Chương 23
-
Reacher báo thù
- Lee Child
- 6078 chữ
- 2020-05-09 04:19:01
Số từ: 6064
Dịch giả: Trần Quý Dương
C.ty Nhã Nam phát hành
NXB Thời Đại
Các chi tiết. Thu thập chứng cứ. Dò xét. Đó là những việc cơ bản. Ta phải ngồi yên quan sát đủ lâu, đủ kỹ để có được những điều ta cần. Trong lúc Roscoe pha cà phê cho Charlie Hubble, Finlay ngồi trong căn phòng đầy gỗ hồng sắc thì tôi sẽ phải quan sát những hoạt động của nhà kho. Đủ lâu và đủ kỹ cho tới khi tôi cảm nhận được chính xác cách chúng làm. Việc ấy có thể khiến tôi mất hai mươi bốn giờ. Có thể Roscoe trở về trước khi tôi xong việc.
Tôi vào chiếc Bentley chạy mười bốn dặm tới giao lộ. Khi qua khu nhà kho, tôi giảm tốc độ. Tôi cần tìm ra một điểm có tầm quan sát tốt. Đường vòng vào chạy về phía Bắc chui xuống dưới đường vòng ra chạy về phía Nam. Có kiểu cầu vượt thấp. Các trụ bê tông thấp, to đỡ phần đường phía trên. Tôi nghĩ việc cần làm là ẩn phía sau một trong các cột ấy. Tôi sẽ ẩn trong bóng tối và vị trí cao sẽ cho tôi tầm nhìn tốt về khu nhà kho. Đó là điểm tôi chọn.
Tôi tăng ga chiếc Bentley lên đường vòng và chạy lên hướng Bắc, về phía Atlanta. Mất một giờ. Tôi đang nắm sơ bộ các đặc điểm địa lý. Tôi muốn tới khu vực mua sắm giá rẻ và tìm ra khá dễ. Thấy kiểu phố tôi muốn. Những thợ chỉnh sửa xe theo yêu cầu, các nhà bán buôn bàn bi a, đồ nội thất văn phòng đã qua sử dụng. Tôi đỗ xe trên phố, trước
khu phát hàng cứu tế của một cửa hàng. Đối diện với tôi là hai cửa hàng bán đồ bảo vệ. Tôi chọn cửa hàng bên tay trái và bước vào.
Cửa mở làm một chiếc chuông rung. Anh chàng sau quầy ngước lên. Anh ta thuộc típ người thường thấy. Da trắng, râu quai nón đen, đồ dã chiến ngụy trang, đi ghệt. Một tai anh này đeo chiếc khuyên vàng lớn. Trông như một tay cướp biển. Có lẽ anh ta là một cựu binh. Có thể chỉ muốn làm một cựu binh. Anh ta gật đầu với tôi.
Cửa hàng này có những thứ tôi cần. Tôi lấy một chiếc quần dã chiến màu ô liu và một chiếc sơ mi. Tìm một áo khoác ngụy trang loại lớn hợp với hai món kia. Xem các túi một cách cẩn thận. Tôi phải bỏ khẩu Desert Eagle vào đó. Rồi tôi tìm một bi đông nước và ống nhòm loại tốt. Lôi tất cả tới bàn thanh toán và xếp lên. Lôi ra xấp tiền một trăm đô. Anh chàng râu quai nón nhìn tôi.
"Tôi muốn có một cái dùi cui", tôi nói.
Anh chàng bán hàng nhìn tôi rồi nhìn xấp một trăm đô. Rồi anh ta cúi xuống dựng một cái thùng lên. Trông có vẻ nặng. Tôi chọn một cây dùi cui dài chừng hai hai phân. Nó là một cái ống bằng da. Một đầu được đệm làm tay nắm. Quấn quanh một lò xo của thợ sửa nước. Thứ người ta thường đút vào các ống nước trước khi uốn cong chúng. Nó được quấn quanh các viên chì. Một thứ vũ khí lợi hại. Tôi gật đầu. Trả tiền cho mọi thứ rồi đi ra. Chuông lại kêu khi tôi mở cửa.
Tôi chạy chiếc Bentley chừng một trăm mét và đậu trước cửa hàng xe hơi đầu tiên có quảng cáo ở cửa sổ mà tôi trông thấy. Bấm còi rồi bước ra khỏi xe để gặp người mới ở cửa bước ra.
"Ông có thể sơn màu chiếc xe này cho tôi được không?" tôi hỏi.
"Cho chiếc này à? Chắc chắn rồi. Tôi có thể phủ màu lên bất kỳ thứ gì."
"Mất bao lâu?"
Người đàn ông bước tới chỗ chiếc xe miết ngón tay dọc theo cốp xe mịn bóng.
"Với xe loại này thì ông cần công việc thực hiện một cách hoàn hảo", ông ta nói. "Tôi mất hai, có thể ba ngày",
"Bao nhiêu?" tôi hỏi.
Người đàn ông tiếp tục cảm nhận lớp sơn và rít hơi qua kẽ răng, như tất cả những tay thợ xe vẫn làm khi ta hỏi họ số tiền phải trả.
"Hai trăm," ông ta nói. "Đấy là trả cho công việc hoàn hảo, và ông không muốn món nào kém hơn trên chiếc xe kiểu này đâu."
"Tôi sẽ trả ông hai trăm năm mươi đô. Đó là tiền trả cho công việc tốt hơn hoàn hảo, và ông cho tôi mượn một chiếc xe trong hai hay ba ngày ông cần để làm chiếc này, được không?"
Tay sửa ô tô rít thêm chút hơi nữa và vỗ nhẹ lên nắp ca pô chiếc Bentley.
"Đồng ý, ông bạn," ông ta nói.
Tôi gỡ chìa xe Bentley khỏi chùm chìa khóa của Charlie và đổi lấy chìa của một chiếc Cadillac tám năm tuổi màu quả lê già. Xe có vẻ rất ổn và kín đáo đúng như ta hy vọng. Chiếc Bentley là xe tốt nhưng nó không phải thứ tôi cần khi phải di chuyển trong khi do thám. Nó dễ phân biệt như thứ dễ phân biệt nhất ta có thể nghĩ ra.
Tôi chạy qua rìa Nam thành phố và dừng ở một trạm xăng. Đổ đầy ắp bình chiếc Cadillac cũ, mua vài thanh kẹo, hạt khô và vài chai nước. Rồi tôi vào nhà vệ sinh để thay đồ. Tôi mặc vào những thứ đồ thừa của quân đội và ném chỗ quần áo cũ vào thùng rác. Trở lại chỗ chiếc xe. Nhét khẩu Desert Eagle vào túi dài bên trong của chiếc áo khoác mới. Chếch và khóa. Dốc các viên đạn dự phòng vào túi áo ngoài trên cùng. Con dao bấm của Morrison nằm ở túi bên trái, tôi bỏ chiếc dùi cui vào túi phải. Chia đều các thanh kẹo, hạt khô vào các túi khác. Rót một chai nước vào bi đông và đi thực hiện công việc. Mất một giờ nữa để trở lại Margrave. Tôi lái chiếc Cadillac cũ vòng qua ngay giao lộ. Lại lên đường vòng hướng về phía Bắc. Chạy khoảng một trăm mét dọc theo vai đường và dừng lại ngay chỗ giao nhau giữa hai đường vòng. Nơi chẳng ai đi qua dù đang rời hay đi vào quốc lộ. Sẽ chẳng ai thấy chiếc xe trừ những người chạy thẳng qua Margrave. Và họ sẽ chẳng để ý.
Tôi bật nắp ca pô lên. Khóa xe và để yên như thế. Khiến không ai trông thấy nó. Chỉ là một chiếc sedan cũ hỏng ở vai đường. Một cảnh bình thường, ta chẳng để tâm. Rồi tôi leo qua bức tường bê tông thấp ở rìa vai đường. Leo xuống bờ dốc cao. Chạy về hướng Nam và tăng tốc băng qua đường vòng dẫn lên phía Bắc. Tiếp tục chạy khi được cầu vượt thấp che khuất. Tôi chạy ngang qua quốc lộ sang mé bên kia ẩn sau một trụ lớn. Phía trên đầu, các xe tải rời khỏi quốc lộ đang ầm ầm quay trở lại tỉnh lộ cổ. Rồi chúng vào số rẽ ngay về phía nhà kho. Tôi ngồi xuống và thả lỏng phía sau trụ. Tôi có điểm quan sát rất tốt. Có lẽ cách hai trăm mét, có lẽ cao khoảng chín mét. Toàn bộ khu nhà kho trải ra phía dưới tôi như một biểu đồ. Ống nhòm tôi mua nhìn rất rõ nét. Thực tế có bốn nhà kho riêng rẽ. Tất cả giống hệt nhau, xây theo một hàng thẳng, chạy thành góc xiên so với chỗ tôi ngồi. Toàn bộ khu vực được bao bọc bởi một lớp rào kiên cố. Trên cùng có rất nhiều dây thép gai. Từng nhà kho trong cụm bốn kho lại có hàng rào riêng. Mỗi hàng rào phía trong có cổng riêng. Lớp rào ngoài gắn với cổng chính quay ra đường. Toàn bộ khu vực đều có hoạt động rất bận rộn.
Khu kho đầu tiên hoàn toàn không có gì đáng ngờ. Cánh cửa cuốn lớn vẫn mở. Tôi có thể trông thấy những xe tải nông nghiệp lịch xịch ra vào. Trong tầm quan sát bằng mắt thường có thể thấy người ta bốc dỡ hàng. Các bao tải dày phồng lên đồ gì đó. Có thể là nông phẩm chưa chế biến, có thể là hạt giống hoặc phân bón. Bất kỳ thứ gì nông dân dùng. Tôi chẳng biết. Nhưng không có gì bí mật. Không có gì che giấu. Tất cả xe đều mang biển địa phương. Tất cả đều mang biển bang Georgia. Không xe nào mang biển bang khác. Không chiếc nào đủ lớn để chạy từ Nam về Bắc, từ mạn dưới lên mạn trên đất nước. Khu đầu tiên sạch sẽ, không có gì nghi ngờ.
Khu kho thứ hai và thứ ba cũng vậy. Các cổng để mở, cửa cuốn lên. Và toàn bộ hoạt động của mấy khu này là đám người vui vẻ làm việc ở sân trước. Không gì bí mật. Tất cả thể hiện trong tầm quan sát bằng mắt thường. Nhiều loại xe tải khác nhau nhưng tất cả là xe trong bang. Không thể thấy chúng đang chở gì. Có lẽ là hàng bán buôn cho một số cửa hiệu nhỏ ở vùng nông thôn. Có thể là hàng chế tạo được chuyển đi đâu đó. Ở sân khu kho thứ ba có một số thùng chứa dầu. Nhưng không có gì để ta hứng thú.
Nhà kho thứ tư là mục tiêu tôi đang tìm kiếm. Nhà kho ở cuối hàng. Chẳng có gì nghi ngờ về điều đó. Đó là vị trí được chọn một cách khôn ngoan. Rất có lý. Nó được bao bọc bởi sự ồn ào, hỗn độn ở sân trước của ba nhà kho kia. Do ở cuối hàng, chẳng ai trong số các nông dân địa phương hay những người mua sắm cần đi qua đó. Sẽ chẳng ai nhìn nó. Vị trí đầy khôn ngoan. Chắc chắn là nó. Phía sau nó, có lẽ xa hơn bảy mươi lăm mét trên cánh đồng là một cây bị sét đánh. Là cây có trọng tấm ảnh chụp Stoller, Hubble và chiếc xe tải vàng. Máy ảnh ở sân trước sẽ chụp cây nằm ở điểm xa xa góc cuối của nhà kho. Tôi có thể thấy như thế. Đây chính là nơi ấy, không có gì phải nghi ngờ. Cửa cuốn lớn ở phía trước đang đóng, cổng cũng đóng. Có hai tay gác lượn lờ ở sân trước. Ngay cả từ cự ly hai trăm mét, chiếc ống nhòm vẫn có thể soi thấy vẻ thận trọng của chúng, bước đi đầy căng thẳng và cảnh giác. Dạng bảo vệ. Tôi quan sát hai tên một lúc. Chúng rảo bước xung quanh, nhưng chẳng có gì xảy ra. Thế nên tôi quay sang quan sát con đường. Đợi một chiếc xe tải chạy về nhà kho thứ tư.
Tôi phải đợi mãi. Căng thẳng với việc thời gian trôi đi nên tự hát. Tôi hát mọi dị bản của ca khúc "Rambling on My Mind" mà tôi biết. Mỗi người đều có một dị bản. Ca khúc này luôn được coi là dân ca. Chẳng ai biết tác giả là ai. Không ai biết nó bắt nguồn từ đâu. Có lẽ từ Delta. Nó là bài hát dành cho những người không thể ở yên một chỗ. Ngay cả khi có lý do chính đáng để làm việc ấy. Những người như tôi. Thực tế là tôi đã ở Margrave được một tuần. Khoảng thời gian dài nhất tôi ở lại bất kỳ đâu một cách tự nguyện. Tôi nên ở đây mãi mãi. Cùng Roscoe, bởi cô tốt cho tôi. Tôi bắt đầu tưởng tượng ra tương lai chung sống với cô. Cảm giác là ổn.
Nhưng sẽ có những vấn đề. Khi tiền bẩn của Kliner bị rút đi, cả thị trấn sẽ sụp đổ. Sẽ chẳng còn nơi nào để ở lại. Và tôi phải lang thang. Như bài hát tôi đang nhẩm trong đầu. Tôi phải ngao du. Một bài dân ca. Bài hát có thể đã được viết cho tôi. Trong tim mình, tôi tin là Blake Mù đã sáng tác bài này. Ông đã lang thang. Ông đã đi bộ qua đây, vào cái thời ở chỗ của những trụ bê tông này còn là những cây cổ thụ tỏa bóng mát. Sáu mươi năm trước ông đã đi bộ theo con đường tôi đang quan sát, có lẽ đang hát bài hát tôi đang hát. Joe và tôi trước đây hay hát bài này. Chúng tôi hát nó như một lời châm biếm đối với cuộc sống của gia đình quân đội. Chúng tôi nhảy khỏi máy bay ở một nơi và ngồi xe tới một căn nhà trống rỗng thiếu dưỡng khí trong căn cứ. Sau khi chuyển vào căn nhà ấy hai mươi phút, chúng tôi bắt đầu hát bài này. Như thể chúng tôi ở lại đó đã đủ lâu và đang sẵn sàng lên đường lần nữa. Thế nên tôi tựa vào trụ bê tông mà hát cho Joe, cả cho tôi. Mất ba mươi lăm phút hát hết dị bản khác nhau của bài hát cổ ấy, một lượt cho tôi và một lượt cho Joe.
Trong thời gian đó, tôi nhìn thấy khoảng sáu chiếc xe tải rẽ sang lối vào nhà kho. Tất cả đều là xe địa phương. Tất cả đều là các xe tải nhỏ bụi bặm mang biển Georgia. Không xe nào mang những lớp bụi tích tụ sau các chặng đường trường. Không xe nào hướng về nhà kho cuối cùng. Tôi khe khẽ hát suốt ba mươi lăm phút và không thu được chút thông tin nào.
Nhưng tôi nhận được tràng vỗ tay. Hát hết bài cuối cùng, tôi nghe thấy tiếng vỗ tay mỉa mai phát ra từ bóng tối phía sau lưng. Tôi bật vòng qua trụ bê tông chăm chăm nhìn vào bóng tối. Tiếng vỗ tay ngừng lại và tôi nghe tiếng dịch chuyển. Thấy hình dáng lờ mờ của một người đàn ông đang bò về phía mình. Hình dáng rõ dần. Một dạng lang thang. Mái tóc dài màu xám bết lại và những lớp quần áo nặng nề. Đôi mắt sáng rực trên khuôn mặt bẩn thỉu đầy vết nhăn. Người đàn ông dừng lại ở ngoài tầm với của tôi.
"Ông là kẻ quái nào thế?" tôi hỏi.
Người đàn ông vén lớp tóc sang một bên và nhăn nhở cười với tôi.
"Ông là kẻ quái nào thế?" ông ta nói. "Tới chỗ của tôi mà hò hét như thế?"
"Đây là chỗ của ông à? Ông sống dưới này hả?"
Người đàn ông ngồi bệt xuống nhún vai với tôi.
'Tạm thời thế", ông ta nói. "Ở đây được một tháng rồi. Ông có thấy cấn cái gì về chuyện ấy không?"
Tôi lắc đầu. Tôi chẳng thấy cấn cái gì về chuyện ấy. Người này phải sống ở đâu đó chứ.
"Xin lỗi đã làm phiền ông", tôi nói. "Đêm nay tôi sẽ rời khỏi đây."
Mùi của ông ta đang bay tới chỗ tôi. Không dễ chịu chút nào. Người này bốc mùi như thể cả đời sống trên đường.
"Cứ ở lâu chừng nào ông muốn," ông ta nói. "Chúng tôi vừa quyết định sẽ tiếp tục di chuyển. Chúng tôi sẽ bỏ lại cơ ngơi của mình",
"Chúng tôi à? Còn người khác ở đây à?"
Người đàn ông nhìn tôi vẻ kỳ quặc. Quay người chỉ vào khoảng không bên cạnh ông ta. Chẳng có ai ở đó. Hai mắt tôi đã quen với bóng tối. Tôi có thể nhìn tới tận dầm hẫng bên dưới đoạn đường vồng lên. Chỉ có khoảng không.
"Gia đình tôi", người đàn ông nói. "Chúng tôi rất vui được gặp ông. Nhưng chúng tôi phải đi. Đến lúc đi rồi."
Ông ta với tay ra sau lôi một cái túi bạt từ bóng tối. Đồ quân trang. Nó phảng phất mùi giấy nến. Đồ cá nhân loại tốt nhất, có số xê ri và tên đơn vị. Người đàn ông kéo nó lại gần và lê chân đi.
"Chờ chút", tôi nói. "Tuần trước ông ở đây không? Hôm thứ Năm ấy?"
Người đàn ông dừng bước xoay nửa người lại.
"Ở đây một tháng rồi. Thứ Năm tuần trước chẳng trông thấy gì cả."
Tôi nhìn ông này và túi đồ của ông ta. Một người lính. Một người lính chẳng tự nguyện làm gì. Nguyên tắc cơ bản của họ là thế. Do vậy tôi rời khỏi trụ bê tông và lôi một thanh kẹo từ túi ra. Lấy tờ một trăm đô quấn lại. Ném nó qua chỗ người đàn ông. Ông ta tóm lấy đút vào túi. Gật đầu với tôi, im lặng.
'Thế thứ Năm tuần trước ông đã trông thấy gì?" tôi hỏi.
Ông ta nhún vai.
"Tôi chẳng trông thấy gì. Đó là sự thật, nói chân thành. Nhưng vợ tôi thì có. Bà ấy trông thấy nhiều việc",
"OK," tôi nói, chậm rãi. "Ông sẽ hỏi bà ấy xem đã trông thấy những gì chứ?"
Ông ta gật đầu. Xoay người thì thầm nói chuyện với khoảng không bên cạnh mình. Rồi quay trở lại phía tôi.
"Bà ấy trông thấy người ngoài hành tinh", người đàn ông nói. "Một tàu phi hành, ngụy trang thành một chiếc xe tải đen bóng. Trong đó có hai người ngụy trang như người bình thường trên trái đất. Bà ấy trông thấy ánh sáng trên trời. Khói. Tàu phi hành hạ cánh, trở thành một chiếc xe hơi lớn, chỉ huy phi hành đoàn bước ra, mặc đồ cảnh sát, là một tay béo lùn. Rồi một chiếc xe trắng rời đường quốc lộ chạy tới, nhưng thực ra đó chỉ là một phi thuyền chiến đấu hạ cánh, trong đó có hai người, đều là người trái đất, là phi công và lái phụ. Tất cả đều nhảy một điệu ở ngay cạnh cổng, bởi họ từ thiên hà khác tới. Bà ấy bảo là nhộn lắm. Bà ấy thích những trò ấy. Đi đâu cũng thấy cảnh ấy."
Ông ta gật đầu với tôi. Ông ta nói thật.
'Tôi đã lỡ dịp xem tất cả," người này nói. Ra hiệu với khoảng không bên cạnh mình. "Đứa bé cần bà ấy tắm. Nhưng đó là những gì vợ tôi đã trông thấy. Bà ấy thích những trò ấy."
"Bà ấy nghe thấy gì không?" tôi hỏi.
Người đàn ông hỏi vợ. Nhận được câu trả lời của bà ta và lắc đầu cứ như tôi bị điên.
"Người sống trên vũ trụ không phát ra tiếng", ông ta nói. "Nhưng phi công phụ của phi thuyền chiến đấu bị bắn bằng súng gây choáng, sau đó bò vào đây. Bị mất máu đến chết ở đúng chỗ ông đang ngồi ấy. Chúng tôi đã cố gắng giúp ông ấy nhưng thực sự là ta chẳng thể làm gì với súng gây choáng, đúng không? Hôm Chủ nhật nhân viên y tế tới đưa ông ta đi."
Tôi gật đầu. Người đàn ông bỏ đi, kéo theo chiếc túi. Tôi nhìn theo ông ta rồi trở lại phía sau trụ bê tông. Quan sát con đường. Soát lại toàn bộ câu chuyện vợ người đàn ông đã kể. Báo cáo của một nhân chứng trực tiếp. Người này chẳng thể làm Tòa án tối cao tin được nhưng chắc chắn ông ta đã thuyết phục được tôi. Người đã bay xuống bằng phi thuyền chiến đấu và thực hiện một điệu nhảy ở cổng nhà kho có phải anh trai của Tòa án tối cao đâu mà họ tin.
Phải mất một giờ nữa mới thấy có thứ gì đó xuất hiện. Tôi đã ăn hết một thanh kẹo và uống gần hết một pint nước. Tôi chỉ ngồi đợi. Một chiếc xe tải thùng kín cỡ vừa từ phía Nam chạy vào. Nó giảm tốc độ khi tới đường dẫn vào khu nhà kho. Qua ống nhòm, tôi có thể thấy biển xe thương mại của New York. Những hình chữ nhật trắng bẩn thỉu. Chiếc xe tải chạy theo đoạn đường rải nhựa và đợi ở cổng thứ tư. Hai gã trong khu nhà kho mở cổng ra hiệu cho chiếc xe chạy qua. Nó dừng lần nữa và hai tay bảo vệ đóng chặt cổng lại sau đuôi chiếc xe. Rồi tài xế dong xe lại phía cửa cuốn và dừng lại. Ra khỏi xe. Một tay gác leo lên xe, tên còn lại chui vào một cửa ngách cho cửa cuốn lên. Chiếc xe tải lùi vào bóng tối và cửa lại hạ xuống. Viên tài xế người New York ở lại ngoài sân trước, duỗi chân tay trong nắng. Chỉ có thế. Từ đầu đến cuối khoảng ba mươi giây. Không có gì nữa.
Tôi quan sát và đợi. Chiếc xe tải nằm trong kho mười tám phút. Rồi cửa lại cuốn lên, tay gác lái chiếc xe trở ra. Ngay khi nó vừa ra, cửa lại hạ xuống, tên gác nhảy từ ca bin xuống. Tài xế New York leo lại vào ghế trong khi tay gác chạy về trước mở cổng. Chiếc xe tải qua cổng, chạy ra ngoài trở lại con tỉnh lộ. Nó ngoặt về phía Bắc, chạy qua chỗ tôi nấp trên cột bê tông của cầu vượt, cách khoảng hai mươi mét. Nó rẽ vào đường vòng, tăng ga hòa vào dòng xe cộ hướng về phía Bắc.
Gần như ngay lập tức, một xe tải khác ầm ầm chạy xuống đường vòng dẫn lên phía Nam, rời dòng xe từ miền Bắc tới. Là một chiếc xe kiểu tương tự. Cùng hãng, cùng kích thước, cùng lớp bụi trên quốc lộ. Nó ì ạch chạy tới đường dẫn vào nhà kho. Tôi nheo mắt nhìn qua ống nhòm. Biển của bang Illinois. Nó lặp lại đúng quy trình cũ. Dừng ở cổng. Lùi
vào cửa cuốn. Gác cổng thế chỗ tài xế. Cửa cuốn kéo lên đủ lâu để nuốt chiếc xe vào bóng tối. Nhanh chóng và hiệu quả. Lại từ đầu đến cuối hết khoảng ba mươi giây. Và bí mật. Các lái xe đường dài không được phép vào nhà kho. Họ phải đợi bên ngoài.
Chiếc xe tải biển Illinois ra sớm hơn. Mười sáu phút. Tài xế nhận lại vị trí sau tay lái và chạy ra ngoài, trở lại quốc lộ. Tôi quan sát xe anh ta chạy qua, cách hai mươi mét.
Giả thuyết của chúng tôi là cả hai chiếc xe tải chất loại hàng gì đó đang chạy về hướng Bắc. Ầm ầm trở lại các thành phố lớn mạn trên đó, sẵn sàng dỡ hàng. Đến lúc này thì giả thuyết của chúng tôi có vẻ hợp lý. Tôi không thể phủ nhận.
Trong một giờ tiếp theo, chẳng có gì diễn ra. Nhà kho thứ tư tiếp tục đóng chặt. Tôi bắt đầu thấy chán. Tôi bắt đầu ước giá như người đàn ông lang thang không bỏ đi. Chúng tôi đã có thể tán gẫu một lúc. Rồi tôi thấy chiếc xe thứ ba trong ngày xuất hiện. Tôi nâng ống nhòm lên và thấy biển của bang California. Cùng loại xe trước, màu đỏ bẩn thỉu, ầm ầm rời khỏi quốc lộ hướng về phía nhà kho thứ tư. Nó trải qua quy trình khác với hai chiếc đầu. Xe chạy qua cổng nhưng không đổi tài xế. Xe chỉ đi thẳng qua cửa cuốn vào trong kho. Rõ ràng tài xế này được phép trông thấy những thứ có trong đó. Rồi lại một khoảng thời gian chờ đợi. Tôi ước chừng hai mươi phút. Rồi cửa cuốn kéo lên và xe tải trở ra. Chạy thẳng qua cổng hướng về phía quốc lộ.
Tôi ra một quyết định nhanh chóng. Đến lúc phải đi. Tôi muốn xem những thứ bên trong một trong các xe tải đó. Thế nên tôi tụt xuống, túm lấy ống nhòm và bi đông nước. Chạy phía dưới cầu vượt về mé đường vòng dẫn lên phía Bắc. Leo lên bờ dốc và nhảy qua bức tường bê tông. Trở lại chỗ chiếc Cadillac cũ. Tôi đóng sầm nắp ca pô và vào xe. Mở máy rồi chạy theo vai đường. Chờ để tạo khoảng cách và cho động cơ lớn rú lên. Xoay tay lái tăng ga chạy lên hướng Bắc.
Tôi cho là chiếc xe tải đỏ chạy phía trước mình chừng ba, bốn phút. Không nhiều hơn mức ấy. Tôi vọt qua một loạt xe cộ và tăng ga chiếc xe cũ nặng nề. Rồi đều đều với tốc độ nhanh. Tôi cho là mình đang rút ngắn toàn bộ thời gian bám theo chiếc xe tải. Sau vài dặm, tôi phát hiện ra nó. Giảm tốc độ và tụt hẳn lại, có lẽ sau chiếc xe tải ba trăm mét. Duy trì cho khoảng sáu xe chạy giữa xe đó và xe tôi. Tôi ngồi thả người thư giãn. Theo giả thuyết cây đèn nhiều nhánh của Roscoe, chúng tôi đang chạy về Los Angeles.
Chúng tôi chầm chậm chạy về hướng Bắc. Tốc độ không quá năm mươi dặm một giờ. Bình xăng chiếc Cadillac gần đầy. Có thể cho phép tôi chạy ba trăm dặm, có khi ba trăm năm mươi. Với tốc độ chậm thế này có thể đạt cự ly xa hơn. Tăng ga chẳng khác nào uống xăng. Đạp ga chiếc xe cũ động cơ V8 đã tám năm tuổi này sẽ tiêu hao xăng nhanh hơn cả cà phê chảy từ bình xuống. Nhưng chạy ổn định sẽ giúp tôi có được quãng đường khá hơn. Có thể tới bốn trăm dặm. Có khi đủ tới tận Memphis.
Chúng tôi cứ chạy. Phía trước ba trăm mét, chiếc xe tải đỏ trông to và rõ. Nó rẽ về phía trái, vòng qua rìa Nam Atlanta. Hướng ra phía Tây, băng ngang đất nước. Giả thuyết về phân phối có vẻ họp lý. Tôi giảm tốc độ tụt lại bằng cách đổi làn. Không muốn tay tài xế nghi ngờ về chuyện bị bám đuôi. Nhưng qua cách tay tài xế chuyển làn, tôi có thể thấy hắn không phải dạng hay dùng gương. Tôi áp sát thêm chút.
Chiếc xe tải đỏ vẫn chạy. Tôi cách nó tám xe. Thời gian cứ trôi. Đã cuối buổi chiều. Rồi đầu buổi tối. Vừa lái xe tôi vừa ăn kẹo và nhấp nước thay bữa tối. Tôi không mở được đài. Nó là một kiểu đài của Nhật. Chắc hẳn ông bạn ở cửa hàng ô tô đã lắp nó vào xe. Có lẽ nó đã hỏng. Tôi tự hỏi liệu có phải ông ta đang phủ sơn màu lên cửa sổ chiếc Bentley. Tôi tự hỏi liệu Charlie sẽ nói gì khi nhận lại xe với lớp kính đen. Tôi cho đó là thứ cô ít lo lắng nhất. Chúng tôi tiếp tục chạy. Chúng tôi chạy gần bốn trăm dặm. Tám tiếng. Chúng tôi chạy khỏi Georgia, qua Alabama, tới góc phía Đông Bắc Mississippi. Trời đã tối đen. Mặt trời mùa thu đã hạ xuống phía trước mặt. Xung quanh đã lên đèn. Chúng tôi lái xe qua bóng tối suốt nhiều giờ. Cảm giác như suốt đời tôi bám theo tay tài xế kia. Rồi lúc gần nửa đêm, chiếc xe tải đỏ chạy chậm lại. Phía trước nửa dặm, tôi thấy nó rẽ vào một trạm nghỉ dành cho xe tải ở một nơi chẳng ai biết tới. Gần một nơi có tên Myrtle. Có lẽ còn cách ranh giới bang Tennessee sáu mươi dặm. Có lẽ cách Memphis bảy mươi dặm. Tôi theo chiếc xe tải vào bãi đỗ. Đậu cách xa nó.
Tôi thấy tài xế ra khỏi xe. Một tên cao to. Cái cổ to và dày, đôi vai khỏe. Da sẫm, hơn ba mươi tuổi. Đôi tay dài như tay vượn. Tôi biết hắn là ai. Hắn chính là con trai Kliner. Một gã tâm thần máu lạnh.
Tôi quan sát gã trai. Hắn đứng trong bóng tối cạnh chiếc xe tải, duỗi chân tay và ngáp. Tôi chăm chăm nhìn và hình dung ra hắn vào đêm thứ Năm tuần trước, ở cổng nhà kho, nhảy múa.
Thằng con nhà Kliner khóa cửa xe tải và thong thả đi về phía mấy tòa nhà. Tôi đợi một lát rồi bám theo hắn. Cho là hắn sẽ đi thẳng vào khu vệ sinh nên tôi nấn ná ở quầy sách báo sáng đèn và quan sát cửa. Tôi thấy tên kia đi ra và quan sát hắn thong thả đi vào khu ăn uống. Kliner con ngồi xuống một bàn và lại vươn vai duỗi người, cầm thực đơn lên với vẻ thoải mái của một kẻ hết sức ung dung. Hắn đến đây dùng bữa tối muộn. Tôi nghĩ hắn sẽ dành cho việc ấy hai mươi phút. Có thể nửa giờ. Tôi trở lại bãi đỗ xe. Tôi muốn đột nhập vào chiếc xe tải đỏ xem bên trong. Nhưng tôi thấy không có cơ hội làm việc ấy ngoài bãi đỗ. Không có cơ hội nào. Người ta đi lại xung quanh và có vài chiếc xe tuần tra của cảnh sát đảo qua đảo lại. Toàn bộ khu vực đều sáng rực ánh đèn. Muốn đột nhập vào xe thì phải chờ đợi.
Tôi bước trở về khu nhà. Ép người vào một buồng điện thoại bấm số đồn Margrave. Finlay bốc máy ngay. Tôi nghe âm Harvard sâu của ông. Đội trưởng thám tử đang ngồi bên điện thoại, đợi tôi báo về.
"Ông đang ở đâu thế?" ông hỏi.
"Cách Memphis không xa. Tôi theo dõi một xe tải bốc hàng lên và tôi đang bám dính nó cho tới khi nào có cơ hội quan sát bên trong. Lái xe là thằng con trai Kliner."
"OK," Finlay bảo. 'Tôi đã nghe thông tin từ Picard. Roscoe đã vào vị trí an toàn. Bây giờ thì ngủ say rồi, nếu cô ấy còn biết cảm nhận. Ông ấy bảo rằng cô ấy gửi tình yêu đến ông."
"Gửi lại tình yêu của tôi cho cô ấy nếu ông có dịp nhé. Bảo trọng đấy, ông bạn Harvard."
"Ông cũng cẩn thận nhé!". Finlay nói. Rồi gác máy.
Tôi quay trở về chiếc Cadillac. Vào xe đợi. Khoảng nửa tiếng sau thì thằng con nhà Kliner quay ra. Tôi thấy hắn bước trở lại chiếc xe tải đỏ. Tên này đang dùng mu bàn tay lau miệng. Trông có vẻ hắn có một bữa tối ngon lành. Chắc chắn đã mất thời gian đủ lâu. Gã trai bước khỏi tầm quan sát. Một phút sau chiếc xe tải rầm rầm chạy qua ngoặt vào đường ra khỏi bãi. Nhưng thằng nhóc không quay lại quốc lộ. Hắn rẽ trái vào một đường nhỏ. Hắn đang tới motel. Hắn sẽ ở lại qua đêm. Kliner con chạy xe thẳng tới dãy phòng nghỉ. Đỗ xe tải đỏ ngay phòng gần cuối. Ngay dưới ánh sáng của một trụ đèn lớn. Hắn ra khỏi xe khóa cửa. Lấy chìa khóa trong túi ra để mở cửa phòng. Đi vào rồi đóng kín cửa. Tôi thấy đèn bật lên và mành hạ xuống. Hắn đút chìa khóa vào túi. Hắn đã không đi vào phòng trực. Chắc chắn lúc ở trong đó ăn tối, Kliner con đã đặt phòng này. Chắc chắn hắn đã thanh toán và lấy chìa khóa. Đó là lý do khiến hắn ở trong đó lâu đến thế.
Chuyện này gây vấn đề khó khăn cho tôi. Tôi cần xem bên trong chiếc xe tải. Tôi cần có bằng chứng. Tôi cần biết rằng mình đang hành động vì lẽ phải. Và tôi cần biết sớm. Còn bốn mươi tám tiếng nửa là Chủ nhật. Tôi có nhiều việc cần làm trước Chủ nhật. Rất nhiều việc. Tôi phải đột nhập vào xe tải, ngay ở đây, giữa quầng sáng của trụ đèn. Trong khi thằng con tâm thần nhà Kliner đang ở trong phòng motel cách dó có ba mét. Đó là việc làm liều lĩnh nhất. Tôi sẽ phải chờ để làm việc ấy. Tận tới khi thằng nhỏ ngủ say, không nghe thấy tiếng sột soạt, lịch kịch khi tôi làm việc của mình.
Tôi chờ nửa tiếng. Không thể chờ thêm chút nào nữa. Tôi mở máy chiếc Cadillac cũ chạy xuyên sự tĩnh lặng. Các cân bộ phận truyền động mở ra và các pít tông đang gõ. Động cơ gây tiếng ồn ghê gớm trong đêm yên tĩnh. Tôi đỗ xe sát chiếc xe tải đỏ. Đầu xe quay vào, thẳng cửa phòng thằng nhóc. Tôi leo qua ghế phụ. Đứng yên lắng nghe. Chẳng thấy gì.
Tôi lấy con dao bấm của Morison từ túi áo khoác ra và bước lên cản sốc trước của chiếc Cadillac. Bước lên nắp ca pô và qua kính chắn gió. Lên nóc chiếc Cadillac, vẫn đứng im, trên cao. Lắng nghe thật kỹ. Không có gì. Tôi bám vào chiếc xe tải và leo lên nóc xe. Một chiếc xe thùng kín kiểu này có nóc mờ dục. Dạng sợi thủy tinh. Người ta làm nóc xe bằng chất liệu đó, hoặc ít nhất cho ánh sáng chiếu qua tấm kim loại. Tác dụng là cho ánh sáng mờ lọt vào khoang chứa hàng. Giúp cho việc bốc dỡ hàng. Có lẽ để khối lượng nhẹ hơn. Có lẽ để chi phí rẻ hơn. Các nhà chế tạo sẽ làm bất kỳ điều gì để tiết kiệm một đô lẻ. Nóc là đường tốt nhất để đột nhập vào một chiếc xe tải kiểu ấy.
Phần trên nguời tôi đang ép xuống tám sợi thủy tinh còn hai chân quờ trên gờ thoát nước mưa của chiếc Cadillac. Tôi với tay ra hết tầm và vung mạnh con dao bấm. Đâm qua tim nhựa ngay ở phần giữa nóc xe. Dùng lưỡi dao cưa một khoảng sâu chừng hai lăm phân, rộng bốn lăm phân. Tôi có thể đẩy xuống mà ngó vào. Như ngó xuống qua một khe nông.
Đèn trong phòng motel bật sáng. Mành cửa sổ thả ra một quầng sáng vàng, vuông lên chiếc Cadillac. Qua phía bên của chiếc xe tải đỏ. Qua hai chân tôi. Tôi hầm hừ đẩy mạnh người lên. Bò lên nóc xe tải. Nằm dán người xuống im lặng. Nín thở.
Cửa phòng motel mở. Kliner con bước ra. Chằm chằm nhìn chiếc Cadillac. Cúi người ngó vào bên trong. Bước vòng quanh kiểm tra xe tải. Kiểm tra hai cửa ca bin. Giật mạnh các tay nắm cửa. Chiếc xe rung lắc phía dưới người tôi. Gã trai bước vòng về sau thử các cánh cửa sau. Giật các tay nắm. Tôi nghe tiếng các cánh cửa kêu rít lên do miết vào khóa.
Kliner con bước một vòng quanh chiếc xe tải. Tôi nằm yên nghe tiếng bước chân hắn phía dưới. Hắn lại xem chiếc Cadillac lần nữa. Rồi hắn bước vào phòng. Cánh cửa đóng sầm lại. Đèn vụt tắt. Khoảng sáng vàng biến mất.
Tôi đợi năm phút. Chỉ nằm đợi trên nóc xe. Rồi tôi chống hai khuỷu tay nâng người lên. Đến chỗ khe hẹp trên lớp sợi thủy tinh mình mới tạo ra. Đẩy miếng bị cắt xuống và thò các ngón tay vào. Nhoài người lên nhìn vào.
Trong xe tải không có gì. Hoàn toàn không có gì. Chẳng có gì hết.