Chương 15
-
Reacher báo thù
- Lee Child
- 5202 chữ
- 2020-05-09 04:18:57
Số từ: 5190
Dịch giả: Trần Quý Dương
C.ty Nhã Nam phát hành
NXB Thời Đại
Tôi chạy về phía Warburton nhanh hơn nhiều so với tài xế lái xe chuyển tù bữa trước và chưa đến năm mươi phút sau đã có mặt ở đó. Một cơn giông đang nhanh chóng kéo đến từ phía Tây, những tia sáng của mặt trời thấp buổi chiều đang trốn khỏi những đám mây và lao xuống nhà tù. Các chòi canh cùng tháp kim loại lấp lánh đang bắt lấy những tia màu cam. Tôi chạy chậm lại rồi rẽ vào đường dẫn vào nhà tù. Dừng lại bên ngoài cái lồng di động bằng thép đầu tiên. Tôi sẽ không vào trong đó. Tôi chịu đựng nơi đó đã đủ rồi. Tôi ra khỏi chiếc Bentley bước tới phía người gác. Anh ta có vẻ đủ thân thiện.
"Spivey có trực không?" tôi hỏi.
"Anh muốn gặp anh ta à?"
"Hãy nói với anh ta rằng ông Reacher đang ở đây."
Tay gác chui vào một mái che Perspex gọi điện thoại. Lại chui ra hét lên với tôi. "Anh ta không biết ông Reacher nào cả."
"Bảo anh ta rằng đồn trưởng Morrison cử tôi đến", tôi nói. "Từ Margrave."
Tay gác lại chui vào mái che Perspex và bắt đầu nói chuyện. Sau một phút anh chàng chui ra.
"OK, đánh xe qua đi," anh ta bảo. "Spivey sẽ gặp anh ở khu đón tiếp."
"Bảo anh ta rằng anh ta phải ra đây. Gặp tôi trên đường."
Tôi bước ra đứng trên đám bụi ở rìa mặt đường nhựa. Đây là một cuộc đấu trí. Tôi dám cá rằng Spivey sẽ mò ra. Tôi sẽ biết điều đó trong năm phút nữa. Tôi chờ đợi. Tôi có thể ngửi thấy mùi mưa đang từ phía Tây lan tới. Một giờ nữa nó sẽ kéo tới ngay trên đầu chúng tôi.
Spivey ra. Tôi nghe tiếng những lưới sắt của chiếc lồng thép nghiến ken két. Tôi quay lại thấy một chiếc Ford bẩn thỉu chạy ra. Nó chạy qua cổng rồi dừng lại cạnh chiếc Bentley. Spivey lê người khỏi xe. Hắn bước lại. Tên béo đang đổ mồ hôi, mặt và tay đỏ lựng. Bộ sắc phục bẩn thỉu.
"Nhớ tôi chứ?" tôi hỏi.
Đôi mắt rắn ti hí đảo quanh. Tên trợ lý giám sát dáo dác lo lắng.
"Ông là Reacher à? Có chuyện gì thế?"
"Đúng," tôi nói. "Tôi là Reacher. Hôm thứ Sáu. Thỏa thuận là thế nào?"
Spivey chuyển chân đứng. Hắn đang tỏ ra khó chơi. Nhưng tên này đã để lộ bàn tay bẩn thỉu. Hắn đã ra ngoài gặp tôi. Tên béo đã thua trong cuộc chơi này. Nhưng hắn không nói gì.
"Thỏa thuận hôm thứ Sáu là thế nào?" tôi nhắc lại.
"Morrison chết rồi", Spivey nói. Rồi hắn nhún vai mím chặt đôi môi. Không nói thêm gì.
Tôi bước về bên trái một cách tự nhiên. Chỉ chừng ba mươi phân, để cho tấm thân đồ sộ của Spivey chắn giữa tôi và tay gác. Để người khác không thể trông thấy. Chiếc dao bấm tự động của Morrison xuất hiện trong tay tôi. Tôi đưa nó lên ngang tầm mắt Spivey chừng một giây. Chỉ vừa đủ lâu cho hắn trông thấy những chữ khắc vàng trên cán gỗ gụ. Rồi lưỡi dao bật ra với một tiếng tách mạnh. Đôi mắt rắn của Spivey dán chặt vào đó.
"Mày nghĩ là tao đã sử dụng thứ này với Morrison chứ?" tôi nói.
Spivey chằm chằm nhìn lưỡi dao. Dưới ánh nắng của cơn giông, nó có màu xanh nước biển.
"Đó không phải ông," hắn nói. "Nhưng có lẽ ông có lý do thích hợp."
Tôi mỉm cười với Spivey. Hắn biết tôi không phải kẻ giết Morrison. Vậy là tên béo đã biết kẻ nào làm việc ấy. Vì thế hắn biết bọn chủ của Morrison là ai. Đơn giản thế. Chỉ vài từ là tôi sẽ biết được. Tôi gí lưỡi dao vào sát bộ mặt đỏ lựng của Spivey.
"Muốn tao sử dụng thứ này với mày không?" tôi hỏi.
Spivey dáo dác liếc quanh. Trông thấy người gác cách đó ba mươi mét.
"Anh ta sẽ không giúp mày đâu," tôi bảo. "Anh ta ghét cái thân bị thịt vô dụng của mày. Anh ta chỉ là một người gác. Mày liếm đít kẻ khác để được thăng tiến. Nếu mày dính lửa anh ta cũng chẳng đái vào người mày đâu. Tại sao anh ta phải làm thế chứ?"
"Thế ông muốn gì?" Spivey hỏi.
'Thứ Sáu. Thỏa thuận hôm đó là gì?"
"Nếu tôi nói cho ông thì thế nào?"
Tôi nhún vai.
"Còn tùy thuộc vào điều mày nói cho tao. Nói cho tao biết sự thật, tao sẽ để mày vào trong kia. Muốn nói cho tao sự thật không?"
Gã trợ lý giám sát không trả lời. Chúng tôi chỉ đứng bên cạnh đường. Cuộc đấu thần kinh. Thần kinh tên béo đã nhũn ra rồi. Thế nên hắn sắp thua. Hai con mắt ti hí đảo qua đảo lại. Chúng luôn trở về với lưỡi dao.
"Được rồi, tôi sẽ nói cho ông," tên béo nói. 'Thi thoảng tôi giúp cho Morrison. Hôm thứ Sáu ông ấy gọi cho tôi. Bảo là sẽ gửi tới hai người. Tên không có ý nghĩa gì với tôi. Chưa bao giờ nghe nói tới ông hay người kia. Tôi phải dàn xếp để gã Hubble bị giết. Tất cả là thế. Không dàn xếp chuyện gì xảy ra với ông, tôi thề là thế."
"Vậy chuyện gì đã hỏng?"
"Bọn người của tôi đã làm sai. Tất cả chỉ có thế, tôi thề đấy. Người còn lại mới là kẻ chúng tôi quan tâm. Không dàn xếp chuyện gì xảy ra với ông. Ông đã ra khỏi đó, đúng không? Không bị thiệt hại gì, đúng không? Vậy tại sao lại làm khổ tôi?"
Tôi nhích lưỡi dao lên rất nhanh chích vào cằm Spivey. Hắn cứng người vì sốc. Một lát sau một giọt máu to đỏ thẫm chảy ra từ vết chích.
"Lý do là gì?" tôi hỏi.
"Chẳng bao giờ có lý do" hắn nói. 'Tôi chỉ thực hiện những gì được yêu cầu".
"Mày làm những điều được yêu cầu à?"
"Tôi chỉ thực hiện những gì được yêu cầu", Spivey nhắc lại. "Morrison nói với tôi những việc cần làm".
"Và kẻ nào bảo Morrison những việc cần làm?"
Tôi đưa lưỡi dao lên cách má Spivey chừng hai phân. Hắn đang chuẩn bị thút thít vì sợ. Tôi chằm chằm nhìn vào đôi mắt rắn ti hí của hắn. Tôi biết câu trả lời rồi. Tôi có thể trông thấy nó, ẩn sâu trong đôi mắt này. Spivey biết kẻ nào bảo Morrison những việc cần làm.
"Kẻ nào nói với lão những việc cần làm?" tôi hỏi lần nữa.
'Tôi không biết," Spivey nói. "Tôi thề đấy, trên mộ mẹ tôi."
Tôi chằm chằm nhìn tên này một lúc lâu. Rồi lắc đầu.
"Sai, Spivey. Mày biết. Mày sẽ nói cho tao."
Giờ thì Spivey lắc đầu. Bản mặt to, đỏ của hắn giật từ bên nọ sang bên kia. Máu đang chảy qua cằm xuống hàm dưới của hắn.
"Chúng sẽ giết tôi nếu tôi nói" hắn bảo.
Tỏi gí lưỡi dao vào bụng Spivey. Rạch đứt chiếc sơ mi nhăn nhúm.
"Tao sẽ giết mày nếu mày không nói."
Những kẻ như Spivey chỉ nghĩ được ngắn. Nếu nói cho tôi, ngày mai hắn sẽ chết. Còn nếu không nói cho tôi, hắn sẽ chết hôm nay. Đó là cách nghĩ của tên trợ lý giám sát này.
Nghĩ ngắn. Thế nên hắn chuẩn bị nói cho tôi. Yết hầu tên béo
bắt đầu dịch lên dịch xuống, như thể họng khô quá không nói nổi. Tôi nhìn thẳng vào hai mắt Spivey. Hắn không thể thốt ra lời nào. Tay trợ lý giám sát giống như anh chàng trong một bộ phim leo lên một đụn cát trên sa mạc cố gắng gọi xin nước uống. Nhưng hắn sắp nói với tôi. Rồi lại không thế. Qua vai Spivey tôi trông thấy một làn khói xa về phía Đông. Rồi tôi nghe tiếng gầm nhè nhẹ của động cơ diesel.
Rồi tôi có thể thấy hình thù màu xám của chiếc xe chuyển tù đang chạy tới. Spivey ngoắt đầu lại nhìn thứ cứu mạng mình. Người gác bước ra đón chiếc xe. Spivey ngoắt đầu lại nhìn tôi. Hai mắt hắn ánh lên tia chiến thắng. Chiếc xe đang lại gần hơn.
"Đó là ai, Spivey?" tôi hỏi. "Nói cho tao bây giờ, nếu không tao sẽ quay lại tìm mày."
Nhưng Spivey chỉ lùi lại, xoay người rồi vội vã chạy về chiếc Ford bẩn thỉu của hắn. Chiếc xe chở tù gầm lên phun khói khắp người tôi. Tôi gập lưỡi dao đút vào túi. Chạy về phía chiếc Bentley lái đi.
Cơn giông đuổi theo tôi suốt chặng đường trở về theo hướng Đông. Tối cảm thấy còn hơn cả một cơn giông đang đuổi theo mình. Tôi phát sốt vì thất vọng. Sáng nay chỉ còn nói vài câu nữa tôi biết được mọi điều. Bây giờ thì chẳng biết gì. Tình hình dột ngột trở nên tệ hại, tôi không có lực lượng hỗ trợ, không có trang bị, không được giúp đỡ. Tôi không thể dựa vào Roscoe hay Finlay. Tôi không thể trông đợi ai trong số họ đồng ý với chương trình làm việc của mình. Hơn nữa ở đồn họ còn có những rắc rối của riêng họ. Finlay đã nói gì? Hoạt động ngay trước mũi kẻ thù. Tôi cũng không thể trông đợi quá nhiều ở Picard. Ông đã tách ra, không có sự hỗ trợ. Tôi không thể trông đợi vào ai khác ngoài chính mình.
Mặt khác tôi không có luật lệ nào để phải lo lắng, không bị hạn chế, không phân tán. Tôi sẽ không phải nghĩ về lời cảnh báo Miranda, về lý do hợp lệ để thực hiện lệnh bắt, về các quyền ghi trong hiến pháp. Tôi sẽ không phải nghĩ đến những hoài nghi hợp lý và các quy định về bằng chứng. Không kêu gọi lên bất kỳ cấp nào cao hơn để xử lý những tên này. Như thế công bằng hay không? Tôi cá là có. Đây là bọn xấu. Chúng đã bước qua vạch ngăn cách từ lâu rồi. Bọn xấu. Finlay đã nói gì nhỉ? Xấu xa tới tột cùng. Và chúng đã giết Joe Reacher.
Tôi đánh chiếc Bentley xuống ngọn đồi hơi dốc, tới nhà Roscoe. Đậu xe phía ngoài nhà cô. Roscoe không có nhà. Chiếc Chevrolet không ở đây. Đồng hồ lớn mạ crôm trên bảng điều khiển chiếc Bentley chỉ 6 giờ kém 10. Mười phút chờ đợi. Tôi ra khỏi ghế trước chui vào băng ghế sau. Duỗi người trên băng ghế dài bọc da của chiếc xe to cũ kỹ.
Tôi muốn tránh xa Margrave đêm nay. Tôi muốn ra khỏi cả Georgia. Tôi tìm thấy một tấm bản đồ ở ô chứa đồ đằng sau ghế người lái. Tôi xem bản đồ và nhẩm tính nếu chúng tôi chạy về phía Tây chừng một giờ, giờ rưỡi gì đó, lại qua Warburton, thì chúng tôi sẽ băng qua ranh giới bang vào Alabama. Đó là điều tôi muốn làm. Lao về phía Tây cùng Roscoe vào bang Alabama và tấp vào quán bar có nhạc sống đầu tiên chúng tôi gặp. Gác lại những vấn đề của tôi tới ngày mai. Ăn vài thứ đồ rẻ, uống chút bia lạnh, nghe chút âm nhạc dung tục. Cùng Roscoe. Ý tưởng của tôi về một buổi tối tuyệt vời. Tôi lại nằm xuống đợi cô. Bóng tối dần kéo tới. Tôi cảm thấy chút giá rét trong bầu không khí buổi tối. Khoảng sáu giờ thì những giọt mưa khổng lồ bắt đầu gõ xuống mui chiếc Bentley. Cảm giác như một cơn giông lớn buổi tối đang kéo tới song thực ra chẳng bao giờ nó xuất hiện. Nó chẳng bao giờ thực sự tới. Chỉ những giọt mưa sớm to đùng vãi xuống như bầu trời căng ra để trút xuống nhưng không được. Trời tối mịt, chiếc xe nặng nề rung rinh trong cơn gió ẩm.
Roscoe về muộn. Cơn giông dọa dẫm chừng hai mươi phút thì tôi thấy chiếc Chevy của cô lượn vòng xuống con dốc. Hai đèn pha phát sáng quét hết trái lại phải. Lúc Roscoe ngoặt vào lối chạy xe, ánh sáng ấy tràn lên tôi. Chúng làm cánh cửa ga ra sáng rực lên, rồi tối đi khi Roscoe tắt máy. Tôi ra khỏi chiếc Bentley bước tới bên Roscoe. Chúng tôi ôm hôn nhau. Rồi đi vào nhà.
"Em ổn chứ?" tôi hỏi.
"Em nghĩ là ổn. Một ngày kinh khủng."
Tôi gật đầu. Đúng thế thật.
"Buồn hả?" tôi hỏi tiếp.
Roscoe đi quanh phòng bật đèn lên. Kéo rèm lại.
"Sáng nay là buổi sáng tệ hại nhất em từng thấy", cô nói. "Cho tới nay là tệ nhất. Nhưng em sẽ nói với anh điều em không bao giờ nói cho ai khác. Em không buồn. Không buồn vì Morrison. Anh không thể buồn vì một tay như thế. Nhưng em buồn cho vợ ông ta. Phải sống cùng một tay như Morrison cũng đã đủ tệ rồi chứ chưa nói đến chuyện phải chết cũng vì lão ấy, đúng không?"
"Thế những người còn lại ra sao?" tôi hỏi. "Teale thì sao?"
"Em chẳng ngạc nhiên", Roscoe đáp. "Cả gia đình ấy đã là bọn khốn suốt hai trăm năm nay. Em biết tất cả về họ. Từ hồi ấy gia đình em và gia đình đó chỉ tồn tại cùng nhau.
Tại sao ông ta lại khác đi được chứ? Nhưng Chúa ơi, em thấy vui vì mọi người khác trong đồn đều trong sạch. Em cũng sợ là mình sẽ phát hiện ra một trong những người ấy dính tới vụ này. Em không biết nếu thế thì mình sẽ đối mặt ra sao."
Roscoe vào bếp và tôi đi theo. Cô trở nên im lặng. Cô không suy sụp nhưng không được vui. Roscoe mở tủ lạnh. Đó là một cử chỉ bảo rằng: tủ bát không có gì. Cô nở một nụ cười mệt mỏi với tôi.
"Muốn mua đồ ăn tối cho em không?" Roscoe hỏi.
"Chắc chắn có," tôi đáp. "Nhưng không phải ở đây. Mà ở Alabama."
Tôi nói cho Roscoe việc mình muốn làm. Cô thích kế hoạch đó. Gương mặt nữ cảnh sát rạng rỡ lên, rồi cô đi tắm. Tôi cho là mình cũng có thể tắm nên đi theo. Nhưng chúng tôi phải hoãn việc tắm lại một chút bởi ngay khi Roscoe bật cúc chiếc áo cảnh sát cứng đờ, những ưu tiên của tôi thay đổi ngay. Sức hút của quán bar Alabama chìm xuống. Và việc đi tắm cũng gác lại đấy đã. Bên trong bộ đồng phục, Roscoe mặc đồ lót đen. Không phải những món đồ quá lớn. Cuối cùng chúng tôi kết thúc với cuộc vật lộn điên cuồng trên sàn phòng ngủ. Rốt cuộc cơn giông cũng ập đến. Mưa đập tung tóe vào căn nhà nhỏ. Chớp sáng lòa, sấm đì đùng. Chúng tôi cuối cùng cũng đi tắm. Đến lúc này thì cả hai thực sự cần làm việc ấy. Sau đó tôi nằm trên giường trong lúc Roscoe mặc đồ. Cô mặc quần bò mới và một chiếc sơ mi lụa. Chúng tôi lại tắt các đèn bàn, khóa cửa và ra đi bằng chiếc Bentley. Bây giờ là 7 giờ 30, cơn giông đang chuyển dịch về phía Đông, hướng về phía Charleston trước khi vần vũ trên bầu trời Đại Tây Dương. Ngày mai có thể tới Bermuda. Chúng tôi chạy theo hướng Tây, về phía bầu trời sáng hơn. Tôi tìm thấy đường trở lại Warburton. Chạy theo những con đường phục vụ canh tác, giữa những cánh đồng tối vô tận và vụt qua nhà tù. Trong ánh sáng vàng ma quái, nó sáng lên láp lánh.
Khoảng nửa giờ sau khi chạy qua Warburton, chúng tôi dừng lại để đổ đầy bình xăng khổng lồ của chiếc xe cũ. Xuyên qua vài vùng trồng thuốc lá và băng qua sông Chanahoochee trên một cây cầu cổ ở Franklin. Rồi lướt xuống ranh giới bang. Chúng tôi tới Alabama trước chín giờ. Cả hai đồng ý sẽ chọn ngẫu nhiên, dừng ở quán bar đầu tiên.
Sau khoảng một dặm, chúng tôi trông thấy một quán cổ. Chạy vào bãi đỗ và ra khỏi xe. Trông ổn. Nơi này đủ lớn, rộng và thấp, xây bằng các tấm gỗ quét hắc ín. Tràn ngập ánh đèn neon, rất nhiều xe trong bãi đỗ, và tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc. Tấm biển ở cửa ghi tên quán The Pond, chơi nhạc sống cả bảy ngày trong tuần, bắt đầu từ 9 giờ 30 tối. Roscoe và tôi cầm tay nhau bước vào.
Chúng tôi bị những tiếng ồn ào của một quán bar, nhạc phát ra từ các máy hát tự động và bầu không khí đầy hơi bia ùa tới. Chúng tôi len lỏi vào tận bên trong, thấy một loạt ghế ngồi xếp thành vòng tròn quanh một sàn nhảy có sân khấu. Sân khấu chỉ là một nền thấp bằng bê tông. Có lẽ nơi này từng là điểm bốc dỡ hàng. Trần thấp, ánh sáng mờ mờ. Chúng tôi tìm một ghế còn trống liền lách vào. Xem ban nhạc chuẩn bị trong lúc chờ được phục vụ. Các nữ bồi bàn hối hả chạy quanh như cầu thủ bóng rổ. Một người lao tới, chúng tôi gọi bia, bánh hamburger rưới pho mát, khoai tây rán, hành tẩm bột rán. Gần như ngay lập tức, nữ phục vụ trở lại với một chiếc khay bé tẹo đựng những thứ chúng tôi đã gọi. Chúng tôi ăn, uống và gọi thêm.
"Vậy anh sẽ làm gì với chuyện của Joe?" Roscoe hỏi tôi.
Tôi sẽ hoàn thành công việc của anh. Dù nó có là gì. Dù phải trả giá thế nào. Đó là điều tôi đã quyết định sáng nay khi nằm trên chiếc giường ấm áp của cô. Nhưng Roscoe là sĩ quan cảnh sát. Cô đã tuyên thệ bảo vệ mọi luật lệ. Các luật được xây dựng để ngáng chân tôi. Tôi không biết nói gì. Nhưng Roscoe không chờ đợi tôi nói điều gì.
"Em nghĩ anh nên tìm ra kẻ đã giết anh ấy," cô bảo.
"Và rồi gì nữa?"
Nhưng chúng tôi chỉ bàn tới đây. Ban nhạc đã bắt đầu chơi. Chúng tôi không thể nói chuyện thêm chút nào. Roscoe nở nụ cười bày tỏ lời xin lỗi và lắc đầu. Nhạc chơi khá to. Cô nhún vai nói lấy làm tiếc vì tôi không thể nghe được những gì cô đang nói. Cô làm ký hiệu sẽ-nói-với-anh-sau từ bên kia bàn rồi chúng tôi quay mặt về phía sân khấu. Tôi ước gì mình đã có thể nghe câu trả lời của Roscoe dành cho câu hỏi của tôi.
Quán bar có tên The Pond (ao)
còn ban nhạc mang tên Pond Life (cuộc sống dưới ao)
. Họ khởi đầu rất hay. Một nhóm tam tấu cổ điển. Ghi ta, tay chơi bass, trống. Rất đậm chất Stevie Ray Vaughant (Stephen "Stevie" Ray Vaughan (1954-1990): một trong những tay ghi ta có ảnh hưởng nhất của Mỹ cuối thế kỳ 20).
Kể từ khi Stevie Ray chết trên chiếc trực thăng gần Chicago, dường như ta chỉ cần đếm số đàn ông da trắng dưới bốn mươi tuổi ở các bang miền Nam rồi chia cho ba thì sẽ ra số ban nhạc bày tỏ sự kính trọng với Stevie Ray Vaughan. Mọi người đều làm việc ấy. Bởi việc đó không đòi hỏi nhiều. Không quan trọng ta trông ra sao, có những nhạc cụ gì. Tất cả những gì ta cần làm là cúi đầu chơi nhạc. Những ban nhạc khá nhất có thể chơi giống hệt Stevie Ray từ thể loại rock chơi trong quán bar tới dòng blues cổ của bang Texas.
Ban nhạc này khá hay. Pond Iife. Họ xứng với cái tên đầy mỉa mai của mình. Tay chơi bass và trống là hai kẻ lôi thôi, người đầy lông tóc, béo và bẩn. Tay ghi ta là người nhỏ da sẫm, không khác với Stevie Ray ngày xưa. Cũng cái cười đầy hơi thở cuộc sống. Anh ta cũng có thể chơi nhạc nữa. Người này có một đĩa Les Paul và một chồng băng Marshall dày. Âm thanh kiểu cổ rất hay. Các dây đàn nặng, lỏng và bộ chuyển tín hiệu vượt quá công suất của các ống chân không cổ hiệu Marshall, tạo ra tiếng gào nặng tuyệt vời ta không thể có được bằng cách nào khác.
Hai chúng tôi đang vui vẻ. Chúng tôi uống rất nhiều bia, ngồi sát vào nhau trên ghế. Rồi chúng tôi nhảy một lúc. Không thể cưỡng lại việc ấy. Ban nhạc cứ chơi liên tục. Căn phòng trở nên nóng nực và chật cứng người. Tiếng nhạc to dồn dập hơn. Các nữ phục vụ chạy qua chạy lại với những chiếc chai cổ ngắn. Roscoe trông thật tuyệt. Chiếc áo lụa của cô ướt mồ hôi. Cô không mặc gì dưới lớp áo ấy. Tôi có thể thấy điều đó nhờ lớp lụa ướt áp vào da Roscoe. Tôi đang trên thiên đàng. Tôi đang trong một quán bar cổ đơn giản với một phụ nữ đẹp ngây ngất và một ban nhạc hay. Chuyện của Joe bị đình lại tới ngày mai. Margrave đang cách xa cả triệu dặm. Tôi chẳng có vấn đề nào. Tôi không muốn buổi tối chấm dứt.
Ban nhạc chơi cho tới lúc khá muộn. Chắc chắn phải quá nửa đêm. Chúng tôi toát hết mồ hôi và mệt rã người. Không thể sẵn sàng cho hành trình trở về. Trời lại mưa nhẹ. Không muốn lái xe một tiếng rưỡi trong mưa. Không muốn lái khi trong người đã đầy bia. Có thể hạ cánh xuống một rãnh nước ven đường. Hay vào tù. Quá một dặm nữa có biển chỉ đường vào một motel. Roscoe bảo chúng tôi nên đến đó.
Cô khúc khích cười khi nói điều ấy. Cứ như chúng tôi đang trốn gia đình đi chơi hay làm chuyện tương tự. Cứ như tôi chở cô băng qua ranh giới bang với chính mục đích ấy vậy.
Cụ thể thì không phải thế. Nhưng tôi cũng sẽ không phản đối việc này nhiều.
Thế nên chúng tôi ngật ngưỡng ra khỏi quán bar với đôi tai vẫn còn lùng bùng và vào chiếc Bentley. Chúng tôi cẩn thận, từ từ điều khiển chiếc xe cũ, lớn khoảng một dặm dọc theo con đường phân làn. Thấy một motel phía trước. Một tòa nhà cũ dài, thấp, như được nhấc ra từ một bộ phim.
Tôi đánh xe vào bãi đậu và đi vào phòng tiếp tân. Đánh thức anh chàng trực đêm ở bàn. Trả tiền cho anh ta và dặn gọi báo thức sớm. Lấy chìa khóa rồi trở lại chiếc xe. Tôi đánh xe lại gần phòng mình rồi hai chúng tôi bước vào. Đây là nơi kín đáo, khá ổn. Có thể xuất hiện ở bất kỳ đâu trên đất Mỹ. Nhưng nơi này ấm áp, gọn gàng với tiếng mưa gõ trên mái. Và còn có một chiếc giường lớn.
Tôi không muốn Roscoe bị cảm lạnh. Cô phải cởi chiếc sơ mi ướt kia. Đó là điều tôi nói với Roscoe. Cô khúc khích cười với tôi. Bảo rằng trước đây cô không nhận ra là tôi còn có bằng về y học nữa. Tôi bảo rằng chúng tôi đã được dạy đủ về cấp cứu cơ bản.
"Đây là một trường hợp cấp cứu cơ bản à?" Roscoe lại khúc khích.
"Sẽ sớm như thế," tôi bật cười. "Nếu em không bỏ chiếc áo ấy ra."
Thế nên Roscoe bỏ áo. Rồi tôi trùm cả người lên cô. Cô đẹp, khiêu khích đến thế. Cô sẵn sàng cho mọi thứ.
Sau đó chúng tôi nằm quấn lấy nhau trong trạng thái kiệt sức và nói chuyện, về chuyện chúng tôi là ai, đã làm những gì. Về chuyện chúng tôi muốn trở thành người thế nào, muốn làm gì. Roscoe kể cho tôi về gia đình cô. Đó là một câu chuyện không may mắn bắt đầu từ nhiều thế hệ trước. Nghe chừng họ đã là những người tốt, những nông dân, những người đã gần thành công nhưng không bao giờ được thế. Những người đã vật lộn trải qua những giai đoạn khó khăn trước khi xuất hiện các loại hóa chất, máy móc, là con tin của sức mạnh tự nhiên. Một cụ tổ nào đó đã gần như gây dựng được sự nghiệp lớn nhưng rồi ông mất hết những phần đất tốt nhất khi cụ tổ của thị trưởng Teale xây dựng tuyến đường sắt. Rồi những vụ cầm cố diễn ra, niềm hận thù tiếp diễn nhiều năm đến mức bây giờ Roscoe yêu Margrave nhưng ghét cảnh Teale dạo quanh như thể lão sở hữu cả thị trấn Iìlìirn>' đó là điều đang diễn ra, và gia tộc nhà Teale vẫn luôn thế.
Tôi nói chuyện với Roscoe về Joe. Tôi kể cho cô những điều chưa bao giờ kể với ai khác. Tất cả những điều tôi chỉ giữ trong lòng. Vờ những cảm xúc tôi dành cho anh và tại sao tôi bị thôi thúc phải làm gì đó khi anh chết. Và tôi hạnh phúc thế nào khi làm việc ấy. Chúng tôi kể rất nhiều điều riêng tư. Nói chuyện rất lâu rồi ngủ thiếp đi trong vòng tay nhau.
Dường như ngay sau đó anh chàng trực đêm gõ cửa thực hiện việc đánh thức sớm. Thứ Ba. Chúng tôi dậy và loạng choạng mò quanh. Mặt trời buổi sớm đang đấu tranh với buổi bình minh ẩm ướt. Sau năm phút chúng tôi đã trở lại chiếc Bentley và chạy về hướng Đông. Mặt trời đang lên làm kính xe bám hơi ẩm sáng lóa. Chúng tôi từ từ tỉnh táo lại. Cả hai băng qua ranh giới bang trở về Georgia. Băng qua cây cầu bắc qua sông ở Franklin. Rồi đều tay chạy nhanh qua vùng nông thôn không một bóng người. Những cánh đồng ẩn dưới lớp sương mù bồng bềnh buổi sáng. Nó lơ lửng trên lớp đất đỏ như làn hơi nước. Mặt trời leo lên chuẩn bị đốt cho nó tan đi. Chẳng ai trong hai chúng tôi nói gì. Chúng tôi muốn giữ lớp kén gần gũi và yên tình càng lâu càng tốt. Trở lại Margrave sẽ sớm làm vỡ bong bóng. Thế nên tôi điều khiển chiếc xe lớn oai vệ chạy theo những con đường nông thôn và hy vọng. Hy vọng sẽ có nhiều đêm nữa như đêm qua. Và những buổi sáng yên tĩnh như sáng nay. Roscoe cuộn tròn người trên chiếc ghé da lớn bên cạnh tôi. Chìm vào suy nghĩ. Cô trông rất hài lòng. Tôi hy vọng cô như thế.
Chúng tôi lại chạy qua Warburton. Nhà tù nổi lên như một thành phố lạ trên tấm thảm hình thành từ sương mù thấp. Chúng tôi chạy qua khóm cây nhỏ tôi đã trông thấy từ chiếc xe chở tù. Chạy qua những hàng cây bụi nhỏ khuất tầm nhìn trên cánh đồng, tới chỗ rẽ ngoặt về phía Nam, vào tỉnh lộ. Qua tiệm ăn Eno, đồn cảnh sát và đồn cứu hỏa. Vào Phố Chính. Chúng tôi rẽ trái chỗ tượng của lão già đã lấy những phần đất tốt làm đường sắt. Theo con dốc xuống nhà Roscoe. Tôi đậu xe ở rìa đường và chúng tôi ra ngoài, vừa ngáp vừa duỗi chân tay. Chúng tôi nhăn nhở với nhau. Cả hai đã vui thú. Chúng tôi tay trong tay bước dọc theo lối chạy xe.
Cửa nhà đang mở. Không mở to nhưng hé ra khoảng hai đến năm phân. Cửa tách ra vì khóa bị phá. Kẻ nào đó đã dùng xà beng phá khóa. Chiếc khóa bị phá và những mảnh gỗ vụn không cho cửa khép khít lại. Roscoe lấy tay che miệng, há hốc miệng trong im lặng. Hai mắt cô mở to. Đôi mắt ấy lướt từ cánh cửa sang tôi.
Tôi nắm chặt lấy khuỷu tay Roscoe kéo đi. Chúng tôi đứng nép sát vào cửa ga ra. Cúi người xuống. Ép sát vào tường rồi chạy vòng quanh nhà. Lắng nghe thật kỹ ở mọi ô cửa sổ và liều mình nhô đầu lên để liếc một cái thật nhanh vào từng phòng. Rồi chúng tôi trở lại cửa trước đã bị phá khóa. Người chúng tôi ướt hết vì quỳ xuống nền ướt và quệt người vào đám cây thường xuân còn nhỏ nước. Chúng tôi đứng dậy. Nhìn nhau nhún vai. Đẩy cửa bước vào trong.
Chúng tôi kiểm tra mọi nơi. Trong nhà chẳng có ai. Không bị hư hại gì. Không bị xáo trộn. Không có gì bị mất. Bộ dàn nghe nhạc vẫn đây, ti vi vẫn đây. Roscoe kiểm tra tủ đồ. Khẩu súng lục cảnh sát vẫn nằm trên thắt lưng của cô. Cô kiểm tra các ngăn kéo và bàn làm việc. Không có thứ gì bị chạm tới. Không thứ gì bị lục soát. Chẳng có gì mất. Chúng tôi trở ra đứng ở hành lang nhìn nhau. Rồi tôi nhận ra thứ gì đó đã để lại. Ánh mặt trời thấp buổi sáng đang xuyên qua cánh cửa mở và vạch một đường thấp trên sàn. Tôi có thể trông thấy một đường dấu chân trên sàn gỗ. Rất nhiều vết chân. Nhiều kẻ đã lần tìm từ cửa trước vào tới phòng khách. Đường dấu chân biến mất trên tấm thảm dày ở phòng khách. Xuất hiện trở lại trên sàn gỗ dẫn vào phòng ngủ. Trở ra, qua phòng khách, về cửa trước. Những dấu chân này của những kẻ vào đây trong đêm mưa. Một lớp nước mưa pha bùn đã khô trên sàn gỗ, để lại các dấu chân mờ mờ. Không rõ nhưng hoàn hảo. Tôi có thể thấy rằng có ít nhất bốn người. Vào và ra. Tôi có thể thấy cách đi mà chúng để lại. Chúng đã đi giày bao ngoài bằng cao su. Như loại ta dùng ở miền Bắc trong mùa đông.