tôi cần đi ngủ. Tôi còn có một chặng đường rất dài ở phía trước, bây giờ Bộ Nhân lực đã dọn vào trong rừng rậm."
Olanna nhìn chàng đi vào trong. Nàng không nhìn Richard.
"Bé By, đi ngủ nào", nàng nói.
"Không", Bé By nói, giả vờ nhìn vào cái đĩa đã hết của nó.
"Đi ngay bây giờ", Olanna nói và Bé By đứng dậy.
Trong phòng, Odenigbo vừa cột xong tấm khăn quấn ngang lưng. "Anh định đến cho Bé By đi ngủ", chàng nói. Olanna làm ngơ như không nghe thấy chàng.
"Ngủ ngon, Bé By, ka chi fo", chàng nói.
"Ngủ ngon, bố."
Olanna đặt Bé By xuống nệm, lấy một tấm khăn quấn đắp cho nó, hôn trán và bất thình lình cảm thấy thèm được khóc khi nghĩ đến Ugwu. Hắn có thể sẽ trải chiếu ngủ trong phòng khách.
Odenigbo đến đứng cạnh nàng và nàng muốn lùi lại, không biết chàng muốn làm gì. Chàng sờ vào xương đòn của nàng. "Nhìn xem, em gầy đi nhiều."
Nàng liếc xuống, khá bực bội vì sự đụng chạm đó, ngạc nhiên thấy xương đòn của mình nhô ra; nàng không biết mình đã sụt cân nhiều như thế Nàng không nói gì và trở lại phòng khách. Richard không còn ở đó nữa.
Kainene vẫn còn ngồi ở bàn. "Thế là em và Odenigbo quyết định tìm chỗ ở khác?" Kainene hỏi. "Ngôi nhà tầm thường của chị không đủ tốt hay sao?"
"Tại sao chị lại nghe lời anh ấy? Chúng em chẳng quyết định gì cả. Nếu muốn tìm chỗ khác, anh ấy cứ việc tìm và dọn đến đó ở một mình", Olanna nói.
Kainene nhìn nàng. "Có chuyện gì thế?"
Olanna lắc đầu.
Kainene nhúng một ngón tay vào dầu cọ, đưa lên miệng và hỏi lại. "Ejima m, có chuyện gì thế?"
"Chẳng có gì cả, thật mà. Không có gì khiến em có thể đổ lỗi cho ai đó", Olanna nói, nhìn chai brandy trên bàn. "Em muốn cuộc chiến tranh này kết thúc để anh ấy có thể trở lại con người cũ. Anh ấy đã biến thành một người khác."
"Chúng ta đều tham gia cuộc chiến tranh này, nhưng chúng ta có quyền quyết định xem mình có trở thành một người khác hay không", Kainene nói.
"Anh ấy chỉ nhậu và nhậu, ôi cái thứ rượu rẻ tiền kai-kai. Có đôi lần người ta trả lương cho anh ấy, anh ấy tiêu hết luôn. Em nghĩ là anh ấy ngủ với Alice, một người đàn bà Asaba sống cùng dãy nhà đó. Em không muốn nhìn thấy anh ấy nữa. Em không chịu nổi anh ấy."
"Tốt", Kainene nói.
"Tốt?"
"Đúng, tốt. Có cái gì đó rất thụ động trong cách em yêu anh ta, thật mù quáng, ngay từ đầu em không hề phê phán hay chê bai anh ta. Em cũng không bao giờ thấy là anh ta rất xấu trai", Kainene nói, khẽ cười rồi bật cười phá lên, Olanna chẳng nín được nên cũng cười theo; tuy đó không phải là điều nàng muốn nghe nhưng nghe những lời này, thực tình là nàng cảm thấy dễ chịu hơn.
Buổi sáng, Kainene đưa cho Olanna một lọ kem thoa mặt nhỏ hình quả lê. "Xem này! Có người ra nước ngoài mua cho chị. Kem thoa mặt của chị đã hết từ mấy tháng trước và từ lúc ấy, chị dùng dầu của người Biafra làm, tệ kinh khủng." Olanna ngắm nghía cái lọ màu hồng. Hai người thay phiên nhau chấm kem lên mặt, thật chậm, đầy thích thú và sau đó đến trại tị nạn. Sáng nào họ cũng đi. Gió mới của sa mạc thổi bụi khắp nơi, Bé By nhập vào bọn trẻ con chạy xung quanh với cái bụng trần như đeo những cái vòng màu nâu. Có rất nhiều trẻ con thu nhặt những mảnh vỏ đạn pháo chơi và đổi cho nhau. Khi Bé By mang về hai mảnh pháo răng cưa, Olanna mắng con bé, nhéo tai nó và vứt đi. Nàng ghét phải nghĩ là Bé By đang vui chơi với những mảnh vụn còn lại của cái thứ dùng để giết người. Nhưng Kainene nói với nàng trả lại cho Bé By. Kainene cho Bé By một cái hộp để cất những mảnh đạn. Kainene rủ Bé By gia nhập đám trẻ lớn hơn làm bẫy bắt thằn lằn, học làm sao để biết đan thảm lá cọ và đặt tổ đầy kiến Iddo vào bên trong. Kainene để cho Bé By được cầm con dao găm của một người đàn ông gầy như bộ xương đang diễu hành quanh sân, lầm bầm, "Ngwa, cứ để quân thù đến đây, cứ để chúng đến đây bây giờ". Kainene để Bé By ăn một cái chân thằn lằn.
"Để cho Chiamaka nhìn thấy cuộc đời như nó vốn thế, ejima m", Kainene nói lúc hai người thoa kem buổi sáng. "Em bảo bọc con bé nhiều quá, nó sẽ không biết sự thật về cuộc đời."
"Em chỉ muốn giữ cho nó được an toàn", Olanna nói. Nàng bóp lấy ít kem và bắt đầu thoa lên mặt mình bằng đầu ngón tay.
"Họ cũng che chở cho chúng ta nhiều quá", Kainene nói.
"Bố mẹ?" Olanna hỏi, mặc dù nàng biết.
"Ừ!" Kaihene thoa kem lên mặt bằng lòng bàn tay. "Cũng may mẹ đã đi. Em có thể tưởng tượng là mẹ có thể sống với những thứ như thế này không? Hay là dùng dầu cọ?"
Olanna cười phá lên. Tuy thế, nàng ước Kainene không dùng quá nhiều kem như vậy để có thể dùng lâu hơn, càng lâu càng tốt.
"Tại sao em luôn luôn hăng hái chiều ý bố mẹ thế?" Kainene hỏi.
Olanna đưa tay ngang mặt mình, im lặng một hồi lâu. "Em không biết. Em nghĩ là em thấy tội nghiệp cho bố mẹ."
"Em luôn buồn thương cho những người không cần em phải tỏ lòng thương họ."
Olanna không nói gì bởi vì nàng không biết phải nói những gì. Đây là những chuyện mà nàng thường thảo luận với Odenigbo, song khi mà Kainene nói lên nỗi tức bực, hờn giận với bố mẹ và với nàng lần đầu tiên này, nàng và Odenigbo đã hầu như không nói chuyện với nhau. Chàng đã tìm thấy một quán bar gần đấy; chỉ mới tuần trước, chủ quán đã đến nhà tìm chàng bởi vì chàng chưa trả tiền. Olanna không nói lời nào với chàng sau khi ông chủ quán ra về. Nàng không biết lúc nào chàng đi đến Bộ Nhân lực và lúc nào thì đến quán rượu. Nàng không còn quan tâm đến chàng nữa.
Nàng lo lắng chuyện khác: lo kinh nguyệt của nàng không đều, rất ít khi có và lúc có, nó không còn màu đỏ mà là màu nâu như bùn; lo tóc của Bé By đang rụng nhiều; lo cái đói sẽ cướp mất trí nhớ của trẻ con. Nàng quyết định phải giữ cho trí óc của chúng cho minh mẫn bởi vì suy cho cùng, chúng chính là tương lai của Biafra. Vì thế hằng ngày nàng dạy chúng học dưới gốc cây phượng, cách xa cái mùi thối khủng khiếp đằng sau khu nhà. Nàng bắt chúng nhớ thuộc lòng một câu trong bài thơ và hôm sau chúng quên hết. Chúng đuổi bắt thằn lằn. Chúng ăn garri với nước mỗi ngày một lần thay vì hai lần, do người cung cấp của Kainene không còn đến Mbosi để mua garri được nữa; mọi ngả đường đều đã bị chiếm đóng. Kainene phát động chiến dịch Kế Hoạch Hóa Bữa Ăn Của Bạn và khi nàng gia nhập đám đàn ông, đàn bà, trẻ con đi đánh luống trồng cây, Olanna tự hỏi không biết chị nàng học ở đâu, từ lúc nào cách dùng cuốc. Nhưng đất cũng bị cháy khô. Gió sa mạc làm nứt nẻ môi và chân. Ba đứa trẻ chết cùng một ngày. Cha Marcel làm thánh lễ không có bánh và rượu thánh. Cái bụng của một cô bé tên là Usrenwa bắt đầu phình to lên và Kainene không biết chắc do bệnh thiếu dinh dưỡng hay là có thai, cho đến khi mẹ của con bé tát nó và hỏi, "Ai? Ai làm mày như thế này? Mày gặp cái thằng làm cái trò này với mày ở đâu?". Ông bác sĩ không đến nữa vì không có xăng và có rất nhiều binh sĩ bị thương nặng cần phải được chăm sóc. Giếng cạn. Kainene thường xuyên đến ban Giám đốc ở Ahiara để xin một xe nước nhưng cứ mỗi lần như thế nàng lại trở về với lời hứa mập mờ của ông giám đốc. Mùi hôi thối của những thân thể không được tắm rửa và mùi thịt rữa trong những hố huyệt nông choèn choẹt đằng sau dãy nhà càng lúc càng nồng nặc. Ruồi bâu quanh những vết lở loét trên người trẻ con. Rận và kwalikwata bò khắp nơi; đàn bà thỉnh thoảng kéo mấy tấm khăn quấn của mình để lộ những vết đỏ bị rận cắn xung quanh eo của họ, giống như những nốt phát ban rỉ máu. Đang mùa cam, Kainene bảo họ ăn cam trên cây, mặc dù chúng làm họ bị tiêu chảy, rồi vắt vỏ cam lên quần áo vì mùi cam giúp hạn chế phần nào mùi dơ bẩn.
Có những buổi chiều Olanna và Kainene đi bộ về cùng với nhau. Họ nói về những người trong trại tị nạn, về những ngày họ còn đi học ở Heathgrove, về bố mẹ của họ và về Odenigbo.
"Em có lần nào hỏi anh ta về con bé Asaba nữa không?" Kainene nói.
"Không."
"Trước khi em hỏi anh ta, hãy đến gần và tát vào mặt anh ta. Nếu anh ta dám đánh lại em, chị sẽ đuổi anh ta bằng con dao thái thịt của Harrison. Nhưng cái tát sẽ khiến anh ta phải thú nhận sự thật."
Olanna bật cười và nhận thấy hai người đi bộ một cách thong thả, bước chân của họ ăn nhịp với nhau, dép của cả hai két đầy bụi.
"Ông nội thường nói sự cùng tắc biến. O dikata njo, o dikwa mma", Kainene nói.
"Em nhớ."
"Thế giới sẽ phải nhìn nhận lại, không lâu đâu và Nigeria sẽ chấm dứt chuyện này." Kainene dịu dàng nói. "Chúng ta sẽ thắng."
"Vâng", Olanna tin chuyện này hơn bởi vì Kainene nói thế.
Có những buổi chiều Kainene trở nên xa lạ, đắm chìm vào thế giới nội tâm của riêng mình. Có lần Kainene nói, "Chị chưa bao giờ thật sự để ý đến Ikejide". Olanna đặt tay lên vai chị mà không nói lời nào. Tuy nhiên, nói chung là Kainene vui vẻ và họ sẽ ngồi bên ngoài nói chuyện, nghe radio, nghe tiếng dơi bay quanh cây điều. Đôi khi Richard nhập bọn. Odenigbo thì không bao giờ.
Rồi có một buổi chiều mưa nặng hạt, gió mạnh, một cơn mưa kỳ lạ giữa mùa khô, có lẽ đó là lý do tại sao Odenigbo không đi đến quán rượu. Đó là đêm mà chàng nhận chai rượu của Richarđ, giơ lên mũi hít thật lâu trước khi uống. Chàng và Richard vẫn ít nói chuyện với nhau. Đêm đó cũng là đêm bác sĩ Nwala đến báo cho họ biết Okeoma đã chết. Chớp giăng đầy trời, sấm rền vang và Kainene cười vang, nói, "Nghe giống như tiếng đại bác".
"Em thấy lo vì đã khá lâu rồi chúng không ném bom", Olanna nói. "Em tự hỏi không biết chúng đang mưu tính gì."
"Chắc là bom nguyên tử." Kainene nói.
Họ nghe thấy tiếng xe; lúc ấy Kainene đứng dậy. "Ai đến thăm giữa thời tiết như thế này vào ban đêm?"
Nàng mở cửa. Bác sĩ Nwala bước vào, nước chảy ròng ròng trên mặt. Olanna nhớ lại cái cách anh đã chìa tay ra đỡ nàng đứng dậy lúc bị đánh bom ngay trong ngày cưới của nàng như thế nào, cái cách anh nói áo cưới của nàng sẽ bị bẩn – làm như là nó chưa hề bị dính bùn lúc nằm trên mặt đất. Anh gầy hơn, có vẻ cao hơn so với trí nhó của nàng, và có vẻ như anh sẽ bị gãy làm đôi nếu anh ngồi xuống đột ngột. Nhưng anh không ngồi. Anh không phí thì giờ chào hỏi. Anh cởi cái áo đang dính chặt vào người ra và nhanh chóng giũ cho bớt nước khi anh bắt đầu nói. "Okeoma chết rồi, o jebego, trong khi họ đang thi hành nhiệm vụ chiếm lại Umuahia. Tôi gặp anh ấy tháng trước, anh ấy nói với tôi là có viết vài bài thơ và Olanna là nàng thơ của anh. Anh còn nói nếu anh có mệnh hệ gì, tôi nên tìm cách đưa các bài thơ đó cho Olanna. Nhưng tôi không thể tìm được chúng. Những người đưa tin nói là họ không bao giờ thấy anh viết gì cả. Vì thế tôi nói tôi sẽ đến và nói cho cô biết là anh đã qua đời nhưng tôi không tìm thấy bài thơ nào cả."
Olanna gật đầu nhưng không hoàn toàn hiểu bởi vì bác sĩ Nwala nói rất nhiều và quá nhanh. Nhưng nàng ngừng lại. Anh ta nói là Okeoma đã chết. Trời đang mưa trong mùa nắng hạn và Okeoma đã chết.
"Okeoma?" Odenigbo nói bằng một giọng thì thào. "Onye? Anh đang nói về Okeoma?"
Olanna đưa tay ra vịn vào cánh tay của Odenigbo rồi nàng bật ra tiếng gào, những tiếng gào thét chói tai, nhức óc bởi dây thần kinh trong người nàng căng như dây đàn. Nàng cảm thấy nỗi đau mất mát vùi dập, tra tấn nàng một cách tàn nhẫn. Nàng không buông tay chàng ra cho đến khi bác sĩ Nwala loạng choạng bước vào màn mưa, cho đến khi họ ngã người lên tấm nệm trên nền nhà. Khi chàng đi vào trong nàng, nàng nghĩ rằng chàng khác nhiều quá, nhẹ hơn, nhỏ hơn. Chàng nằm im, vì thế nàng xoay, dướn và kéo ghì hông chàng. Nhưng chàng không nhúc nhích. Rồi chàng bắt đầu dấn mạnh và cơn khoái cảm của nàng tăng nhanh gấp bội, cảm nhận thấy rõ, như thể tất cả đều biến thành khoái lạc. Nàng nghe tiếng khóc của mình, tiếng nức nở to hơn và to hơn cho đến khi Bé By cựa mình và chàng đặt tay lên miệng nàng. Chàng cũng khóc; nàng cảm thấy nước mắt chàng rớt lên người mình trước khi nàng nhìn thấy chúng trên mặt chàng.
Sau đó chàng chống tay nhỏm người lên, nhìn nàng. "Em khỏe quá, nkem."
Những lời này nàng chưa bao giờ được nghe chàng nói. Chàng có vẻ già; đôi mắt vẫn còn đẫm ướt, thất bại hằn in dấu trên khuôn mặt càng làm chàng trông già hơn. Nàng muốn hỏi chàng tại sao chàng nói thế điều đó có nghĩa gì; nàng không biết ai là người ngủ trước. Sáng hôm sau nàng thức giấc rất sớm, ngửi thấy mùi hơi thở hôi hám của mình, cảm thấy lòng lắng dịu một cách buồn bã và không hoàn toàn yên tĩnh. Buồn và không thật sự an tâm.