Chương 3.2
-
Quỷ Dữ và Nàng Prym
- Paulo Coelho
- 4725 chữ
- 2020-05-09 02:56:50
Số từ: 4713
Dịch Giả: Lê Khánh Toàn
NXb Phụ Nữ
Nguồn: Sưu tầm
Toàn bộ câu chuyện này sẽ kết thúc một cách thảm bại và đáng buồn: thỏi vàng bị tịch thu để đưa ra phiên tòa xét xử vụ việc này. Chantal đành bắt một chiếc xe khác và quay trở về Viscos, ê chề, nhục nhã, đeo đẳng mãi khôn nguôi, nỗi buồn cùng những chuyện thêu dệt đầy ác ý mà có đến hàng chục năm sau người ta vẫn chẳng quên cho. Sau đó, phiên tòa cũng chẳng đến đến đâu, tiền phải trả cho luật sư cô gái cũng chẳng có đủ và rốt cuộc là cô không đợi được phán quyết của toà, đành chịu từ chối nhận thỏi vàng.
Và kết quả là gì? Vàng đâu chẳng thấy, danh tiếng cũng mất tiêu. Nhưng rồi có một tình huống khác, người khách lạ đã nói thật với cô. Nếu Chantal đánh cắp thỏi vàng và trốn đi cùng với nó thì biết đâu cô sẽ cứu thị trấn của mình tránh được một tai họa lớn hơn?
Tuy nhiên, trước khi ra khỏi nhà và đi vào rừng, Chantal đã biết trước rằng, không đời nào cô lại quyết định hành động như thế. Thế nhưng tại sao chính vào thời điểm có thể hoàn toàn làm thay đổi toàn bộ cuộc đời, thì nỗi khiếp sợ lại tràn ngập trong cô? Chẳng phải là Chantal đã từng ngủ với những người khách mà cô thích? Chẳng phải là cô đã từng làm bộ lẳng lơ đưa tình với những người khách của quán bar, những mong được các món tiền "boa" kha khá. Chẳng phải là cô đã từng ghen tị với đám bạn cũ mà bây giờ chỉ xuất hiện ở Viscos vào dịp năm mới để thăm hỏi họ hàng?
Cô cố hết sức nắm chặt lấy thỏi vàng, đứng dậy, song cô cảm thấy toàn thân rã rời và tràn ngập nỗi tuyệt vọng nên lại thả thỏi vàng xuống hố và lấp đất lên. Không, cô không thể làm nổi một việc như thế này, nhưng vấn đề không phải ở chỗ, cô là người trung thực hay không mà cô cảm thấy quá khiếp sợ. Vào giây phút này Chantal mới hiểu rõ một điều, con người ta không thể thực hiện được những ước mơ của mình trong hai trường hợp: khi chúng hoàn toàn viển vông không hiện thực và sau đó, khi bánh xe số phận bất ngờ quay ngoặt, chúng vụt biến thành việc hoàn toàn có thể thực hiện được nhưng chỉ có điều, lúc này ta lại không sẵn sàng cho tình huống ấy. Và khi đó, nỗi khiếp sợ xâm chiếm lấy ta trước con đường không rõ đưa tới đâu, trước cuộc đời ném cho ta những lời thách thức đầy bí ẩn, trước cái khả năng tất thảy những thói quen cố hữu, ăn sâu trong ta sẽ vĩnh viễn bị trốc sạch tận gốc rễ.
Người ta muốn thay đổi tất cả, nhưng đồng thời lại muốn giữ nguyên tất cả như trước kia. Chantal không hiểu tại sao lại như thế, nhưng chính điều này hiện đang diễn ra với cô. Có thể, cô đã quá đỗi gắn bó với Viscos, đã quá quen thuộc với việc cảm thấy mình là kẻ thất bại – và bất cứ một cơ hội giành thắng lợi nào đối với cô cũng trở thành một việc hết sức nghiêm trọng không thể thực hiện được, một gánh nặng quá sức chịu đựng.
Có tin người khách lạ sẽ chán cảnh chờ đợi câu trả lời của cô và sẽ mau chóng – có lẽ chỉ đến chiều nay thôi – quyết định dừng sự lựa chọn của mình vào một người khác chứ không phải là cô nữa. Nhưng nỗi khiếp sợ đã lấn át khát vọng thay đổi số phận của mình.
Đôi bàn tay chỉ mới đây thôi còn cầm thỏi vàng, sẽ lại phải cầm cái bàn chải chùi bàn, hoặc miếng khăn rửa ly hay tấm giẻ lau sàn. Chantal quay lưng lại với kho báu vừa bị chôn lấp và đi về thị trấn. Ỏ đó, trong khách sạn bà chủ đang đợi cô chắc đã có phần cáu giận vì cô trót hứa với bà ta sẽ đến quán bar trước lúc người khách trọ duy nhất tỉnh giấc.
Hóa ra, những lo lắng của Chantal là thừa bởi người khách lạ vẫn chưa đi. Ngay chiều hôm đó, cô thấy ông khách trong quán bar, chưa bao giờ ông ta sôi nổi và hấp dẫn đến thế khi kể về các chuyến phiêu lưu của mình, dù không hẳn đã là sự thật, nhưng được cái chúng là những trải nghiệm sâu sắc và tràn ngập trong trí tưởng tượng phong phú của ông ta. Và cũng như hôm qua, ánh mắt của họ chỉ vô tình gặp nhau, khi ông ta trả tiền cho buổi thết đãi.
Chantal đã mệt nhoài và chỉ mong sao mọi người sẽ ra về sớm hơn. Tuy nhiên, người khách lạ hôm nay lại đang rất hưng phấn, vẫn luôn mồm kể tiếp, kể mãi không thôi những câu chuyện mới, còn những người khác chăm chú lắng nghe ông ta với một vẻ đầy hứng thú và với một sự trọng vọng, đúng hơn là rất giống với sự căm ghét nhẫn nhịn vốn thường thấy ở những người dân chốn quê mùa đối với những người thành phố vì cho rằng họ thông minh hơn, có học thức hơn, tân tiến hơn, có văn hóa hơn và thông hiểu mọi chuyện hơn.
"Rõ thật ngố," Chantal nghĩ. "Mấy ông bà ấy chẳng hiểu rằng mình cũng quan trọng đấy chứ. Họ không hiểu cứ mỗi lần ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này, khi có một ai đó bưng bát cơm lên miệng thì anh ta có thể làm được điều này nhờ vào những người dân của Viscos, những người đã làm việc từ sáng đến đêm, những người đổ mồ hôi sôi nước mắt, cắn răng nén chịu nỗi khó nhọc phải quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, cày sâu cuốc bẫm và chăn dắt đàn gia súc. Họ cần thiết cho thế giới này hơn dân chúng của các thành phố lớn, nhưng lại cảm nhận và xử sự như những kẻ hèn kém và thấu hiểu sự tồn tại vô dụng của mình."
Trong khi đó, người khách lạ rõ ràng muốn chứng tỏ cái văn hóa của ông ta nặng ký hơn và đắt giá hơn sự lao động nhọc nhằn của những người ngồi trong quán bar. Ông ta chỉ vào một bức tranh trang trí treo trên tường.
- Các vị có biết đây là gì không? Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới. Nó là một tuyệt tác của Leonardo da Vinci, mô tả lại buổi họp kín, bữa tối cuối cùng của Jesus với các môn đồ.
- Không thể thế được! – Bà chủ quán thốt lên. – Lẽ nào đây là bức tranh nổi tiếng ấy? Tôi mua nó rẻ lắm cơ.
- Nhưng đây chỉ là phiên bản mà thôi. Bức tranh nguyên tác hiện ở trong một nhà thờ cách xa nơi đây. Có một truyền thuyết về bức tranh này. Nếu các vị muốn nghe tôi xin kể lại.
Những người trong quán ngỏ ý đồng tình, còn Chantal lại cảm thấy rát cả mặt vì xấu hổ bởi cô đang đứng ở đây và phải nghe con người gian hùng ấy phô trương cái học thức vô bổ của mình chỉ để chứng tỏ rằng ông ta hiểu biết hơn những người khác.
- Trong khi vẽ bức tranh này, Leonardo đã gặp phải một khó khăn rất lớn: ông phải thể hiện hình tượng Jesus là hiện thân của cái Thiện, còn Juda là biểu tượng của cái Ác, kẻ đã quyết định phản bội Người trong bữa ăn đó. Nửa chừng, Leonardo bỏ dở công việc và tiếp tục hoàn thiện nó chỉ khi nào ông tìm được hình mẫu lý tưởng. Một hôm, khi họa sĩ đến nghe buổi trình diễn của một dàn đồng ca, ông nhận thấy một chàng trai trong ban hát trẻ có vẻ mặt thánh thiện của chúa Kitô, và ông đã mời cậu ta đến xưởng vẽ của mình làm mẫu để phác họa đôi nét và làm mấy phác thảo. Ba năm nữa trôi qua. "Buổi họp kín" đã gần như hoàn thành, tuy thế Leonardo đến lúc này vẫn chưa tìm được người mẫu thích hợp cho Juda. Vị Hồng y giáo chủ chịu trách nhiệm về toàn bộ bức bích họa của nhà thờ này thúc giục yêu cầu ông làm sao có thể mau chóng hoàn thiện bức tranh. Và thế rồi sau nhiều ngày tìm kiếm, một hôm, họa sĩ nhìn thấy một người nằm vạ vật trong con kênh thoát nước – một người trẻ tuổi nhưng vội sớm già trước tuổi, bẩn thỉu, rách rưới và say mèm. Thời gian để phác thảo không còn, Leornado ra lệnh cho những người giúp việc của mình đưa thẳng anh ta về nhà thờ, họ lập tức thực hiện ngay.
Khó khăn lắm họ mới lôi được anh ta về đó và giúp anh ta đứng lên được, còn Leonardo liền bắt tay khắc họa lên bức tranh đầy vẻ tội lỗi, ích kỷ, gian ác toát ra trên bộ mặt anh ta.
Đến khi ông kết thúc công việc thì kẻ khốn nạn ấy mới có phần tỉnh táo hơn. Vừa mở mắt ra, nhìn thấy bức tranh trước mặt mình, anh ta sợ hãi và đau buồn hét lên.
- Trước kia tôi đã có lần thấy bức tranh này!
- Bao giờ? – Leonardo ngạc nhiên hỏi.
- Ba năm trước đây, khi tôi vẫn còn chưa đánh mất mọi thứ. Lúc đó, tôi hát trong dàn đồng ca và cuộc đời tôi còn tràn đầy bao ước mơ, có một ông họa sĩ đã lấy tôi làm mẫu để vẽ Chúa Kitô.
Người khách lạ lấy làm đắc ý im lặng một lúc lâu, sau khi đưa mắt nhìn ông linh mục đang nhâm nhi ly bia của mình, nhưng Chantal hiểu rằng, những lời nói của ông ta là nhằm vào cô.
- Cũng có thể, cái Thiện và cái Ác cũng có chung một khuôn mặt. Tất cả chỉ phụ thuộc vào một điều, chúng gặp mỗi người trong chúng ta khi nào trên đường đời.
Ông khách đứng dậy, viện cớ rằng ông thấy mệt, xin lỗi và đi về phòng nghỉ của mình. Những người khác của quán bar chậm rãi và nặng nề bước ra cửa, vừa nhìn bức phiên bản của bức tranh nổi tiếng vừa trâm ngâm tự hỏi, họ đã từng gặp thiên thần hay quỷ dữ trong quãng đường đời nào của họ. Và mặt không một ai chia sẻ những suy ngẫm của mình với những người khác, nhưng mọi người đều cùng đi đến một kết luận: tất cả những điều này đã xảy ra trước khi Ahab biến xứ sở trộm cướp thành miền đất bình an và hưng thịnh, còn bây giờ ngày nào cũng như ngày nào, chẳng có gì khác biệt. Và mãi mãi là thế chẳng có gì hơn.
Mệt rã rời, Chantal làm như một cái máy, nhưng cô là người duy nhất trong số những người dân Viscos nghĩ khác. Cô cảm thấy rất rõ sự mơn trớn ve vuốt từ bàn tay hiểm độc và ma mị của cái Ác. "Có lẽ, cái Thiện và cái Ác cũng có chung một khuôn mặt. Tất cả chỉ tùy thuộc vào một điều, chúng gặp mỗi người trong chúng ta ở đâu trên con đường đời." Một câu nói thật hay, và thậm chí có thể phù hợp với thực tế đây, nhưng lúc này cô không còn hơi sức đâu để ý đến nó, lúc này, cô chỉ muốn lăn ra ngủ mà thôi.
Kết quả là cô đã tính nhầm tiền trả lại cho một người khách, một điều rất hiếm khi xảy ra với cô. Cô xin lỗi, nhưng không hề cảm thấy mình có lỗi. Giữ nguyên vẻ đường hoàng hờ hững, cô gái chờ cho đến khi những người khách cuối cùng rời khỏi quán – thông thường, đó là ông thị trưởng và ông linh mục. Chantal khóa két tiền, khoác chiếc áo măng tô dày nặng rẻ tiền của mình và đi về nhà như nhiều năm qua cô vẫn làm vậy.
Đêm thứ ba, cô thấy mình đối diện với cái Ác. Nhưng cái Ác lần này mang bộ mặt cạn kiệt sức lực và sốt nóng đùng đùng. Cô gái gần như mê lịm đi nhưng vẫn không thể ngủ yên. Ở đâu đó ngoài ô cửa sổ nghe rõ tiếng chó sói tru mãi không dứt. Có lúc Chantal nghĩ ở cô bắt đầu xuất hiện chứng ảo giác, cô thấy như con thú đã chui được vào phòng của cô và nói với cô bằng một thứ tiếng bí hiểm. Trong thoáng chốc tỉnh táo ngắn ngủi, cô muốn đứng dậy và đi đến nhà thờ xin linh mục gọi hộ bác sĩ. Cô như ngất lả đi trong trạng thái rất nguy cấp. Nhưng khi thực hiện ý định của mình thì cô hiểu rằng, đôi chân không chịu nghe theo cô, chúng cứ mềm oặt ra như bún và cô sẽ không thể đến nhà thờ được.
Nếu cứ đi, thì cũng không tới được nhà thờ. Mà nếu có đến được, thì cô cũng phải chờ linh mục tỉnh dậy, mặc quần áo, mở cửa cho cô, nhưng chừng ấy thời gian cũng đủ để cái lạnh giá ban đêm khiến cơn sốt của cô tăng lên đến độ tắt thở ngay ở đó, trước một nơi được nhiều người tôn thờ là nơi thiêng liêng.
"Thì đã sao nào," Chantal nghĩ. "Ít ra thì cũng chẳng phải mang mình ra nghĩa trang, mình sẽ chết ở đó."
Suốt đêm, Chantal vật vã trong cơn sốt và trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, nhưng khi nắng sớm rọi vào căn phòng của cô, cô thấy cơn sốt hạ xuống đến gần một nửa. Sức lực đã phục hồi trở lại, cô định ngủ lại, nhưng chợt nghe thấy tiếng còi quen thuộc của người bán bánh mì đến Viscos, vậy là đã đến lúc chuẩn bị cà phê sáng rồi.
Không có ai bắt cô phải ra khỏi nhà và đi mua bánh mì. Cô không có trách nhiệm với ai cả và cô có thể nằm trên giường thậm chí cả ngày vì cô chỉ đi làm vào các buổi chiều. Tuy vậy, Chantal cảm thấy trong mình có sự thay đổi nào đó, để trở lại trạng thái hoàn toàn tỉnh táo, cô cần phải cảm nhận thế giới quanh mình. Cô muốn nhìn thấy mọi người vào giờ phút này, như mọi khi, xúm xít bên chiếc xe tải nhỏ có mui màu xanh lá cây, đổi những đồng tiền lẻ lấy bánh mì và vui sướng vì một ngày mới đã bắt đầu, họ đã có cái để ăn và có việc để làm.
Chantal xuống đến đường, chào hỏi mọi người và nghe thấy "Trông cô có vẻ mệt mỏi đấy." và "Có chuyện gì xảy ra với cô không?". Tất cả mọi người đều niềm nở, đầy cảm thông, sẵn sàng giúp đỡ, tất cả đều chất phác, mộc mạc chân tình. Nhưng tâm hồn Chantal bị giằng xé nát tan, tràn ngập một nỗi khiếp sợ và sự nhận thức được quyền lực, những niềm mơ ước và khát vọng đầy phiêu lưu của mình. Cô rất muốn thổ lộ với một ai đó cái điều thầm kín, nhưng cô biết, chỉ cần kể cho một người thôi thì đến gần trưa là cả thị trấn sẽ biết về chuyện này. Vậy nên tốt hơn hết là cảm ơn họ đã lo lắng cho sức khỏe của cô và tạm lánh đi chừng nào đầu óc còn chưa thật tỉnh táo.
- Không, không có gì đâu ạ. - Cô trả lời. – Sói tru suốt cả đêm làm cháu không tài nào ngủ yên được.
- Nhưng tôi có nghe thấy tiếng sói nào đâu. – Bà chủ khách sạn ngạc nhiên, bà ta cũng vừa mua bánh mì.
- Dễ đến hàng tháng nay rồi, trong vùng làm gì có nghe thấy tiếng sói tru. – Cùng đồng tình với bà chủ khách sạn là một bà chuyên nấu các món ăn địa phương để bán trong quầy hàng của khách sạn. - Đám thợ săn hình như đã giết sạch chả còn con nào. Mà với chúng ta điều này là rất dở. Chính lũ sói ấy mới là miếng mồi nhử du khách đến. Và con thú càng tinh ranh khó bắt thì đám thợ săn lại càng ham. Họ rất khoái cái trò ganh đua vô nghĩa như thế.
- Khi người bán bánh mì còn ở đây, không nên nói trong vùng ta còn chó sói. – Bà chủ của Chantal nói. – Điều này mà lộ ra thì người ta chẳng còn muốn đến Viscos của chúng ta nữa.
- Nhưng cháu đã nghe thấy tiếng sói tru mà.
- Biết đâu lại chẳng là người hóa sói. – Bà vợ ông thị trưởng buông lời. Bà ta vốn không hề ưa gì Chantal, nhưng là một phụ nữ được giáo dục và biết che giấu những tình cảm của mình.
- Chả có chuyện người hóa sói nào hết! – Bà chủ khách sạn có phần giận dữ phản đối. – Một con sói bình thường, mà không biết chừng bây giờ nó đã bị ăn đạn rồi.
Nhưng bà vợ ông thị trưởng không có ý đầu hàng.
- Có hay không chưa biết, nhưng có con sói nào tru suốt đêm qua đâu. Bà bắt Chantal làm việc tối mắt tối mũi lại nên cô ấy mệt quá, tưởng tượng ra đủ mọi thứ đấy thôi.
Chantal không tham gia vào cuộc tranh cãi của họ, cô mua bánh mì rồi bỏ đi.
"Trò ganh đua vô nghĩa." Cô ngẫm nghĩ khi chợt nhớ lại lời của người phụ nữ tham gia vào câu chuyện. Phải, với họ cuộc đời đúng là như vậy, một cuộc ganh đua vô nghĩa. Chantal cố gắng lắm mới kìm được mình để không nói ra lời đề nghị mà người khách lạ đưa ra cho cô. Thật thú vị nếu được xem những con người nghèo nàn về tinh thần nhưng có một cuộc sống khá giả này sẽ tổ chức như thế nào một cuộc tranh đua khác, mà trong đó có một ý nghĩa lớn lao hơn. Một tội ác thôi, đánh đổi lại là mười thỏi vàng có thể đảm bảo tương lai cho con cháu họ, trả lại vinh quang đã qua cho Viscos. Đi với sói hay không đây?
Tuy nhiên, Chantal cũng đã kiềm chế được mình. Đến phút này thì cô quyết định sẽ kể lại câu chuyện ấy ngay trong chiều nay, nhưng phải vào lúc tất cả mọi người đều có mặt ở quán bar để không một ai có thể nói sau đó là không được nghe hoặc không hiểu câu chuyện. Có lẽ, họ sẽ túm lấy người khách lạ và lôi tuột ông ta đến đồn cảnh sát. Còn cô, sẽ được nhận một thỏi vàng với ý nghĩa là phần thưởng dành cho công lao đối với cả thị trấn. Và cũng có thể, họ đơn giản là không tin, khi đó người khách lạ sẽ rời Viscos và tin rằng, tất cả những người dân của chô"nó này đều là những người chính nghĩa. Nhưng điều này thực ra không phải vậy.
Tất cả bọn họ đều tăm tối, ngờ nghệch. Tất cả đều suy nghĩ và cảm nhận theo một khuôn mẫu. Tất cả đều chỉ tin vào những điều mà việc tin vào chúng đã thành thói quen ở họ. Ngoài ra, họ không tin vào một điều gì khác. Tất cả đều sợ hãi Chúa Trời. Tất cả - trong đó có cô nữa – đều cảm thấy khiếp sợ vào cái khoảnh khắc khi họ có thể thay đổi được số phận của mình. Còn cái gọi là tấm lòng nhân hậu chân chính thìns đúng hơn cả, hoàn toàn không hề tồn tại – cả trên trần gian này, nơi cư trú của những con người đớn hèn, cả trên thượng giới, nơi ngự trị của Chúa Trời – đấng cai quản muôn loài, người gieo rắc khắp muôn nơi những khổ đau chỉ với một mục đích duy nhất làm sao để chúng ta suốt đời phải cầu xin Người cứu giúp chúng ta tránh khỏi cái Ác.
Cơn sốt đã giảm. Chantal đã ba đêm liền không ngủ, nhưng khi đun cà phê sáng cho mình, cô cảm thấy mình chưa bao giờ khỏe khoắn đến thế. Không, cô không phải là người duy nhất cảm thấy khiếp sợ. Có lẽ, cô là người duy nhất nhận ra sự hèn nhát của mình bởi lẽ tất cả những người khác gọi cuộc đời là "cuộc tranh đấu vô nghĩa", nhưng nỗi khiếp sợ vốn có ở họ lại được coi là sự thanh cao.
Cô chợt nhớ đến một người ở Viscos đã hai mươi năm, làm việc cho một hiệu thuốc ở thị trấn bên, nhưng sau đó bị cho nghỉ việc. Ông ta đã không đòi hỏi phải trả cho mình một khoản tiền trợ cấp nghỉ việc nào, không lương hưu, và giải thích điều này rằng, ông ta là bạn thân của người chủ hiệu thuốc, nên không hề muốn ép buộc người đó, vì biết ông ta bị sa thải là do có những khó khăn về tài chính. Mọi chuyện ấy đều là bịa đặt, ông ta không dám kiện ra toà, là vì hèn nhát, ông ta bất luận thế nào vẫn cứ muốn được yêu mến, để người chủ hiệu thuốc, vẫn như xưa, coi ông ta là một người cao thượng, và là một người bạn tốt. Nhưng một thời gian sau, ông ta vẫn phải đến yêu cầu tiền công, người ta không thèm tiếp chuyện ông ta nữa. đã quá muộn rồi, ông ta bèn viết đơn về việc bị sa thải nhưng chỉ thêm mất công toi.
Thế nên mới đáng đời ông ta. Ra vẻ ta đây cao thượng chỉ là bệnh của kẻ sợ chiếm giữ một vị trí nhất định trong cuộc sống. Đương nhiên, tin vào lòng tốt của bản thân mình dễ dàng hơn nhiều so với việc đấu tranh bảo vệ những quyền lợi của mình. Nuốt hận, chịu nhục là việc nhẹ nhàng hơn nhiều so với việc lấy hết can đảm và lao vào chiến đấu với một kẻ thù mạnh mẽ. Luôn luôn có thể nói viên đá ném vào chúng ta bay sượt qua thôi, và chỉ về đêm, khi đối diện với chính mình, khi vợ hay chồng hoặc người bạn học của ta đã ngủ yên, chỉ khi đêm đến chúng ta mới âm thầm thổn thức vì sự hèn nhát của chúng ta.
Chantal vừa uống cà phê, vừa mong sao ngày hôm nay trôi đi thật nhanh. Chiều tối nay, cô sẽ huỷ diệt cả thị trấn này, chấm dứt sự tồn tại của Viscos. Mà quả thật là thế, thị trấn này có tồn tại trên đời được đến thế hệ sau đâu, bởi tại đây nào có thấy đứa trẻ nào được ra đời cơ chứ! Đám thanh niên thì thích sinh con đẻ cái ở những thành phố khác - ở nơi ấy tưng bừng, sung sướng và tươi đẹp hơn, ở đó người ta ăn vận toàn gấm nhung là lượt, ở đó người ta được du hí đó đây và ở đó có "cuộc tranh đua vô nghĩa".
Trái với mong muốn của Chantal, ngày hôm nay dài như vô tận. Nhìn nền trời xám xịt, những đám mây đen nặng trĩu có cảm giác như thời gian đã hoàn toàn ngừng trôi. Màn sương mù che mờ cả rặng núi và tưởng như Viscos bị chia cắt rời ra khỏi toàn bộ thế giới, tự tách biệt và biến mất như thể trở thành nơi duy nhật có sự sống trên khắp cả hành tinh này. Qua ô cửa sổ, Chantal nhìn thấy người khách lạ rời khách sạn và như mọi lần đi về phía rặng núi. Chantal chợt thoáng lo lắng về thỏi vàng của mình, nhưng rồi cô bình tĩnh lại ngay - ông ta đã trả tiền trước cho cả tuần rồi, mà mấy người giàu có chẳng ném tiền qua cửa sổ bao giờ - chỉ có những người nghèo kiết xác mới làm thế.
Cô gái cố thử đọc sách, nhưng đầu óc cứ nghĩ vẩn vơ đi đâu. Cô bèn quyết định đi dạo quanh Viscos và người duy nhất cô thấy trên đường là bà Berta. Bà lão góa chồng, suốt ngày này qua ngày khác ngồi trước cửa nhà theo dõi canh chừng mọi sự việc diễn ra trong thị trấn.
- Cuối cùng thì cái lạnh cũng đã về rồi đấy. – Bà lão nói với Chantal.
Còn cô gái thì tự hỏi – tại sao những người này quá quan tâm tới thời tiết như vậy, và cô im lặng gật đầu tỏ ý đồng tình.
Rồi cô lại đi tiếp, bởi suốt bao năm sống ở Viscos họ đã nói với bà Berta về đủ mọi thứ chuyện có thể nói. Có một thời gian thậm chí cô rất quan tâm đến người phụ nữ đầy nghị lực này, xem làm thế nào bà có thể lo liệu ổn thỏa cuộc sống của mình ngya cả khi đã trở thành một người góa bụa. Ông chồng của bà chết trong một tình huống không may rất thường xảy ra trong những lần đi săn. Bà Berta khi đó đã bán hết toàn bộ gia tài của mình, và bỏ số tiền này cùng khoản tiền bảo hiểm cho một doanh nghiệp tin cậy nào đó, bây giờ bà sống nhờ vào lợi tức.
Nhưng sau rồi, Chantal cũng không còn quan tâm đến bà Berta nữa. Trong cuộc đời bà lão, cô thấy tất cả những gì mà cô lo sợ: bản thân cô rồi cũng trở thành một bà già và sẽ ngồi trên chiếc ghế ở trước cửa nhà mình, mùa đông thì quấn mình trong trăm lớp áo đơn áo kép và thấy trước mắt mình mãi vẫn chỉ một khung cảnh ấy và chăm chú quan sát những thứ mà chẳng đòi hỏi cả sự chăm chú lẫn sự lưu tâm, bởi vì chẳng có gì có ý nghĩa quan trọng và có giá trị ở đây cả.
Chantal đi sâu vào trong cánh rừng, không sợ lạc đường vì cô biết rõ như trong lòng bàn tay ở đó, từng thân cây, từng tảng đá và từng con đường mòn. Cô hình dung ra ngày hôm nay sẽ có một buổi chiều tuyệt vời và bằng những giọng điệu khác nhau diễn tả lại tất cả những gì cô định kể lại cho những người đồng hương: khi thì cô thông báo cho họ những gì cô nhìn thấy và nghe được, khi thì thuật lại đúng từng chữ những lời của người khách lạ cho họ nghe, khi thì thêu dệt thành một câu chuyện mà cô cũng không thể nói đó là chuyện thật hay tưởng tượng, thậm chí còn bắt chước lại đúng kiểu nói của cái người đã ba đêm liền không cho cô ngủ yên.