Chương 10
-
Reacher báo thù
- Lee Child
- 8350 chữ
- 2020-05-09 04:18:55
Số từ: 8337
Dịch giả: Trần Quý Dương
C.ty Nhã Nam phát hành
NXB Thời Đại
Một lần tôi xem bộ phim của Hải quân về những chuyến thám hiểm ở vùng địa cực băng giá. Ta có thể bước trên một tảng băng cứng. Đột nhiên mặt băng tan ra. Một kiểu sức mạnh không thể tưởng tượng nổi trong các tảng băng trôi. Cả một cấu tạo địa chất mới hình thành. Các vách dựng đứng ở nơi trước vốn bằng phẳng. Những hẻm núi khổng lồ phía sau lưng. Một cái hồ mới hình thành trước mặt. Tất cả thế giới thay đổi chỉ trong một giây. Đó là những cảm giác tôi thấy. Tôi ngồi bên quầy, giữa chiếc máy fax và máy tính, cứng đờ vì sốc, cảm thấy mình như một anh chàng ở Bắc Cực mà thấy toàn bộ thế giới thay đổi chỉ sau một bước chân.
Họ đưa tôi tới phòng lạnh ở phía sau để chính thức nhận dạng thi thể của anh trai. Khuôn mặt anh đã bị hai phát súng bắn thủng và toàn bộ xương đã gãy vỡ nhưng tôi vẫn nhận ra vết sẹo hình sao trên cổ. Anh trai tôi dính vết sẹo này cách đây hai mươi chín năm, khi chúng tôi nghịch một cái chai vỡ. Rồi họ đưa tôi trở lại đồn cảnh sát ở Margrave. Finlay lái xe. Roscoe ngồi ở băng ghế sau cùng tôi, cầm tay tôi suốt cả chặng đường. Chuyến trở về chỉ dài hai mươi phút nhưng trong khoảng thời gian đó tôi sống hết cả hai cuộc đời. Của anh tôi và của tôi.
Anh trai tôi, Joe. Lớn hơn tôi hai tuổi. Anh sinh ở một căn cứ tại vùng Viễn Đông vào cuối thời Eisenhower (Dwight David
Ike" Eisenhower (1890 -1969): Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ)
. Rồi tôi sinh ra tại một căn cứ ở châu Âu, ngay đầu thời Kennedy. Chúng tôi cùng nhau lớn lên ở khắp nơi trên thế giới, trong khoảng thời gian lưu trú ngắn ngủi và biệt lập của các gia đình quân nhân. Cuộc sống hoàn toàn là những cuộc di chuyển không được lựa chọn đi lúc nào và đi đâu. Nhiều đến mức việc học ở bất kỳ nơi nào đó quá một học kỳ rưỡi lại tạo cảm giác không bình thường. Nhiều khi hàng năm trời chúng tôi không biết tới mùa đông. Chúng tôi được chuyển khỏi châu Âu vào đầu mùa thu để tới một nơi ở Thái Bình Dương và đến mùa hè thì lại bắt đầu một hành trình mới.
Bạn bè của chúng tôi liên tục biến mất. Một đơn vị được chuyển khỏi nơi nào đó và một nhóm trẻ sẽ đi theo. Đôi khi vài tháng sau chúng tôi gặp lại bọn chúng ở một nơi khác. Nhưng nhiều đứa thì chẳng bao giờ chúng tôi gặp lại. Chẳng ai nói lời đón chào hay tạm biệt. Ta chỉ hoặc ở đó hoặc không ở đó.
Rồi khi Joe và tôi lớn lên, chúng tôi được đưa đi nhiều hơn. Cuộc chiến ở Việt Nam đồng nghĩa với việc quân đội điều động lực lượng quanh thế giới ngày càng nhanh hơn. Cuộc sống từ đó gắn với những khu căn cứ nhạt nhòa trong ký ức. Chúng tôi chẳng bao giờ sở hữu thứ gì cả. Trên các máy bay vận tải, mỗi người chúng tôi chỉ được phép mang một ba lô.
Chúng tôi bên nhau trong những căn cứ nhạt nhòa đó suốt mười sáu năm. Joe là hằng số duy nhất trong đời tôi. Và tôi yêu anh bằng tình yêu của đứa em trai dành cho anh mình. Nhưng câu này có ý nghĩa rất chính xác. Nhiều câu cửa miệng vẫn vậy mà. Như khi người ta nói rằng ‘người ta ngủ như một đứa trẻ’. Liệu người ta có ý nói rằng ngủ ngon? Hay người ta muốn nói rằng cứ mười phút thì họ thức giấc một lần, hét toáng lên? Tôi yêu Joe với tình cảm của một đứa em trai dành cho anh mình, đồng nghĩa với rất nhiều điều trong gia đình tôi.
Sự thật là tôi không bao giờ biết chắc chắn mình có yêu Joe hay không. Và anh ấy cũng không bao giờ biết chắc chắn liệu tôi có yêu anh hay không. Chúng tôi hơn kém nhau hai tuổi nhưng anh sinh vào thập niên năm mươi còn tôi ra đời vào những năm sáu mươi. Điều đó tạo ra sự khác biệt giữa hai chúng tôi nhiều hơn mức hai năm có thể tạo ra. Và giống như bất kỳ cặp anh em trai nào hơn kém nhau hai tuổi, chúng tôi làm cho nhau khó chịu đến phát điên. Chúng tôi quại nhau, cãi nhau và buồn bã chờ đợi lớn lên để thoát khỏi nhau. Gần như cả mười sáu năm đó, chúng tôi không biết mình yêu quý hay ghét nhau.
Nhưng hai chúng tôi có những điều mà một gia đình quân đội có. Gia đình là đơn vị. Những người ở căn cứ được dạy trung thành tuyệt đối với đơn vị họ. Đó là điều căn bản nhất trong cuộc sống của họ. Đám con trai tuân thủ điều này. Chúng tuyệt đối trung thành với gia đình mình. Thế nên đôi khi ta có thể ghét anh em mình nhưng ta không để cho bất kỳ kẻ nào gây chuyện với họ. Đó là điều chúng tôi có, cả Joe và tôi. Chúng tôi có sự trung thành vô điều kiện ấy. Ở mọi sân trường mới, chúng tôi đều đứng tựa lưng vào nhau và tung đòn để xử lý rắc rối. Tôi trông chừng anh và anh trông chừng tôi, như các anh em trai vẫn làm. Trong suốt mười sáu năm. Tuổi thơ của chúng tôi không giống với những đứa trẻ bình thường khác, nhưng tôi thích thế. Joe gần như là khởi đầu cũng như kết thúc của tuổi thơ ấy. Và bây giờ kẻ nào đó đã giết anh. Tôi ngồi ở băng ghế sau của chiếc xe cảnh sát hiệu Chevrolet và lắng nghe tiếng nói rất nhỏ trong tai mình hỏi xem tôi sẽ làm gì với chuyện đó.
Finlay chạy thẳng qua Margrave và đỗ xe bên ngoài đồn. Ngay ở rìa đường đối diện những cánh cửa nặng nề bằng kính. Ông cùng Roscoe ra khỏi xe rồi đứng đó đợi tôi, hệt như Baker và Stevenson đã làm cách đây bốn mươi tám tiếng. Tôi ra khỏi xe đứng cùng họ trong cái nắng trưa. Chúng tôi đứng một lúc, rồi Finlay kéo cánh cửa nặng nề và cả ba bước vào trong. Bước qua phòng họp không người tới căn phòng lớn đầy đồ gỗ hồng sắc.
Finlay ngồi bên bàn. Tôi ngồi vào đúng chiếc ghế mình đã ngồi hôm thứ Sáu. Roscoe kéo một chiếc ghế đến bên cạnh tôi. Finlay lạch xạch mở một ngăn kéo bàn. Lấy ra chiếc đài ghi âm. Thực hiện toàn bộ việc ông hay làm, gõ tay vào micro để thử. Rồi ông ngồi yên nhìn tôi.
'Tôi rất tiếc về chuyện anh trai ông", ông nói.
Tôi gật đầu. Không nói gì cả.
"Tôi e là sẽ phải đặt cho ông nhiều câu hỏi", đội trưởng thám tử tiếp tục.
Tôi chỉ gật đầu lần nữa. Tôi hiểu tình thế của ông. Bản thân tôi đã từng ở vị trí của ông rất nhiều lần.
"Ai là người họ hàng gần nhất với ông ấy?" Finlay hỏi.
"Tôi," tôi đáp. "Trừ phi anh ấy lập gia đình mà không bảo tôi."
"Ông có nghĩ rằng có thể ông ấy đã làm việc đó không?"
"Chúng tôi không gần gũi lắm", tôi nói. "Nhưng tôi không nghĩ thế."
"Cha mẹ ông mất cả rồi à?"
Tôi gật đầu. Finlay cũng gật đầu. Ghi lại tên tôi với tư cách người họ hàng gần nhất.
"Tên đầy đủ của ông ấy là gì?"
"Joe Reacher," tôi nói. "Không có tên đệm".
"Thế là nói tắt của Joseph à?"
"Không," tôi nói. "Chỉ là Joe thôi. Kiểu như tên tôi chỉ là Jack. Tôi có người cha thích những cái tên đơn giản." "Được rồi," Finlay nói. "Ông ấy bao nhiêu tuổi?"
Tôi đọc cho ông ngày, tháng, năm sinh của Joe. "Lớn hơn tôi hai tuổi."
"Vậy là ông ấy ba mươi tám?"
Tôi gật đầu. Baker đã nói rằng có lẽ nạn nhân chừng bốn mươi. Có lẽ Joe không già hơn tuổi.
"Ông có địa chỉ hiện tại của ông ấy không?"
Tôi lắc đầu.
"Không," tôi nói. "Washington DC, ở nơi nào đó. Như tôi đã nói, chúng tôi không gần gũi lắm."
"Được rồi", Finlay lại nói. "Lần gần đây nhất ông gặp ông ấy là khi nào?"
Cách đây chừng hai mươi phút," tôi nói. "Trong nhà xác."
Finlay gật đầu. "Trước đó kia?"
"Bảy năm trước", tôi đáp. "Trong đám tang mẹ tôi." "Ông có ảnh của ông ấy không?"
"Ông đã trông thấy mọi thứ đồ của tôi trong túi tư trang," tôi nói. "Tôi không có bức ảnh nào cả."
Đội trưởng thám tử lại gật đầu. Im lặng. Ông ta đang thấy chuyện này khó.
"Ông có thể mô tả ông ấy được không?"
"Trước khi mặt anh ấy bị bắn nát à?"
"Ông biết là điều đó có thể hữu ích mà," Finlay nói. "Chúng tôi cần tìm ra người nào đã trông thấy ông ấy, ở đâu và khi nào."
Tôi gật đầu.
"Anh ấy trông giống tôi, tôi cho là thế," tôi nói. "Có lẽ cao hơn khoảng hai phân và nặng kém tôi năm cân."
"Vậy ông ấy thế nào, chừng một mét chín tám à?"
"Đúng," tôi đáp. "Và nặng chừng một trăm cân, có thể tầm đó."
Finlay ghi lại toàn bộ.
"Và ông ấy cạo trọc đầu à?" ông ta hỏi.
"Lần trước tôi gặp anh ấy thì không thế", tôi nói. "Anh ấy để tóc như bất kỳ ai khác",
"Cách đây bảy năm, đúng không?"
Tôi nhún vai.
"Có lẽ anh ấy bắt đầu hói", tôi nói. "Có lẽ anh ấy tuyệt vọng về chuyện đó."
Finlay gật đầu.
"Ông ấy làm nghề gì?" viên thám tử hỏi nếp.
"Lần cuối cùng tôi nghe nói là anh ấy làm cho Bộ Tài chính," tôi nói. "Làm gì thì tôi không chắc chắn."
'Trước đó ông ấy làm ở đâu?" Finlay hỏi. "Ông ấy cũng qua quân đội chứ?"
Tôi gật đầu.
"Lực lượng tình báo quân đội", tôi nói. "Sau một thời gian thì ra quân, rồi anh ấy làm việc cho chính phủ",
"Anh trai đã viết thư cho ông kể rằng ông ấy từng qua đây, đúng không?"
"Anh ấy có nhắc tới chuyện về Blake Mù," tôi nói. "Không nói chuyện gì đã khiến anh ấy tới đây. Nhưng tìm hiểu không khó đâu."
Finlay gật đầu.
"Chúng tôi sẽ gọi vài cuộc điện thoại trong buổi sáng hôm nay", ông ta nói. "Cho tới khi ấy, ông có chắc chắn là không biết gì về lý do ông ấy tới đây chứ?"
Tôi lắc đầu. Tôi chẳng biết chút gì về lý do khiến Joe tới đây. Nhưng tôi biết là Hubble biết. Joe là nhân viên điều tra dáng cao có cái đầu trọc và bí số. Hubble đã yêu cầu Joe tới đây và anh ta biết chính xác vì sao. Việc đầu tiên cần làm là tìm Hubble để hỏi anh ta về điều đó.
"Ông nói ông không thể tìm thấy Hubble à?" tôi hỏi Finlay.
"Chẳng tìm thấy anh ta ở đâu cả," viên cảnh sát đáp "Anh ta không ở nhà trên phố Beckman Drive và không ai trông thấy anh ta ở thị trấn. Hubble biết toàn bộ chuyện này phải không?"
Tôi chỉ nhún vai. Tôi có cảm giác như mình muốn giữ vài quân bài tủ. Nếu phải ép Hubble để biết điều anh ta không sẵn lòng nói ra, tôi sẽ phải làm việc đó một mình. Tôi không muốn Finlay thấy tôi làm việc đó. Ông ta có thể nghĩ rằng tôi quá mạnh tay. Và dứt khoát tôi không muốn thấy Finlay làm việc gì. Tôi không muốn để Finlay ép buộc Hubble. Có thể tôi nghĩ ông ta không đủ mạnh tay trong chuyện đó. Và dù gì thi Hubble sẽ dễ dàng nói với tôi hơn nói với cảnh sát. Anh ta đã hé cho tôi biết chút ít rồi. Thế nên việc Hubble biết được bao nhiêu sẽ là bí mật của tôi. Ít nhất là ở thời điểm này.
"Không rõ Hubble biết gì," tôi nói. "Chính ông đã nói rằng anh ta đã suy sụp còn gì."
Finlay lại lần nữa ậm ừ và nhìn qua bàn sang tôi. Tôi có thể thấy ông bước vào đợt suy nghĩ mới. Tôi khá chắc chắn nó là gì. Tôi đã chờ đợi nó nổi lên. Có một phương pháp đáng tin cậy xử lý các vụ án mạng. Nó xuất phát từ các con số thống kê và rất nhiều kinh nghiệm. Phương pháp này có nội dung: khi ta tiếp nhận một người chết, trước tiên ta xem xét gia đình người đó. Bởi rất nhiều vụ án mạng do người họ hàng gây ra. Vợ chồng, con cái. Và anh em. Đó là lý thuyết. Finlay đã chứng kiến việc đó diễn ra cả trăm lần trong hai mươi năm công tác ở Boston. Giờ thì tôi có thể thấy ông đang nghĩ về điều đó tại Margrave này. Tôi cần can thiệp vào chuyện này. Tôi không muốn ông nghĩ về chuyện đó. Tôi không muốn lãng phí thêm thời gian trong nhà giam. Tôi cho rằng có thể mình cần thời gian cho một việc khác.
"Ông vui với bằng chứng ngoại phạm của tôi phải không?" tôi lên tiếng.
Finlay biết tôi đang hướng đi đâu. Như thể chúng tôi là đồng nghiệp cùng giải quyết một vụ nhiều nút thắt. Ông dành cho tôi một cái cười nhăn nhở.
"Bằng chứng chắc chắn", viên thám tử đáp. "Lúc chuyện này xảy ra thì ông đang ở Tampa."
"Được rồi", tôi nói. "Và đồn trưởng Morrison thoải mái với điều đó chứ?"
"Ông ấy không biết chuyện này", Finlay đáp. "Ông ấy không nghe điện thoại."
'Tôi không muốn có bất kỳ nhầm lẫn nào nữa", tôi bảo. "Lão béo khốn kiếp bảo rằng lão đã trông thấy tôi trên khu đó. Tôi muốn lão biết rằng điều ấy sẽ không được chấp nhận đâu."
Finlay gật đầu, cầm điện thoại bàn lên bấm số. Tôi nghe tiếng tín hiệu vo vo lạo xạo vọng ra từ tai nghe. Nó đổ chuông một lúc lâu rồi đứt phựt khi Finlay bỏ máy.
"Không ở nhà", ông ta nói. "Hôm nay là Chủ nhật mà?"
Rồi đội trưởng thám tử lôi cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo ra. Mở đến vần H. Tìm số của nhà Hubble trên phố Beckman Drive. Bấm số và nhận được kết quả tương tự. Nhiều tín hiệu chờ và không ai ở nhà. Rồi ông ta gọi thử vào số di động. Một giọng điện tử cất lên bảo ông ta rằng điện thoại của anh ta đã tắt. Finlay bỏ máy trước khi giọng kia nói xong.
"Khi tìm được Hubble tôi sẽ đưa anh ta về đồn", Finlay bảo. "Anh ta biết những điều nên nói cho chúng ta. Từ giờ tới khi đó tôi không thể làm gì nhiều, đúng không?"
Tôi nhún vai. Đội trưởng thám tử nói đúng, đây là vụ rất ít dấu vết. Đốm lửa duy nhất Finlay biết là cơn hoảng sợ Hubble bộc lộ hôm thứ Sáu.
"Ông sẽ làm gì, Reacher?" ông ta hỏi tôi.
"Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện đó", tôi nói.
Finlay nhìn thẳng vào tôi. Không ác cảm nhưng nghiêm khắc, như thể ông đang cố gắng phát ra một mệnh lệnh và một lời kêu gọi chỉ bằng cái nhìn nghiêm khắc mắt đối mắt.
"Để tôi xử lý chuyện này, được chứ?" đội trưởng thám tử nói. "Ông sẽ cảm thấy rất tệ, và muốn công lý được thực thi, nhưng tôi không muốn bất kỳ hoạt động độc lập nào diễn ra ở đây, được không? Đây là việc của cảnh sát. Ông là thường dân. Để tôi xử lý vụ này, được chứ?"
Tôi nhún vai gật đầu. Đứng dậy nhìn cả hai.
"Tôi sẽ đi dạo một chút", tôi nói.
Tôi để hai người ngồi đó và bước qua phòng họp. Đẩy những tấm cửa kính để bước vào buổi chiều nóng nực. Lang thang qua bãi đỗ xe, băng ngang bãi cỏ rộng phía trước tới tận bức tượng đồng. Đây là một bức tượng khác của Caspar Teale, dù tay này là kẻ quái nào chẳng rõ. Vẫn là tay đứng trên bãi cỏ ở rìa Nam thị trấn. Tôi tựa người vào cái sườn kim loại ấm áp của ông ta và suy nghĩ. Mỹ là một đất nước khổng lồ. Vài triệu dặm vuông. Gần ba trăm triệu dân. Đã bảy năm tôi không gặp Joe, và anh cũng không trông thấy tôi, nhưng chúng tôi rốt cuộc đã cùng có mặt chính xác ở một điểm bé xíu, cách nhau tám tiếng. Tôi đã bước tới chỗ cách thi thể anh nằm chừng năm mươi mét. Đó quả là sự trùng hợp ghê gớm. Gần như không tin nổi. Vậy nên Finlay đã tạo cho tôi một ân huệ lớn khi coi đó là sự trùng hợp. Lẽ ra ông ta nên bác bỏ bằng chứng ngoại phạm của tôi. Có lẽ ông ta đã làm thế. Có thể ông ta đang gọi điện tới Tampa để xác minh lần nữa rồi. Nhưng ông ta sẽ chẳng tìm được gì, bởi đây là sự trùng hợp. Chẳng ích gì khi cứ xét đi xét lại. Tôi chỉ có mặt ở Margrave do một ý nghĩ điên rồ nảy ra vào phút cuối cùng. Nếu như tôi xem tấm bản đồ của người đi cùng xe thêm một phút thôi thì xe đã chạy qua giao lộ rồi, và tôi sẽ quên hết về Margrave. Tôi sẽ tới Atlanta và không bao giờ biết chuyện gì về Joe. Có lẽ phải mất thêm bảy năm nữa tin tức về anh mới đến được với tôi. Giờ đây điều duy nhất tôi phải quyết định là làm gì với chuyện này.
Tôi bắt đầu gắn với sự trung thành lúc chừng bốn tuổi. Đột nhiên tôi thấy mình cần trông chừng Joe theo cách anh đã trông chừng tôi. Sau một thời gian, việc đó trở thành bản năng thứ hai, như một việc mang tính tự động. Trong đầu tôi luôn thường trực việc tìm kiếm Joe xem anh có ổn không. Rất nhiều lần tôi lao vào sân một ngôi trường mới và thấy một đám nhóc đang bắt nạt anh bạn cao gầy mới đến. Tôi sẽ phi tới, lôi chúng ra và khiến vài cái đầu sưng u lên. Rồi tôi sẽ trở lại với đám bạn của mình, đá bóng hay tiếp tục làm việc chúng tôi đang làm. Nhiệm vụ đã hoàn thành, như một công việc thường xuyên. Đó là việc thường xuyên diễn ra trong suốt mười hai năm, từ lúc tôi lên bốn đến khi rốt cuộc Joe cũng xa gia đình. Mười hai năm thường xuyên làm việc ấy đã để lại những vết hằn lờ mờ trên não tôi bởi mãi về sau tôi vẫn luôn văng vẳng nghe một câu hỏi vọng về: Joe đang ở đâu? Khi anh đã lớn và đi xa, việc anh ở đâu cũng chẳng thành vấn đề. Nhưng tôi luôn nhận thức được tiếng vọng lờ mờ của thói quen cũ ấy. Sâu thẳm trong lòng, tôi luôn biết rằng mình phải bảo vệ Joe nếu cần.
Nhưng bây giờ Joe đã qua đời. Anh chẳng ở đâu cả. Tôi tì người vào bức tượng trước đồn cảnh sát và lắng nghe một tiếng nói rất nhỏ trong đầu mình: em phải làm điều gì đó.
Cánh cửa trụ sở đồn đẩy mở. Tôi nheo mắt nhìn qua đám hơi nóng thì thấy Roscoe bước ra. Mặt trời ở phía sau khiến tóc cô sáng lên như vầng hào quang. Nữ cảnh sát lướt mắt trông thấy tôi đang dựa vào bức tượng ở giữa bãi cỏ. Cô liền bước về phía tôi. Tôi đẩy người khỏi bức tượng.
"Anh ổn chứ?" Roseoe hỏi tôi.
'Tôi ổn."
"Anh chắc không?"
'Tôi không suy sụp đâu", tôi nói. "Có lẽ tôi nên thế, nhưng tôi lại không vậy. Nói thật là tôi chỉ cảm thấy tê liệt".
Điều đó đúng. Tôi không cảm thấy gì nhiều. Có lẽ đây là một kiểu phản ứng kỳ lạ, nhưng nó là những gì tôi cảm thấy. Phủ nhận điều đó chẳng có ích gì.
"OK," Roscoe nói. "Tôi có thể chở anh đi đâu đó được chứ?"
Có lẽ Finlay đã cử nữ cảnh sát ra theo dõi tôi, nhưng tôi sẽ chẳng bật ra nhiều lời phản đối việc ấy. Roscoe đang đứng đây dưới ánh nắng, trông thật tuyệt. Tôi nhận ra rằng lần nào nhìn nữ cảnh sát này tôi cũng thấy thích cô.
"Muốn chỉ cho tôi xem nơi ở của Hubble chứ?" tôi hỏi.
Tôi có thể thấy Roscoe đang suy nghĩ về việc đó.
"Chúng ta không nên để việc đó cho Finlay sao?" cô hỏi lại.
"Tôi chỉ muốn xem anh ta đã trở về nhà chưa", tôi nói. "Tôi sẽ không ăn thịt anh ta. Nếu anh ta ở đó, chúng ta sẽ gọi cho Finlay ngay lập tức, được chứ?"
"Được", nữ sĩ quan đáp. Cô nhún vai mỉm cười. "Ta đi thôi",
Chúng tôi cùng bước trở lại qua bãi cỏ vào chiếc xe cảnh sát hiệu Chevy của Roscoe. Cô nổ máy lái ra khỏi bãi. Rẽ trái rồi chạy về phía Nam qua thị trấn nhỏ hoàn hảo. Hôm nay là một ngày tháng Chín tuyệt vời. Mặt trời tươi sáng đã biến nó thành một giấc mơ. Vỉa hè lát gạch sáng lên còn lớp sơn trắng thì chói lóa. Toàn bộ nơi này yên tĩnh ngập chìm trong cái nóng của ngày Chủ nhật. Không một bóng người.
Roscoe bẻ lái sang phải chỗ bãi cỏ nhỏ và rẽ vào đường Beckman Drive. Vòng quanh khoảnh đất có nhà thờ. Những chiếc xe không còn ở đó, nơi này yên tĩnh. Buổi lễ đã xong. Beckman mở ra trước mắt, một con phố dân cư rộng hơi dốc lên, hai bên đường trồng cây. Nó mang lại cảm giác của sự giàu có. Mát mẻ, rợp bóng cây và sung túc. Đó là điều những người làm nghề bất động sản muốn nói khi đề cập tới vị trí. Tôi không thể trông thấy các căn nhà. Chúng nằm sâu phía sau những ô cỏ rộng, cây lớn và những hàng rào cao. Đường cho xe từ nhà ra phố uốn cong khuất tầm mắt. Thi thoảng tôi thoáng thấy một mái cổng màu trắng hay mái lợp màu đỏ. Càng đi xa, các lô đất càng lớn. Các thùng thư cách nhau tới vài trăm mét. Những cây trưởng thành khổng lồ. Một khu vực yên bình. Nhưng là một khu vực có những câu chuyện ẩn sau các mặt tiền đầy cỏ cây. Trong trường hợp của Hubble, đó là một câu chuyện tuyệt vọng đã đẩy anh ta liên lạc với anh trai tôi. Một câu chuyện đã khiến anh trai tôi bị giết.
Roscoe chạy chậm lại bên một thùng thư màu trắng rồi rẽ trái vào lối chạy xe của nhà số 25. Cách trung tâm thị trấn chừng một dặm, bên trải, lưng quay lại mặt trời buổi chiều. Đây là căn nhà cuối cùng trên con phố. Phía trước là những lùm đào kéo dài trong lớp hơi nóng. Chúng tôi chầm chậm chạy vào lối chạy xe uốn lượn, hai bên là hai hàng cây được xén tỉa.
Căn nhà không như tôi tưởng tượng. Tôi đã hình dung nó là một căn nhà lớn màu trắng, như một căn nhà thông thường song lớn hơn. Căn này còn tráng lệ hơn. Một cung điện. Khổng lồ. Mọi chi tiết đều xa xỉ. Những mảng trải sỏi, những trảng cỏ mượt như nhung, những cây khổng lồ đẹp đẽ, mọi thứ đều sáng lên và lôm đốm nắng chiều. Nhưng không có dấu hiệu nào của chiếc Bentley sẫm màu tôi đã trông thấy ở nhà tù. Có vẻ là không ai ở nhà cả.
Roscoe tấp vào gần cửa trước và chúng tôi ra khỏi xe. Nơi này im lặng. Tôi chẳng nghe thấy gì trừ tiếng rì rầm nặng nề của cái nóng buổi chiều. Chúng tôi bấm chuông rồi gõ cửa. Bên trong không ai đáp lại. Chúng tôi nhún vai với nhau và bước qua một bãi cỏ quanh phía hông nhà. Có vài acre cỏ cùng các khóm hoa rực rỡ bao quanh sân vườn. Rồi một hiên rộng và bãi cỏ dài dốc xuống bể bơi khổng lồ. Nước bể dưới nắng có màu xanh sáng. Tôi có thể ngửi thấy mùi clo lơ lửng trong không khí.
"Ở nơi nào đó," Roscoe nói.
Tôi gật đầu. Tôi tự hỏi liệu anh trai mình có đang ở nơi ấy không.
"Tôi nghe thấy tiếng xe," nữ cảnh sát tiếp.
Chúng tôi trở lại phía trước nhà đúng lúc chiếc Bentley to lớn từ từ dừng lại. Người phụ nữ tóc vàng mà tôi trông thấy lái xe rời nhà tù bước ra khỏi xe. Cô chở theo hai đứa con. Một trai, một gái. Đây là gia đình của Hubble. Anh ta yêu họ vô cùng. Nhưng bây giờ anh ta không ở bên họ.
Dường như người phụ nữ tóc vàng biết Roscoe. Họ chào nhau và Roscoe giới thiệu tôi với cô. Cô bắt tay tôi rôi giới thiệu tên là Charlene, nhưng tôi có thể gọi cô là Charlie. Đây là một phụ nữ toát lên vẻ đắt tiền, người cao ráo, mảnh mai, dáng đẹp, ăn mặc chỉn chu, được yêu chiều. Nhưng khuôn mặt cô đầy thần thái, như một làn gió. Thần thái đủ để khiến tôi thích cô. Người phụ nữ giữ tay tôi và mỉm cười, nhưng đây là một nụ cười mà đằng sau là cả một núi căng thẳng.
"Đây chẳng phải kỳ cuối tuần tuyệt nhất trong đời tôi, tôi e là thế", cô nói. "Nhưng có vẻ như tôi nợ ông rất nhiều lời cảm ơn, ông Reacher. Chồng tôi kể với tôi rằng khi trong tù ông đã cứu mạng anh ấy."
Cô nói với giọng chứa đầy băng đá. Không hướng vào tôi mà hướng vào hoàn cảnh quỷ quái buộc người phụ nữ này phải dùng những từ "chông" và "nhà tù" trong cùng một câu.
''Không vấn đề gì," tôi nói. "Anh ấy đang ở đâu?"
"Lo chút công chuyện", Charlie đáp. 'Tôi nghĩ lát nữa anh ấy sẽ về."
Tôi gật đầu. Đó là kế hoạch của Hubble. Anh ta nói sẽ bịa ra một câu chuyện với vợ và rồi cố gắng làm êm mọi chuyện. Tôi tự hỏi liệu Charlie có muốn nói về chuyện ấy không, song hai đứa trẻ đang im lặng đứng bên cô, tôi có thể thấy rằng cô không thể nói chuyện trước mặt chúng. Thế nên tôi nhăn nhở với hai đứa bé. Tôi hy vọng cả hai thấy ngại mà bỏ chạy đi chỗ khác, như bọn trẻ thường làm với tôi, nhưng hai đứa này chỉ nhăn nhở lại.
"Đây là Ben," Charlie bảo. "Còn đây là Lucy."
Hai đứa trẻ trông dễ thương. Đứa con gái vẫn còn vẻ mũm mĩm của trẻ nhỏ. Khuyết mất răng cửa. Mái tóc đẹp màu cát được bện đuôi sam. Đứa con trai chẳng lớn hơn em gái là mấy. Nó nhỏ người và có gương mặt nghiêm túc. Không phải một tay côn đồ bóng đá ồn ã như hầu hết đám con trai. Đây là hai đứa trẻ ngoan. Lịch sự và trầm tính. Cả hai cùng bắt tay tôi rồi bước trở lại bên mẹ. Tôi nhìn cả ba và chỉ có thể thấy đám mây khủng khiếp đang lửng lơ phía trên đầu họ. Nếu Hubble không cẩn thận, anh ta có thể khiến cả ba mất mạng, như anh ta đã gây ra cho anh trai tôi.
"Hai người sẽ vào dùng chút trà đá chứ?" Charlie hỏi hai chúng tôi.
Người phụ nữ vẫn đứng yên, đầu hất lên một chút như đang đợi câu trả lời. Có lẽ cô chừng ba mươi tuổi, tầm tuổi Roscoe. Nhưng cô có phong thái của một phụ nữ giàu có. Trước đây một trăm năm mươi năm, có lẽ cô là bà chủ của một đồn điền lớn.
"Được chứ," tôi nói. "Cảm ơn cô."
Bọn trẻ chạy đi chơi đâu đó và Charile đưa chúng tôi vào lối cửa trước. Tôi không thật muốn dùng trà đá nhưng lại muốn nán lại phòng trường hợp Hubble quay về. Tôi muốn gặp riêng anh ta chừng năm phút. Tôi muốn hỏi anh ta vài câu hỏi rất khẩn trước khi Finlay khởi sự cùng với lời cảnh báo Miranda.
Một ngôi nhà cực kỳ sang trọng. Khổng lồ. Trang trí nội thất đẹp đẽ. Sáng sủa và tươi mới. Màu kem mát dịu cùng màu vàng nắng. Hoa. Charlie đưa chúng tôi thẳng ra sân vườn mà hai chúng tôi đã trông thấy từ bên ngoài. Cứ như thứ gì đó lấy từ tạp chí. Roscoe đi cùng chủ nhà giúp pha trà. Để lại tôi một mình trong sân vườn. Điều đó làm tôi thấy bất an. Tôi không quen với nhà. Đã ba mươi sáu tuổi mà tôi chưa bao giờ sống trong căn nhà nào. Rất nhiều khu ở dành cho quân nhân và khu tập thể kinh khủng trơ trọi khi tôi còn học ở West Point. Đó là những nơi tôi từng sống. Tôi ngồi xuống như một sinh vật lạ xấu xí trên chiếc nệm in hoa đặt trên xô pha đan mây mà chờ đợi. Bất an, tê liệt trong khoảng chết chóc giữa hành động và phản ứng.
Hai người phụ nữ mang trà lại. Charlie bê một chiếc khay bằng bạc. Cô là người phụ nữ đẹp nhưng đứng cạnh Roscoe thì chẳng là gì. Trong đôi mắt Roscoe có những tia lấp lánh như khiến Charlie trở thành vô hình.
Rồi một chuyện xảy ra. Roscoe ngồi xuống cạnh tôi trên chiếc xô pha mây. Khi ngồi, cô đẩy chân tôi sang một bên. Đây là việc làm không chủ định nhưng rất gần gũi và quen thuộc. Một đầu dây thần kinh đã tê liệt đột nhiên hoạt động hét lên với tôi: Cô ấy cũng thích anh. Cô ấy cũng thích anh. Đó là cách nữ cảnh sát chạm vào chân tôi. Tôi hồi tưởng và nhìn lại mọi chuyện dưới luồng sáng mới ấy. Hành động của Roscoe khi lấy dấu vân tay và chụp ảnh tôi. Mang cà phê cho tôi. Nụ cười cùng cái nháy mắt của cô. Tiếng cười của cô. Làm việc cả đêm thứ Sáu và ngày thứ Bảy để có thể đưa tôi ra khỏi nhà tù Warburton. Lái xe cả chặng đường để đón tôi. Cầm tay tôi sau khi tôi đã thấy thi thể giập nát của anh trai mình. Lái xe đưa tôi tới đây. Cô ấy cũng thích tôi.
Đột nhiên tôi cảm thấy hạnh phúc khi đã nhảy xuống chiếc xe buýt. Vui vì tôi đã đưa ra quyết định điên rồ ở phút cuối cùng. Tôi đột nhiên thấy nhẹ nhõm. Cảm thấy khá hơn. Tiếng nói rất nhỏ trong đầu tôi đã im lặng. Quả là ngay lúc này chẳng có gì cho tôi làm. Tôi sẽ nói chuyện với Hubble khi gặp anh ta. Từ giờ cho tới khi ấy tôi sẽ ngồi trên xô pha cùng với một người phụ nữ xinh đẹp, thân thiện có mái tóc sẫm màu, mặc một chiếc sơ mi vải conon mềm. Nhưng rắc rối sẽ sớm nảy sinh thôi. Luôn luôn thế. Charlie ngồi xuống phía đối diện hai chúng tôi rồi bắt đầu rót trà đá từ bình ra. Mùi chanh và gia vị tỏa ra. Cô bắt gặp ánh mắt tôi liền nở lại đúng nụ cười hàm chứa sự căng thẳng lúc nãy.
'Thường thì trong trường hợp như thế này, tôi sẽ hỏi xem ông đang vui vẻ thế nào với chuyến thăm tới Margrave của chúng tôi", cô nói rồi nhìn tôi, căng thẳng, miệng mỉm cười.
Tôi không thể nghĩ ra câu trả lời. Tôi chỉ nhún vai. Rõ ràng Charlie không hề biết gì. Cô nghĩ chồng mình bị bắt do sự nhầm lẫn nào đó. Không phải bởi anh ta dính vào một vụ rắc rối vừa khiến cho hai người bị giết. Một trong hai người đó là anh trai của kẻ xa lạ đang được cô dành cho nụ cười. Roscoe đỡ lời tôi, rồi hai người bắt đầu buôn chuyện. Tôi chỉ ngồi đó, uống trà chờ Hubble. Anh ta không xuất hiện. Rồi cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi phải ra khỏi đây. Charlie sốt ruột như có việc gì đó phải làm. Roscoe đặt tay lên cánh tay tôi. Sự đụng chạm khiến tôi như bị điện giật.
"Ta đi thôi," cô nói. "Tôi sẽ chở anh quay lại thị trấn".
Tôi cảm thấy không ổn khi mình không ở lại chờ Hubble. Điều đó khiến tôi cảm thấy mình không trung thành với Joe. Nhưng tôi chỉ muốn được một mình bên Roscoe. Tôi rất muốn được như thế. Có lẽ nỗi đau buồn bị dồn nén đang khiến mong muốn đó mạnh lên. Tôi muốn để lại những vấn đề của Joe tới ngày mai. Tôi tự nhủ rằng dù sao cũng không có lựa chọn nào. Hubble đã không xuất hiện. Tôi chẳng thể làm gì khác. Thế nên chúng tôi cùng nhau trở lại chiếc Chevy và chạy theo lái chạy xe quanh co. Chạy theo phố Beckman. Đến cuối con phố dài một dặm này thì nhà cửa mọc dày hơn. Chúng tôi vòng qua nhà thờ. Bãi cỏ nhỏ với bức tượng Caspar Teale nằm ở phía trước.
"Reacher," Roscoe cất tiếng. "Anh sẽ ở đây một thời gian phải không? Cho tới khi chúng ta làm rõ chuyện này liên quan thế nào tới anh trai anh hả?"
"Tôi nghĩ là thế," tôi đáp.
"Anh sẽ ở đâu?" cô hỏi.
"Tôi không biết."
Nữ cảnh sát đánh xe vào lề đường gần bãi cỏ. Chuyển số sang chế độ Đỗ xe. Gương mặt cô thể hiện ánh nhìn nhẹ nhàng.
"Em muốn anh về nhà cùng em."
Tôi cảm thấy như mất trí, nhưng vì rất mong như thế nên tôi kéo Roscoe lại và chúng tôi hôn nhau. Nụ hôn đầu tuyệt vời. Khuôn miệng, mái tóc, mùi thơm và hương vị mới lạ. Roscoe hôn dài, mạnh mẽ, xoắn xuýt. Chúng tôi phải ngừng lấy hơi vài lần trước khi cô tiếp tục lái xe về nhà.
Roscoe phóng hết chừng một phần tư dặm theo một con phố mở ra phía đối diện với Beckman Drive. Khi cô bẻ lái vào con đường dẫn vào nhà, tôi trông thấy một vệt cỏ dưới nắng. Tiếng lớp xe rít lên khi cô dùng xe. Ít nhiều chúng tôi cũng hấp tấp ra khỏi xe lao về phía cửa. Roscoe lấy chìa mở khóa và cả hai bước vào. Cánh cửa sập lại, trước khi chốt cửa đóng lại thì chúng tôi đã ở trong vòng tay của nhau. Chúng tôi hôn nhau và loạng choạng tiến vào phòng khách.
Roscoe thấp hơn tôi chừng ba mươi phân, hai bàn chân đang rời khỏi mặt đất.
Chúng tôi giật hết quần áo của nhau ra như thể đang bị bén lửa. Roscoe tuyệt kinh khủng. Săn chắc, khỏe khoắn và đẹp như mơ. Lớp da mịn như lụa. Cô kéo tôi xuống sàn, qua những dải nắng nóng xuyên qua ô cửa sổ. Thật điên cuồng. Chúng tôi lăn lộn và chẳng gì có thể ngăn lại nổi. Cứ như đã đến ngày tận thế. Chúng tôi run lên rồi ngừng lại và nằm thở gấp. Cả hai đều đẫm mồ hôi. Hoàn toàn kiệt sức.
Chúng tôi nằm thở và vuốt ve nhau. Rồi Roscoe rời ra kéo tôi dậy. Chúng tôi hôn nhau lần nữa khi loạng choạng đi vào phòng ngủ. Roscoe kéo ga trải giường ra và cả hai ngã nhào xuống. Ôm nhau rồi chìm vào cơn đê mê sau khi làm chuyện ấy. Tôi thấy rã rời. Cảm giác như tất cả xương cốt và cơ bắp làm bằng cao su vậy. Tôi nằm trên chiếc giường lạ phiêu du tới một điểm còn hơn cả sự thư giãn. Tôi đang bay bổng. Cơ thể ấm áp của Roscoe rúc vào bên người tôi. Tôi hít thở qua mái tóc của cô. Bàn tay chúng tôi lười nhác vuốt ve những đường cong mới lạ.
Roscoe hỏi xem tôi muốn tìm một motel không. Hay ở cùng với cô. Tôi bật cười bảo rằng bây giờ cách duy nhất tống cổ được tôi là đến đồn mang về một cây súng trường xua tôi đi. Tôi còn bảo Roscoe rằng thậm chí biện pháp ấy cũng không hữu hiệu. Cô khúc khích cười và ép mình vào sát hơn.
"Em sẽ không lấy súng trường về đâu", cô thầm thì. "Em sẽ lấy về mấy chiếc còng. Em sẽ còng anh vào chân giường và giữ đó mãi mãi".
Chúng tôi ngủ đến hết buổi chiều. Đến bảy giờ tối tôi gọi cho Hubble. Anh ta vẫn chưa về. Tôi để lại số điện thoại của Roscoe cho Charlie và bảo cô dặn Hubble gọi cho tôi ngay khi về tới nhà. Rồi chúng tôi ngủ cả buổi tối. Đến nửa đêm thì ngủ rất say. Hubble chẳng hề gọi đến.
Sáng thứ Hai, tôi lờ mờ biết việc Roscoe dậy đi làm. Tôi nghe tiếng vòi hoa sen và biết cô nhẹ nhàng hôn mình, rồi căn nhà nóng, yên ắng, tĩnh lặng. Tôi ngủ tiếp tới chín giờ. Điện thoại không đổ chuông. Thế thì ổn. Tôi cần chút thời gian yên tĩnh để suy nghĩ. Tôi phải đưa ra các quyết định. Tôi duỗi chân tay trên chiếc giường ấm áp của Roscoe và bắt đầu trả lời câu hỏi vì sao tiếng nói rất nhỏ trong đầu lại đang hỏi tôi.
Tôi sẽ làm gì với chuyện của Joe?
Câu trả lời đến rất dễ dàng. Tôi biết là sẽ thế. Tôi biết nó đã chờ đợi từ lần đầu tiên tôi đứng cạnh thi thể giập nát của anh trong nhà xác. Đó là câu trả lời rất đơn giản. Tôi sẽ đứng lên vì anh. Tôi sẽ hoàn thành công việc của anh. Dù có là gì đi nữa. Dù phải trả giá thế nào.
Tôi không thấy trước bất kỳ khó khăn lớn nào. Hubble là mối liên hệ duy nhất tôi có, nhưng anh ta là mối liên hệ duy nhất tôi cần. Anh ta sẽ hợp tác. Anh ta đã dựa vào Joe để giúp mình thoát ra. Giờ thì anh ta dựa vào tôi. Người này sẽ mang lại thứ tôi cần. Thế lực thao túng anh ta dễ bị lộ trong một tuần. Hubble đã nói gì nhỉ? Một ô cửa dễ bị tấn công bây giờ lại mở rộng cho tới tận Chủ nhật? Tôi sẽ sử dụng ô cửa đó để xé xác chúng. Tôi đã quyết, không thể làm cách nào khác. Tôi không thể nhường việc này cho Finlay.
Finlay không hiểu tất cả những năm tháng lịch sử đó. Finlay sẽ không ra những đòn trừng phạt thích đáng. Finlay không thể hiểu nổi sự thật đơn giản tôi đã học được từ lúc bốn tuổi: đừng có đụng vào anh tôi
. Thế nên đây là việc của tôi. Giữa tôi và Joe. Đó là nhiệm vụ.
Tôi nằm trên chiếc giường ấm áp của Roscoe mà nghiên cứu phương án. Đó sẽ là một tiến trình đơn giản. Đơn giản nhất có thể. Kiểm soát Hubble không khó. Tôi biết nơi anh chàng đang sống. Tôi biết số điện thoại của anh ta. Tôi duỗi người, mỉm cười, tràn đầy nguồn sinh lực không bao giờ cạn kiệt. Ra khỏi giường thì thấy cà phê. Có một mẩu giấy dựng tựa vào ấm. Mẩu giấy ghi: Ăn trưa sớm ở tiệm Eno nhé? Mười một giờ được không? Để Hubble lại cho Finlay được không? Mẩu giấy có chữ ký cùng nhiều nụ hôn và một hình nhỏ vẽ chiếc còng tay. Tôi đọc và mỉm cười khi nhìn hình vẽ, nhưng tôi sẽ không để Hubble lại cho Finlay. Không được. Hubble là việc của tôi. Thế nên tôi xem số điện thoại lần nữa và gọi đến Beckman Drive. Chẳng có ai ở nhà.
Tôi rót một cốc cà phê lớn rồi bước ra phòng khách. Bên ngoài mặt trời chói lóa. Lại một ngày nóng nữa. Tôi dạo khắp nhà. Đây là căn nhà nhỏ. Một phòng khách, một bếp kiêm phòng ăn, hai phòng ngủ, một phòng tắm và một phòng vệ sinh. Rất mới, rất sạch. Trang trí theo phong cách đơn giản, dịu nhẹ. Là điều tôi nghĩ sẽ có ở Roscoe. Phong cách đơn giản, dịu nhẹ. Phong cách nghệ thuật Navajo dễ chịu, vài thảm dày, tường sơn trắng. Chắc chắn Roscoe đã từng đến New Mexico và thích nơi đó.
Nhà tĩnh lặng, yên ắng. Roscoe có một bộ dàn nghe nhạc, vài đĩa hát cùng vài băng nhạc, nghe ngọt ngào và du dương hơn thứ gào rú ồn ào mà tôi gọi là âm nhạc. Tôi lấy thêm cà phê ở bếp. Trở lại phía sau. Ngoài này có một khoảng sân nhỏ, một trảng cỏ be bé và vài cây thường xuân mới trồng, vỏ cây vụn để ngăn cỏ dại, khu trồng cây được bao bọc bởi gỗ mộc. Tôi đứng trong nắng nhấp cà phê.
Rồi tôi trở vào trong thử gọi cho Hubble lần nữa. Không có người nhấc máy. Tôi tắm rồi mặc quần áo. Roscoe có một bồn tắm đứng loại nhỏ, vòi đặt thấp, xà phòng tắm cho nữ để trong đĩa. Tôi tìm thấy một chiếc khăn tắm trong tủ đồ và chiếc lược trên bàn trang điểm. Không có dao cạo. Tôi mặc đồ rồi xả sạch chiếc cốc uống cà phê. Thử gọi tới số điện thoại nhà
Hubble lần nữa bằng điện thoại trong bếp. Tôi để máy đổ chuông một lúc lâu. Không ai ở nhà. Tôi tính là sau bữa trưa sẽ nhờ xe Roscoe tới đó. Chuyện này sẽ không thể kéo dài mãi được. Tôi khóa cửa sau lại và đi ra cửa trước.
Lúc này khoảng 10 giờ 30. Cách tiệm ăn Eno hơn một dặm. Chặng đường mất khoảng nửa tiếng đi bộ thư thả trong nắng. Trời đã rất nóng. Đã phải tới trên hai bảy độ. Thời tiết mùa thu huy hoàng ở miền Nam. Tôi cuốc bộ một phần tư dặm theo con đường dốc hơi uốn khúc tới Phố Chính. Mọi thứ đều được tỉa tót đẹp đẽ. Nơi nào cũng có những cây mộc lan cao vút, những bụi hoa nở muộn.
Tôi rẽ ở cửa hàng tiện ích và đi lên Phố Chính. Vỉa hè đã được quét. Tôi có thể thấy những nhóm công nhân làm vườn ở công viên nhỏ. Họ đang xếp bình phun và dùng xe đẩy chuyển đồ ra khỏi những chiếc xe tải màu xanh in dòng chữ Quỹ Klmer màu vàng. Vài người đang sơn hàng rào cọc nhọn. Tôi vẫy tay chào hai ông thợ cắt tóc già trong cửa hàng. Họ đang tì người phía trong cửa, như đang đợi khách. Hai ông vẫy tay chào lại, tôi tiếp tục bước.
Tiệm Eno hiện ra trước mắt. Lớp ốp ngoài bằng nhôm được đánh bóng lấp lánh dưới nắng. Chiếc Chevrolet đang nằm trong bãi đỗ. Bên cạnh, trên nền sỏi là chiếc bán tải đen hôm qua tôi đã trông thấy bên ngoài tiệm cà phê. Tôi tới tiệm đẩy cửa bước vào. Tôi đã bị giải ra qua cửa này hôm thứ Sáu, với mũi súng trường của Stevenson chĩa vào bụng. Tôi đã bị còng. Tôi tự hỏi liệu người của quán có nhớ không. Có lẽ họ nhớ. Margrave là nơi rất yên ả. Không có nhiều người lạ qua đây.
Roscoe đang ngồi ở chính cái ghế tôi ngồi hôm thứ Sáu. Cô đã trở lại với bộ cảnh phục và trông như người phụ nữ gợi cảm nhất trái đất. Tôi bước tới chỗ Roscoe. Cô ngước lên dành cho tôi nụ cười dịu dàng còn tôi cúi người hôn môi nữ cảnh sát. Roscoe lướt người qua bàn nhựa vinyl về phía cửa sổ. Trên bàn có hai tách cà phê. Tôi chuyển tách của Roscoe sang bên kia bàn.
Gã lái chiếc xe bán tải đen đang ngồi ở quầy ăn trưa. Thằng con nhà Kliner, con ghẻ của người phụ nữ có nước da tái nhợt. Hắn xoay chiếc ghế cao đang ngồi để quay lưng lại với quầy phục vụ. Tên này ngồi giạng hai chân, chống hai khuỷu tay lên, đầu ngẩng, hai mắt rực lên một lần nữa chằm chằm nhìn tôi. Tôi xoay lưng về phía hắn và lại hôn Roscoe.
"Liệu chuyện này có hủy hoại quyền lực của em không?" tôi hỏi nữ cảnh sát. "Khi bị người ta trông thấy hôn một gã vô gia cư bị bắt tại đây hôm thứ Sáu?"
"Có lẽ có," cô đáp. "Nhưng ai quan tâm chứ?"
Thế nên tôi hôn lần nữa. Con trai nhà Kliner đang quan sát. Tôi có thể cảm nhận được cái nhìn ở gáy mình. Tôi xoay người nhìn lại hắn. Hắn giữ ánh nhìn ở tôi chừng một giây rồi tuột xuống ghế bỏ đi. Dừng lại ở cửa và trừng trừng nhìn tôi lần cuối cùng. Rồi hắn vội vã đến bên chiếc xe bán tải của mình và lái đi. Tôi nghe tiếng gầm của động cơ, rồi tiệm ăn lại yên tĩnh. Có thể nói nơi này trống trơn, hệt như hôm thứ Sáu. Hai ông già và hai nữ phục vụ. Vẫn là hai cô phục vụ hôm thứ Sáu. Tóc vàng, một người cao lớn hơn người còn lại. Đồng phục của nữ nhân viên phục vụ. Người thấp hơn đeo kính. Không phải y đúc nhau nhưng cũng nhang nhác giống. Như chị em ruột hay chị em họ. Cùng gốc gác ở nơi nào đó. Một thị trấn nhỏ, ở nơi xa xôi.
"Anh đã quyết định", tôi nói. "Anh phải tìm hiểu chuyện đã xảy ra với Joe. Thế nên anh chỉ muốn xin lỗi trước, đề phòng việc ấy ảnh hưởng tới công việc của em, được chứ?"
Roscoe nhún vai và lại nở một nụ cười dịu dàng. Trông có vẻ lo cho tôi.
"Sẽ không ảnh hưởng gì đâu", cô nói. "Chẳng có lý nào lại như thế cả."
Tôi nhấp cà phê. Cà phê ngon. Tôi nhớ hôm thứ Sáu vừa rồi cũng vậy.
"Bọn em đã có danh tính của người thứ hai," cô nói "Các dấu vân tay của anh ta khớp với một vụ bắt giữ cách đây hai năm ở Florida. Tên anh ta là Sherman Stoller. Cái tên đó có ý nghĩa gì với anh không?"
Tôi lắc đầu.
"Chưa bao giờ nghe nói tới anh ta cả," tôi nói.
Rồi máy nhắn tin của Roscoe đổ chuông. Đó là loại máy nhắn tin nhỏ màu đen cài vào thắt lưng. Trước đây tôi không thấy. Có lẽ cô chỉ bị yêu cầu sử dụng trong giờ làm việc. Nó đang đổ chuông. Roscoe vòng tay tắt đi.
"Chết tiệt", cô nói. "Em phải gọi về đồn. Xin lỗi nhé. Em sẽ dùng điện thoại trong xe."
Tôi chuồi người khỏi ghế để nhường lối cho Roscoe ra.
"Gọi cho em chút đồ ăn, được không?" cô hỏi. "Em sẽ ăn bất kỳ món gì anh dùng."
"Được", tôi nói. "Em chọn cô nào làm người phục vụ bọn mình?"
"Cô đeo kính ấy," Roscoe đáp.
Cô bước ra khỏi tiệm. Tôi có thể nhìn thấy cô khom người nhoài vào trong xe để gọi điện thoại. Rồi từ ngoài bãi đỗ, Roscoe ra hiệu gọi tôi. Ra dấu khẩn cấp. Rằng cô phải trở về đồn. Rằng tôi nên ở yên đây. Roscoe nhảy vào xe lái đi, về phía Nam. Tôi mơ hồ vẫy tay chào, không thực sự nhìn theo bởi tôi đang chằm chằm nhìn cô phục vụ. Tôi hầu như ngừng thở. Tôi cần Hubble. Vậy mà Roscoe lại vừa mới nói với tôi rằng anh ta đã chết.