• 341

Chương 12


Số từ: 3012
Dịch giả: Trần Quý Dương
C.ty Nhã Nam phát hành
NXB Thời Đại
Tôi cẩn thận quan sát Finlay, cố gắng quyết định xem mình nên tin ông ta ở mức nào. Đây sẽ là quyết định mang tính sống còn. Cuối cùng tôi cho là câu trả lời của ông đối với một câu hỏi đơn giản sẽ giúp tôi ra quyết định.
"Bây giờ họ sẽ cho ông làm đồn trưởng chứ?" tôi hỏi.
Ông ta lắc đầu.
"Không," viên thám tử nói. "Họ sẽ không đưa tôi lên làm đồn trưởng."
"Ông chắc chắn về chuyện đó không?"
"Chắc chắn."
"Quyết định của ai?"
"Của thị trưởng," Finlay đáp. "Thị trưởng thị trấn chỉ định người đứng đầu đồn cảnh sát. Ông ta đang tới đây. Một tay tên là Teale. Một gia đình lâu đời ở bang Georgia. Tổ tiên là một trùm đường sắt sở hữu mọi thứ trong tầm mắt ở khu vực này."
"Đó là tay các ông dựng tượng hả?" tôi hỏi.
Finlay gật đầu.
"Caspar Teale," ông nói. "Ông ấy là người đầu tiên. Từ đó tới nay người ta đều chọn lãnh đạo là người của dòng họ Teale. Viên thị trưởng này phải là chắt hay gì đó."
Tôi đang ở giữa một bãi mìn. Tôi cần tìm đường quang chạy qua bãi này.
"Chuyện về tay Teale này thế nào?" tôi hỏi Finlay.
Viên cảnh sát nhún vai, cố tìm cách giải thích.
"Lão chỉ là một tay người miền Nam khốn kiếp", ông nói. "Một gia đình lâu đời ở Georgia, có lẽ một thế hệ lâu đời của những tay miền Nam khốn nạn. Họ đã nắm chức thị trưởng nơi này ngay từ đầu. Tôi dám nói rằng tay này tồi tệ không kém gì những kẻ còn lại."
"Ông ta đau buồn không?" tôi hỏi. "Khi ông gọi cho ông ta thông báo vụ Morrison ấy?"
"Lo lắng, tôi nghĩ thế," Finlay đáp. "Ông ta ghét tình trạng rối ren."
"Tại sao ông ta không chỉ định ông làm đồn trưởng? Ông là người có thâm niên, đúng không?"
"Ông ta nhất định không làm thế," Finlay nói. "Tại sao không lại là chuyện của tôi."
Tôi quan sát đội trưởng thám tử một lúc lâu. Sống còn.
"Ta có thể đi đâu nói chuyện chút chứ?"
Đội trưởng thám tử nhìn tôi từ phía bên kia bàn.
"Ông đã nghĩ rằng Hubble bị giết, phải không?" Finlay hỏi. "Tại sao thế?"
"Hubble đã bị giết," tôi nói. "Việc Morrison cũng bị giết không làm thay đổi chuyện đó."
Chúng tôi đi bộ tới cửa hàng tiện ích. Ngồi cạnh nhau ở quầy trống gần cửa sổ. Tôi ngồi đúng chỗ bà Kliner da tái nhợt đã ngồi hôm tôi có mặt ở đây. Chuyện đó dường như diễn ra lâu lắm rồi. Kể từ khi ấy thế giới đã thay đổi. Chúng tôi gọi hai cốc cà phê cao ngất ngưởng và một đĩa bánh rán to. Không nhìn thẳng vào nhau. Chúng tôi nhìn nhau qua tấm gương lớn phía sau quầy.
"Tại sao ông sẽ không được thăng chức?" tôi hỏi.
Hình phản chiếu của Finlay trong gương nhún vai. Ông trông bối rối. Ông không thể hiểu được mối liên hệ bí ẩn kia. Nhưng đội trưởng thám tử sẽ sớm biết được điều đó.
"Lẽ ra tôi phải được thăng chức," ông nói. "Tôi đủ tiêu chuẩn hơn tất cả những người còn lại gộp vào. Tôi đã công tác hai mươi năm ở một thành phố lớn. Một cơ quan cảnh sát thực sự. Còn họ đã làm đếch gì chứ? Cứ thử nhìn Baker xem. Anh ta tự cho mình là một tay khôn ngoan. Nhưng anh ta đã làm gì nào? Mười lăm năm ở vùng khỉ ho cò gáy à? Ở vùng hẻo lánh này hả? Anh ta thì biết chó gì?"
"Vậy tại sao ông lại không được lên chức?"
"Đó là vấn đề riêng tư," Finlay nói.
"Ông nghĩ tôi sẽ bán tin ấy cho báo chí à?"
"Một câu chuyện dài đấy."
"Vậy hãy kể cho tôi", tôi nói 'Tôi cần biết"
Finlay nhìn tôi trong gương. Hít một hơi sâu.
"Tôi kết thúc công việc ở Boston hồi tháng Ba", ông nói. 'Tính đến khi ấy là làm việc được hai mươi năm. Hồ sơ không chút tì vết. Tám lần được khen thưởng. Tôi là một tay thám tử oách đấy, Reacher. Tôi có thể về hưu một cục. Nhưng khi ấy vợ tôi lại giở chứng ra. Từ mùa thu năm ngoái cô ấy không còn mặn mà với cuộc hôn nhân của chúng tôi nữa. Thật mỉa mai. Chúng tôi đã cưới nhau được cả hai chục năm. Tôi thì chuẩn bị nghỉ hưu. Sở cảnh sát Boston là cái nhà thương điên. Chúng tôi làm việc bảy ngày trong tuần. Cả ngày lẫn đêm. Xung quanh tôi, nhiều đồng nghiệp chứng kiến hôn nhân của họ sụp đổ. Tất cả đều ly dị. Hết người này tới người khác."
Finlay dừng lại làm một ngụm dài cà phê, cắn một miếng bánh rán.
"Nhưng không phải tôi," ông nói. "Vợ tôi có thể chịu đựng được. Không bao giờ ca thán, không một lần nào. Cô ấy là phép màu. Không bao giờ gây khó dễ cho tôi."
Đội trưởng thám tử lại rơi vào im lặng. Tôi nghĩ về hai mươi năm ở Boston. Làm việc chạy đua với thời gian trong thành phố cũ tấp nập ấy. Những đồn khu vực từ thế kỷ mười chín đầy bụi. Các cơ sở quá tải. Áp lực liên tục. Và một chuỗi không ngừng những kẻ quái dị, bất lương, các chính trị gia, các rắc rối. Finlay đã phải làm tốt mới có thể tồn tại.
"Chuyện bắt đầu từ mùa thu năm ngoái," ông nhắc lại thời điểm. "Chúng tôi còn sáu tháng nữa là kết thúc. Mọi chuyện chuẩn bị kết thúc hoàn toàn. Có lẽ khi ấy chúng tôi đang nghĩ tới một căn buồng ở đâu đó. Những ngày nghỉ. Rất nhiều thời gian bên nhau. Nhưng cô ấy bắt đầu hoảng sợ. Cô ấy không muốn nhiều thời gian bên nhau. Cô ấy không muốn tôi nghỉ hưu. Cô ấy không muốn tôi ở nhà. Cô ấy bảo rằng hằng ngày cô ấy thức giấc với một thực tế là cô ấy không thích tôi. Không yêu tôi. Không muốn tôi ở bên. Cô ấy yêu hai mươi năm đó. Không muốn nó thay đổi. Tôi không thể tin nổi chuyện ấy. Đó đã là giấc mơ của tôi. Hai mươi năm, rồi nghỉ hưu ở tuổi bốn mươi lăm. Rồi có lẽ hai mươi năm nữa hưởng thụ cuộc sống bên nhau trước khi bọn tôi già, ông hiểu chứ? Đó là giấc mơ của tôi và tôi đã làm việc suốt hai mươi năm để hướng về giấc mơ ấy. Nhưng cô ấy không muốn có nó. Cô ấy kết thúc bằng việc nói rằng ý nghĩ về hai mươi năm nữa cùng tôi trong một căn buồng trong rừng khiến cô ấy nổi da gà. Chuyện trở nên thực sự cay đắng. Chúng tôi chia tay. Tôi thực sự trở thành kẻ hứng chịu cú sốc thần kinh."
Finlay lại nhỏ giọng dần. Chúng tôi lấy thêm cà phê. Đây quả là câu chuyện buồn. Chuyện về những giấc mơ tan vỡ luôn thế.
"Thế nên chúng tôi ly dị thôi", viên thám tử nói. "Chẳng thể làm khác được. Cô ấy yêu cầu làm thế. Thật kinh khủng. Tôi hoàn toàn suy sụp. Rồi trong tháng cuối cùng làm việc ở sở, tôi bắt đầu đọc lại danh sách của công đoàn liệt kê các vị trí còn trống. Thấy công việc ở đây. Tôi gọi cho một anh bạn cũ ở FBI Atlanta và hỏi anh ta về công việc đó.
Anh ấy ngăn tôi. Bảo là quên nó đi. Anh ấy bảo rằng đây chỉ là một đồn cảnh sát làm trò chơi của một thị trấn thậm chí chẳng có trên bản đồ. Vị trí được gọi là đội trưởng thám tử nhưng chỉ có một thám tử. Người trước đó giữ vị trí này là một tay lập dị đã tự treo cổ. Đồn do một tên béo khốn kiếp điều hành. Thị trấn thì nằm dưới quyền một lão già Georgia chẳng thể nhớ rằng chế độ chiếm hữu nô lệ đã bị xóa sổ. Anh bạn tôi ở Atlanta bảo hãy quên nó đi. Nhưng khi ấy tôi chán đời đến mức muốn nhận công việc đó. Tôi nghĩ tôi có thể chôn vùi mình ở dưới này, coi đó là một hình phạt ông hiểu không? Một kiểu sám hối. Mà tôi cũng cần tiền nữa. Họ chào mời lương rất cao, tôi thì phải xem xét tiền chu cấp cho vợ và các hóa đơn của luật sư, ông biết chứ? Thế nên tôi nộp đơn và xuống đây. Chính thị trưởng Teale và Morrison gặp tôi. Tôi là một tên bị sốc tinh thần, Reacher. Tôi là kẻ tàn phế. Tôi nói lắp ba lắp bắp. Đó hẳn phải là trường hợp xin việc tệ hại nhất trong lịch sử thế giới. Hẳn là tôi đã xuất hiện như một tên đần độn. Nhưng bọn họ đã giao cho tôi vị trí ấy. Tôi đoán là họ cần một tên da đen để tỏ vẻ tử tế. Tôi là cảnh sát da đen đầu tiên trong lịch sử Margrave."
Tôi xoay chiếc ghế và nhìn thẳng vào Finlay.
"Vậy ông cho rằng mình chỉ là bù nhìn thôi sao?" tôi nói. "Đó là lý do Teale sẽ không đưa ông lên làm đồn trưởng à?"
"Tôi đoán rõ ràng là thế. Ông ta đã ghi nhận tôi là một tên bù nhìn và một thằng đần độn. Không thăng chức. Dễ hiểu theo cách nào đó. Dù là bù nhìn hay không thì cũng không thể tin được là họ giao ngay công việc ấy cho tôi".
Tôi vẫy tay gọi anh chàng trông quầy tính tiền. Tôi vui với câu chuyện của Finlay. Ông sẽ không làm đồn trưởng.
Thế nên tôi tin tưởng ông. Và tôi tin Roscoe. Sẽ là ba chúng tôi, chống lại bọn xấu, dù đó là kẻ nào. Tôi lắc đầu với Finlay trong gương.
"Ông lầm rồi", tôi nói. "Đó không phải lý do thực sự. Ông sẽ không làm đồn trưởng bởi ông không phải một tên tội phạm."

Tôi trả một tờ mười đô và lấy tiền trả lại toàn là đồng 25 xu. Anh chàng bán hàng vẫn không có tờ tiền giấy nào.
Rồi tôi nói với Finlay rằng muốn xem nơi ở của Morrison. Bảo ông rằng tôi cần toàn bộ chi tiết. Đội trưởng thám tử chỉ gật đầu dẫn tôi ra ngoài. Chúng tôi rẽ về phía Nam. Qua bãi cỏ, bỏ lại thị trấn phía sau lưng.
'Tôi là người đầu tiên có mặt ở đó," Finlay nói. "Chừng mười giờ sáng nay. Tôi đã không gặp Morrison từ hôm thứ Sáu, tôi cần cập nhật thông tin cho anh ta nhưng không thể liên hệ qua điện thoại. Lúc ấy đã là nửa buổi sáng thứ Hai mà chúng tôi chưa làm được gì ra hồn về vụ án mạng khiến hai người chết kể từ đêm thứ Năm. Chúng tôi cần khởi động công việc. Thế nên tôi tới nhà Morrison tìm anh ta."
Viên thám tử im lặng bước tiếp. Đầu hồi tưởng lại hiện trường ông đã thấy.
"Cửa trước vẫn để mở," ông nói. "Có lẽ chừng một phân. Có cảm giác không ổn. Tôi bước vào, trông thấy họ trên gác, trong phòng ngủ lớn. Cứ như là cửa hàng bán thịt ấy. Máu tung tóe khắp nơi. Anh ta bị đóng đinh vào tường, kiểu như treo lên. Cả anh ta và vợ đều bị xẻo thịt. Thật kinh khủng. Phân hủy khoảng hai mươi tư giờ rồi. Thời tiết ấm. Rất ghê. Thế nên tôi gọi toàn bộ lực lượng, chúng tôi cùng rà từng ly một và nhặt hết các mảnh lại. Nói thực là tôi sợ." Finlay lại nói nhỏ dần. Chỉ im lặng.
"Vậy là chuyện đó xảy ra vào sáng Chủ nhật à?" tôi hỏi.
Finlay gật đầu.
"Báo ngày Chủ nhật còn trên bàn trong bếp," ông nói. "Vài tờ đã mở, phần còn lại chưa động tới. Đồ ăn sáng vẫn trên bàn. Bác sĩ pháp y nói rằng thời điểm là khoảng mười giờ sáng Chủ nhật."
"Có để lại bằng chứng cụ thể không?"
Finlay gật đầu. Buồn bã.
"Các dấu chân trong máu", ông nói. "Nơi ấy như một vũng máu. Vài gallon máu. Tất nhiên là tới giờ thì đã khô một phần. Chúng để lại dấu chân khắp nơi. Nhưng bọn chúng đi giày bao ngoài bằng cao su, ông biết chứ? Như loại ông dùng ở miền Bắc trong mùa đông ấy? Chẳng có cơ hội xác minh qua loại giày ấy. Hàng năm người ta phải bán ra vài triệu đôi."
Bọn chúng đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Chúng biết trước rằng sẽ có rất nhiều máu. Chúng đã mang theo giày bao ngoài. Chắc chắn chúng đã đem theo đồ bảo hộ. Như những bộ đồ toàn thân bằng nylon người ta mặc trong các trại giết mổ. Ở tầng giết gia súc. Những bộ đồ toàn thân to màu trắng bằng nylon, có mũ trùm, lớp nylon trắng lấm tấm vấy những vệt máu đỏ tươi.
"Bọn chúng đi găng tay nữa," Finlay nói. "Ở máu trên tường có những vệt mang dấu vết của cao su."
"Có bao nhiêu tên?" tôi hỏi. Tôi cố gắng hình dung ra cảnh ấy.
"Bốn. Các dấu chân lẫn lộn nhưng tôi nghĩ mình có thể thấy bốn tên",
Tôi gật đầu. Bốn tên nghe có vẻ hợp lý. Tôi cho đó là con số tối thiểu. Morrison và vợ sẽ đấu tranh giành giật sự sống. Bọn chúng phải có ít nhất bốn tên. Bốn trong số mười tên mà Hubble đã nói tới.
"Phương tiện gì?" tôi hỏi tiếp.
"Không thể nói chắc chắn", Finlay đáp. "Lối chạy xe rải sỏi, đôi chỗ hằn vệt bánh xe. Có lẽ tôi đã thấy một số vệt bánh lớn trông còn mới. Có thể là loại lốp rộng. Có khi là một xe tải nhỏ hoặc xe truyền động bốn bánh loại lớn."
Còn chừng vài trăm mét lên phía Bắc nữa thì hết Phố
Chính. Cả hai rẽ về phía Tây, theo một đường rải sỏi chắc chắn phải song song với Beckman Drive. Cuối con đường là nhà của Morrison. Đây là ngôi nhà lớn trang trọng, phía trước có các cột trắng, điểm xuyết những hàng cây thường xuân trông đối xứng nhau. Có một chiếc Lincoln mới đậu gần cửa, khá nhiều băng phong tỏa hiện trường của cảnh sát cao ngang hông chăng giữa các cột.
"Ta vào trong đó chứ?"
"Sao lại không chứ!" tôi nói.

Chúng tôi khom người chui qua dải băng đi vào cửa trước nhà Morrison. Căn nhà là một bãi hỗn độn. Phấn kim loại màu xám để phát hiện dấu vân tay rắc khắp nơi. Mọi thứ đều bị lật, lục soát và chụp ảnh.
"Ông sẽ không tìm thấy gì đâu", Finlay nói. "Chúng tôi đã rà toàn bộ nơi này rồi",
Tôi gật đầu rồi hướng về phía cầu thang. Đi lên thấy phòng ngủ lớn. Dừng lại ở cửa ngó vào. Chẳng có gì để ngó trừ những đường đứt nét hình thành từ vết đinh đóng trên tường cùng những vệt máu khổng lồ. Máu đang chuyển thành màu đen. Trông như ai đó đã hắt những thùng hắc ín khắp nơi. Lớp thảm bết loại hắc ín này. Trên lớp sàn gỗ ở lối vào, tôi có thể trông thấy những dấu vết do giày bao ngoài để lại. Tôi có thể nhận rõ kiểu phức tạp trong những dấu chân này. Tôi quay xuống cầu thang thì thấy Finlay đang dựa vào một cây cột ngoài hiên trước.
"Ổn chứ?" ông hỏi tôi.
"Không có gì phàn nàn," tôi nói. "Ông lục soát xe hơi chưa?"
Đội trưởng thám tử lắc đầu.
"Đó là xe của Morrison," ông đáp. "Chúng tôi chỉ tìm kiếm những gì có thể bọn đột nhập đã để lại".
Tôi bước tới chiếc Lincoln thử mở cửa. Không khóa.
Bên trong có mùi khá mạnh của xe còn mới, ngoài ra không có thêm gì nhiều. Đây là xe của một đồn trưởng. Nó sẽ không đầy giấy gói bánh thịt băm trộn pho mát và vỏ lon soda như xe của một cảnh sát tuần tra. Nhưng tôi vẫn kiểm tra. Lục lọi các hốc trên cửa và dưới ghế ngồi. Chẳng tìm thấy gì. Rồi tôi mở ngăn đựng găng tay thì thấy một thứ. Một con dao bấm tự động. Đây là món đồ hay. Cán làm bằng gỗ mun khắc tên Morrison mạ vàng. Tôi bật lưỡi dao. Hai lưỡi, dài chừng bốn phân, chất thép làm dao phẫu thuật của Nhật Bản. Trông tốt. Mới tinh, chưa bao giờ sử dụng. Tôi gập dao lại đút vào túi. Tôi không được trang bị gì và đang đối mặt với rắc rối lớn. Con dao bấm của Monison có thể tạo sự khác biệt. Tôi chuồi người ra khỏi chiếc Lincoln gặp lại Finlay ở ngoài sân rải sỏi.
"Tìm thấy gì không?" ông hỏi.
"Không," tôi đáp. "Ta đi thôi."
Chúng tôi cùng lạo xạo quay ra theo con đường rải sỏi và rẽ về phía Bắc theo tỉnh lộ. Hướng trở lại thị trấn. Tôi có thể trông thấy gác chuông nhà thờ cùng bức tượng đồng ở phía xa, đang chờ đợi chúng tôi.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Reacher báo thù.