Chương 53 (Hết)
-
Oliver Twist
- Charles Dickens
- 2001 chữ
- 2020-05-09 02:56:20
Số từ: 2015
CHƯƠNG LIII
VÀ CUỐI CÙNG
Số phận của những người xuất hiện trong câu chuyện này đã gần kết thúc. Điều ít ỏi còn lại mà nhà sử gia của họ phải kể tiếp sẽ được tóm gọn trong mấy dòng đơn giản.
Chưa đầy ba tháng sau, cô Rôdơ Flêminh và Hari Mâyli đã lấy nhau trong nhà thờ của làng, và từ nay trở đi đó là nơi làm việc của người giáo sĩ trẻ tuổi; cũng vào ngày hôm ấy hai người làm chủ ngôi nhà mới và hạnh phúc của họ.
Bà Mâyli ở với con trai và con dâu để tận hưởng trong những ngày thanh thản còn lại của đời mình niềm hạnh phúc to lớn nhất mà tuổi tác và phẩm giá có thể có được: ngắm nhìn hạnh phúc của những người mà bà đã luôn luôn dành cho họ những tình cảm âu yếm nhất và sự săn sóc ân cần nhất một cuộc đời xứng đáng.
Sau khi xem xét đầy đủ và cẩn thận, người ta thấy nếu như phần tài sản Mănxơ còn giữ được (phần tài sản này trong tay mẹ hắn hay trong tay hắn chưa bao giờ tăng thêm) được chia ra đều đặn cho hắn và Ôlivơ thì mỗi người sẽ được trên ba ngàn bảng một chút. Theo những điều kiện trong tờ chúc thư của cha hắn, Ôlivơ có quyền lấy tất cả; nhưng cụ Braolâu không muốn tước của con người cả cái dịp sửa chữa những tật xấu trước đây của mình và sống một cuộc đời lương thiện, nên đã đưa ra cách phân chia này mà cậu bé ông che chở vui lòng chấp nhận.
Mănxơ vẫn mang cái tên giả mạo ấy ra đi với phần tài sản của mình tới một nơi xa xôi ở Thế Giới Mới, và ở đấy, sau khi nhanh chóng tiêu pha hết tài sản, một lần nữa hắn lại đi theo con đường cũ, và sau khi bị giam giữ một thời gian dài vì một hành vi gian dối và hèn hạ mới, cuối cùng hắn gục xuống vì bị lại một cơn bệnh trước đây và chết trong tù. Những thành viên chính còn lại trong bọn trộm cướp của ông bạn Fâyjin của hắn cũng chết xa quê hương như vậy.
Cụ Braolâu đã nhận Ôlivơ làm con nuôi, rồi cùng Ôlivơ và bà giữ nhà già, rời đến một nơi cách nhà của vị mục sư nơi những người bạn thân của cụ sống - chỉ có một dặm, cụ đã làm thỏa mãn điều mong muốn duy nhất còn lại trong trái tim thiết tha sôi nổi của Ôlivơ, và hai người gắn bó với nhau trong một cái nhóm nhỏ và sống một cuộc sống gần với điều được xem là hạnh phúc hoàn hảo mà xưa nay người ta có thể biết được trong cái thế giới đổi thay này.
Ít lâu sau khi hai bạn trẻ kết hôn, ông bác sĩ đáng kính trở về Secxi. Ở đấy, sống cách xa những người bạn cũ, lẽ ra ông đã trở nên bực bội và cáu kỉnh của ông đã không giúp ông kìm nén được. Hai ba tháng sau, ông chỉ nói bóng gió rằng ông e là không khí nơi đây không còn thích hợp với ông; rồi sau đó nhận thấy nơi này đối với ông không còn như xưa nữa, ông giao công việc cho người giúp việc, thuê một ngôi nhà nhỏ của một người độc thân ở lối đi vào cái làng mà anh bạn của ông làm mục sư, và ngay lập tức ông được bình phục. Ở đấy, ông bắt tay vào việc làm vườn, trồng cây, câu cá, làm đồ mộc và nhiều việc khác thuộc loại như vậy: tất cả mọi việc ông đều làm với tính hăng say đặc biệt. Từ đấy, trong mỗi công việc này, ông đều trở thành nổi tiếng trong khắp vùng lân cận như một chuyên gia cự phách.
Trước khi rời nhà, ông đã kết bạn thân thiết với ông Grimuych và con người kỳ quặc kia cũng đã chân thành đáp lại tình bạn. Do đó ông Grimuych đã đến thăm ông rất thường xuyên. Mỗi khi đến, ông đều bắt tay vào việc trồng cây, câu cá, và làm đồ mộc rất hăng hái, ông làm mọi việc một cách ngộ nghĩnh mà trước đó không ai làm như thế, nhưng bao giờ cũng quả quyết rằng cách làm của mình là cách làm đúng. Những ngày chủ nhật ông không bao giờ quên phê phán bài giảng đạo trước mặt vị mực sư trẻ tuổi, tuy sau đó bao giờ ông cũng tâm sự hết sức kín đáo với ông Lôxbơcnơ rằng ông cho buổi thuyết giáo là tuyệt nhưng ông thấy nói thế thì không nên. Cụ Braolâu có một trò bông đùa thường xuyên và thích thú là nhắc ông Lôxbơcnơ lời tiên đoán của ông ta về Ôlivơ và nhắc ông này nhớ lại cái đêm hai người ngồi đợi Ôlivơ về với chiếc đồng hồ ở giữa, nhưng ông Grimuych biện bạch rằng nói chung ông vẫn đúng, và để chứng minh điều đó ông nói rằng Ôlivơ quả thực không trở về, và điều đó bao giờ cũng làm ông cười khanh khách và càng thêm rôm rả.
Nâu Klâypâulơ đã được tòa án tha tội vì đã tố giác những tội lỗi của Fâyjin. Nhận thấy nghề của mình không phải là hoàn toàn yên ổn như hắn có thể mong muốn, trong một thời gian hắn băn khoăn tìm một cách sinh sống nhưng không phải làm công việc nặng nhọc. Sau khi suy tính, hắn làm nghề chỉ điểm và hắn kiếm sống kha khá trong cái nghề này. Kế hoạch của hắn ta là mỗi tuần đi ra một lần lúc nhà thờ làm lễ, có Saclôt đi bên cạnh, ăn mặc diêm dúa. Chị ta ngất xỉu trước cửa những người bán hàng rượu từ thiện, và anh đàn ông nhận được ba penni rượu mạnh để làm cho chị ta tỉnh lại, và sáng ngày hôm sau tố giác người bán rượu và bỏ vào túi nửa tiền phạt. Đôi khi chính Klâypâulơ lại ngất đi, nhưng kết quả vẫn không thay đổi.
Ông bà Bâmbân, bị mất chức, dần dần rơi vào tình trạng rất thiếu thốn và cực khổ, cuối cùng trở thành những người nghèo ở ngay tại nhà tế bần nơi đã có lần họ thống trị những người khác. Người ta nghe ông Bâmbân nói rằng ngay cả trong tình trạng hoạn nạn và sa sút như thế, ông vẫn không có đủ tinh thần can đảm tỏ ra biết ơn đã được tách khỏi bà vợ.
Còn về Jailit và Brittân, họ vẫn giữ chức vụ cũ, mặc dầu người thứ nhất hói đầu và người thứ hai đầu đã bạc phơ. Hai người ngủ ở ngôi nhà của ông mục sư, nhưng phân chia đều đặn sự quan tâm của mình giữa những người ở đấy, với Ôlivơ cụ Braolâu, ông Lôxbơcnơ đến nỗi cho đến nay những người trong làng cũng không bao giờ có thể phát hiện họ thực sự phục vụ ai.
Cậu Saclơ Bâytit hoảng sợ trước tội ác của Xaikit, đâm ra suy nghĩ không biết có phải một cuộc đời lương thiện dẫu sao cũng là điều tốt nhất hay không. Đi đến kết luận rằng thực tế là như thế, cậu quay lưng với những cảnh tượng của quá khứ, quyết định sửa chữa những lỗi lầm của mình trong một lĩnh vực hoạt động mới. Cậu đấu tranh vất vả và rất khổ sở trong một thời gian, nhưng bản tính yêu đời và có mục đích tốt, cuối cùng cậu đã thành công, và từ chỗ là một người làm thuê cho một chủ trại, và làm người giúp việc cho một anh đánh xe, hiện nay anh là người nuôi súc vật vui tính nhất của tất cả vùng Northâmtônsơ. Và bây giờ, bàn tay viết những dòng này thấy chần chừ khi gần kết thúc nhiệm vụ của mình, và muốn kéo dài thêm một chút nữa câu chuyện những cuộc phiêu lưu này.
Tôi muốn nấn ná ở lại với một vài người trong số những người mà tôi đã cùng chung sống lâu như vậy và chia sẻ hạnh phúc với họ bằng cách cố gắng miêu tả cái hạnh phúc ấy. Tôi muốn miêu tả cô Rôdơ Mâyli dưới hình dáng một thiếu phụ hết sức xinh đẹp và duyên dáng, trong cuộc sống ẩn dật của mình tỏa ánh sáng dịu dàng và thân yêu lên tất cả những người cùng sống với cô và soi sáng tâm hồn của họ. Tôi muốn miêu tả cô là người đã đem lại hạnh phúc và niềm vui của cái nhóm người vây quanh bếp lửa mùa đông cũng như trong các cuộc chuyện trò sôi nổi mùa hạ; tôi muốn theo dõi cô qua những cánh đồng oi bức vào buổi trưa và nghe giọng êm dịu qua tiếng nói dễ thương của cô trong cuộc đi dạo buổi tối dưới ánh trăng, tôi muốn ngắm cô lúc ra ngoài đến đâu cũng biểu lộ tính hiền từ và nhân đức, khi ở nhà vui vẻ làm những nhiệm vụ gia đình không biết mệt mỏi, tôi muốn gợi lên một lần nữa trước mắt tôi những gương mặt nhỏ bé tươi tắn tụ tập chung quanh đầu gối của cô và nghe tiếng nói líu lo của chúng; tôi muốn nhắc lại giọng cười tươi sáng và vẽ lại giọt nước mắt thông cảm lấp lánh ở trong con mắt biếc. Tất cả những điều đó và hàng ngàn những cái nhìn và những nụ cười, những sự suy nghĩ và những lời nói, tôi muốn làm sống lại tất cả.
Còn cụ Braolâu hết ngày này sang ngày khác lo làm cho đầu óc của đứa con nuôi phong phú những hiểu biết, và ngày càng gắn bó với nó trong khi bản tính của nó phát triển và biểu lộ những mầm mống đẹp đẽ của tất cả những gì cụ muốn nó trở thành; cụ nhìn thấy ở nó những nét mới của người bạn của cụ thời nhỏ, những điều đã thức dậy trong lòng cụ những kỷ niệm xưa tuy buồn bã nhưng vẫn dịu dàng và an ủi; hai đứa con mồ côi, bị tai ương thử thách đã nhớ tới những bài học của mình như thế nào bằng cách tỏ lòng nhân từ đối với người khác và yêu thương nhau, và tha thiết cảm ơn người đã che chở và cứu sống mình - đó là những chuyện không cần phải nói. Tôi đã nói rằng họ thực sự sung sướng; và hạnh phúc không thể nào có được nếu không có tấm lòng yêu thương tha thiết và nhân đạo, biết ơn Đấng mà đạo lý và lòng Nhân Từ mà đặc tính lớn lao là Bao Dung đối với mọi sự sống.
Trên bàn thờ của nhà thờ cổ trong làng có một phiến đá cẩm thạch trắng cho đến nay chỉ có một chữ
Agnet
. Trong ngôi mộ này không có quan tài, và còn phải nhiều năm, nhiều năm nữa, mới có một tên người khác khắc ở trên cái tên ấy. Nhưng nếu như linh hồn của những người chết có bao giờ quay trở lại thế gian để thăm những nơi được tình yêu làm cho thành thiêng liêng - tình yêu bên kia cõi chết, tình yêu của những người họ đã biết trong cuộc sống - thì tôi tin rằng hình bóng của Agnet vẫn thơ thẩn ở cái góc trang nghiêm này, mặc dầu cái góc đó ở trong Nhà thờ và cô là người yếu đuối và lầm lạc.
HẾT