• 338

Chương 32


Số từ: 3742
Dịch giả: Trần Quý Dương
C.ty Nhã Nam phát hành
NXB Thời Đại
Đến đầu Bắc của Phố Chính, tôi giảm tốc độ nhẹ nhàng chạy theo hướng Nam, xuyên qua thị trấn đang say giấc. Không ai nói gì. Hubble đang nằm trên băng ghế sau, người run lẩy bẩy. Finlay ngồi cạnh tôi ở ghế phụ. Chỉ ngồi yên, cứng đơ, chằm chằm nhìn qua kính. Cả ba chúng tôi đều thở dốc. Chúng tôi đang ở trạng thái yên lặng diễn ra sau tình huống nguy hiểm đầy căng thẳng.
Đồng hồ trên bảng điều khiển báo một giờ sáng. Tôi muốn ẩn mình tới tận bốn giờ. Tôi có suy nghĩ hơi mê tín về thời điểm bốn giờ sáng. Chúng tôi thường gọi đó là giờ KGB. Chuyện là đây là thời điểm họ hay chọn để gõ cửa nhà các đối tượng. Lúc bốn giờ sáng. Chuyện là thời điểm ấy luôn rất tốt với họ. Vào giờ đó sự tỉnh táo của các nạn nhân ở mức thấp. Thực hiện công việc dễ dàng. Bản thân chúng tôi thi thoảng đã thử. Với tôi thì luôn tốt. Thế nên tôi muốn đợi tới bốn giờ, lần cuối cùng.
Tôi đánh xe sang trái rồi lại sang phải, theo con ngõ phía sau dãy cửa hiệu cuối cùng. Tắt đèn pha rồi tấp vào khoảng tối phía sau tiệm cắt tóc. Tắt máy. Finlay liếc quanh nhún vai. Đến tiệm cắt tóc lúc một giờ sáng không điên rồ hơn lao chiếc Bentley trị giá một trăm ngàn đô vào một tòa nhà. Không điên rồ hơn việc bị một tên điên xích vào buồng giam mười tiếng đồng hồ. Sau hai chục năm ở Boston và sáu tháng ở Margrave, chẳng còn mấy chuyện khiến Finlay phải nhướng mắt. Hubble ngồi chúi người trên ghế sau. Anh ta thực sự sốc. Anh chàng đã chủ động đâm xe ba lần liền. Ba vụ va chạm khiến anh chàng này chấn động. Và kiệt sức. Phải mất rất nhiều sức mới có thể liên tục đạp ga, hướng tới hết mục tiêu vững chắc này tới mục tiêu khác. Nhưng Hubble đã làm được việc ấy. Không phải ai cũng làm được. Nhưng bây giờ anh ta đang phải chịu đựng. Tôi lách người khỏi ghế đứng trong ngõ. Ra hiệu cho Hubble ra khỏi xe. Anh ta ra đứng cùng tôi trong bóng tối. Đứng đó, không vững lắm.
"Anh ổn chứ?" tôi hỏi Hubble.
Anh chàng nhún vai.
'Tôi cho là thế," anh ta đáp. "Tôi bị va đầu gối, cổ đau như gãy."
"Đi đi lại lại đi," tôi bảo. "Đừng ngồi lì một chỗ",
Tôi dìu Hubble đi đi lại lại ở con ngõ nhỏ. Bước chục bước rồi quay lại, làm vài lần. Khi bước, chân trái anh chàng hơi tập tễnh. Có lẽ cửa xe móp vào đập phải đầu gối trái anh ta. Hubble xoay đầu vòng quanh, thả lỏng các cơ bị cứng ở cổ.
"OK chứ?" tôi hỏi.
Anh ta mỉm cười. Nụ cười chuyển thành cái nhăn nhó khi một đường gân co lại.
"Tôi sẽ sống thôi", anh ta đáp.
Finlay ra khỏi xe, đến chỗ hai chúng tôi ở ngõ. Ông bước lại, vừa đi vừa duỗi người. Thấy phấn khích. Ông mỉm cười với tôi trong bóng tối.
"Làm tốt đấy, Reacher," viên thám tử nói. "Khi ấy tôi đang băn khoăn anh sẽ làm thế quái nào để cứu tôi ra. Chuyện gì đã xảy ra với Picard thế?"
Tôi dùng ngón tay làm hình khẩu súng, như kiểu bắt chước của một đứa trẻ. Finlay dành cho tôi cái gật đầu với tư cách đồng sự. Quá dè dặt nên không thể tiến xa hơn. Tôi bắt tay ông. Có vẻ là việc làm đúng. Rồi tôi xoay người vỗ nhẹ lên cửa phụ ở phía sau tiệm cắt tóc. Cửa mở ngay lập tức. Ông già lớn tuổi hơn đứng đó như đang đợi chúng tôi gọi cửa. Ông giữ cánh cửa như một viên quản gia già. Ra hiệu cho chúng tôi vào. Chúng tôi bước theo hàng một dọc hành lang vào nhà kho. Đứng đợi bên cạnh những giá xếp đầy đồ phục vụ cho nghề cắt tóc. Ông già xương xẩu bước tới chỗ chúng tôi.
"Chúng tôi cần sự giúp đỡ của các ông," tôi nói.
Ông già nhún vai. Giơ lòng bàn tay màu nâu lên làm hiệu cho chúng tôi đợi. Chậm chạp bước ra phía trước và trở lại cùng người bạn. Ông già ít tuổi hơn. Họ thì thào bàn bạc với nhau về đề nghị của tôi.
"Lên gác," ông ít tuổi hơn nói.
Chúng tôi dồn vào cầu thang hẹp. Lên một căn hộ ở phía trên hiệu cắt tóc. Hai ông già dẫn chúng tôi tới phòng khách. Họ kéo rèm và bật vài bóng đèn mờ. Chìa tay bảo chúng tôi ngồi. Căn phòng nhỏ cũ rích nhưng sạch sẽ. Có cảm giác ấm áp. Tôi nghĩ nếu mình có một căn phòng, tôi muốn nó trông thế này.
Chúng tôi ngồi xuống. Ông già ít tuổi hơn ngồi cùng chúng tôi, ông kia lại bước ra ngoài. Đóng cửa lại. Cả bốn chúng tôi ngồi nhìn nhau. Rồi ông già cắt tóc cúi người về phía trước.
"Các anh không phải người đầu tiên trốn chỗ chúng tôi," ông nói.
Finlay liếc quanh. Tự chỉ định mình làm người phát ngôn.
"Thật hả?" ông nói.
"Không thưa ông, các ông không phải những người đầu tiên", ông già nói. "Chúng tôi có nhiều người đến đây ẩn mình. Và nói thật là cả các cô gái nữa."
"Như những người nào?"
"Người kiểu nào ông nêu ra cũng có. Chúng tôi có những chàng trai làm cho công đoàn từ các nông trang trồng lạc. Chúng tôi có những người làm cho các công đoàn từ những nơi trồng đào. Chúng tôi có các cô gái bảo vệ quyền con người từ nơi đăng ký cử tri. Chúng tôi có các chàng trai không muốn bị điều tới Việt Nam. Ông nêu loại người nào chúng tôi cũng có."
Finlay gật đầu.
"Và bây giờ thì ông có chúng tôi", ông nói.
"Rắc rối ở địa phương này à?" ông già cắt tóc hỏi.
Finlay một lần nữa gật dầu.
"Rắc rối lớn," ông nói. "Những thay đổi lớn đang tới."
"Chúng tôi đã chờ đợi," ông già nói. "Chờ đợi nhiều năm rồi."
"Các ông đợi sao?"
Ông thợ cắt tóc gật đầu đứng dậy. Bước tới chỗ chiếc tủ lớn. Mở cửa rồi vẫy chúng tôi lại xem. Đây là chiếc tủ lớn, xếp đầy các giá sâu. Những giá này xếp chặt tiền. Từng cọc, từng cọc tiền buộc lại với nhau bằng nịt cao su. Tiền xếp từ đáy tới nóc tủ. Trong này phải có vài trăm ngàn đô la.
'Tiền của Quỹ Kliner," ông già nói. "Chúng cứ ném tiền vào chúng tôi suốt. Chuyện ấy có gì đó không ổn. Tôi bảy mươi tư tuổi rồi. Suốt bảy mươi năm người ta coi chúng tôi như rác. Giờ thì người ta ném tiền vào chúng tôi. Chuyện đó có gì không ổn, đúng chứ?"
Ông già đóng cửa tủ chứa tiền.
"Chúng tôi không tiêu tiền này", ông nói. "Chúng tôi không tiêu một xu nào không do mình kiếm được. Chúng tôi chỉ cất vào tủ. Các anh đang điều tra Quỹ Kliner phải không?"
"Ngày mai sẽ không còn Quỹ Kliner nào nữa", tôi nói.
Ông già chỉ gật đầu. Liếc cửa tủ khi ông bước qua và lắc đầu. Khép cửa phòng rồi để chúng tôi lại trong căn phòng nhỏ ấm cúng.
"Sẽ không dễ đâu," Finlay nói. "Ba chúng ta và ba tên bọn chúng. Chúng giữ bốn con tin. Hai con tin là trẻ em. Chúng ta thậm chí còn không chắc chắn nơi chúng đang giam giữ các con tin."
"Họ đang ở nhà kho," tôi nói. "Điều đó thì chắc chắn. Họ còn ở đâu khác được nữa? Không có nhân lực để giam họ ở bất kỳ nơi nào khác. Hơn nữa ông đã nghe đoạn băng ấy. Âm vọng ro ro đó. Đó là nhà kho, chắc chắn như vậy."
"Băng nào?" Hubble hỏi.
Finlay nhìn anh ta.
"Chúng bắt Roscoe ghi băng đó cho Reacher," ông nói. "Một thông điệp. Để chứng minh rằng bọn chúng đang giữ cô ấy."
"Roscoe à?" Hubble nói. "Còn Charlie thì sao?"
Finlay lắc đầu.
"Chỉ Roscoe thôi", ông nói dối. "Không có Charlie."
Hubble gật đầu. Tôi nghĩ ông bạn Harvard này làm thế là khôn ngoan. Hình ảnh Charlie bị dúi đầu xuống micro với lưỡi dao sắc kề cuống họng sẽ đẩy Hubble ngã nhào. Khỏi bờ vực, trở lại nơi cơn hoảng loạn đã biến anh ta thành kẻ vô dụng.
"Nhà kho là nơi họ đang ở," tôi nói. "Không nghi ngờ gì điều ấy."
Hubble biết rõ về nhà kho. Trong một năm rưỡi, gần như ngày nào anh ta cũng làm việc ở đó. Thế nên chúng tôi bảo anh ta tả đi tả lại kiểu sắp xếp ở đó. Chúng tôi kiếm giấy và bút chì rồi bảo Hubble vẽ sơ đồ. Chúng tôi đảo đi đảo lại sơ đồ này, vẽ đủ mọi cửa ra vào, cầu thang, ghi chú các khoảng cách, các chi tiết. Cuối cùng chúng tôi tạo ra được một sơ đồ mà đến cả kiến trúc sư cũng phải hài lòng.
Nhà kho mục tiêu đứng riêng lẻ ở cuối dãy bốn kho. Nó rất gần với nhà kho thứ ba, vốn là nơi làm việc của các nông dân. Có hàng cọc rào giữa hai nhà kho này, giữa nó và lớp kim loại dát ngoài chỉ có một lối đi nhỏ. Ba mặt còn lại là hàng rào chính bao bọc toàn khu kho. Hàng rào đó chạy sát nhà kho, vòng ra mặt sau và vòng qua đầu bên kia, nhưng ở phía trước có nhiều khoảng trống cho xe tải quay đầu. Cửa cuốn choán gần hết bức tường phía trước. Có một cửa nhỏ ở góc phía xa để đi vào phần sàn chính. Đi vào cửa đó rẽ trái, có một cầu thang bằng kim loại dẫn tới một phòng làm việc. Phòng này nằm ở góc trên cùng phía cuối nhà kho khổng lồ, cách sàn chính khoảng mười hai mét. Phòng này có các cửa sổ lớn, một ban công có tay vịn nhìn thẳng xuống để có thể giám sát nhà kho. Ở phía sau, phòng có một cửa dẫn ra lối thoát hiểm bên ngoài vốn là một cầu thang kim loại khác hàn vào mặt ngoài bức tường phía sau.
"OK," tôi nói. "Thế là rõ rồi nhỉ?"
Finlay nhún vai.
'Tôi lo về lực lượng tăng cường," ông nói. "Bọn gác phía ngoài",
Tôi nhún vai lại với đội trưởng thám tử.
"Sẽ không có lực lượng tăng cường nào cả," tôi bảo. "Tôi lo mấy khẩu súng trường hơn. Nơi đó rộng. Và trong đó có hai đứa trẻ."
Finlay gật đầu. Trông đăm chiêu. Ông biết tôi đang nói gì. Súng trường vãi ra những mảnh đạn chì theo hình nón rộng. Súng trường và trẻ em không thể đồng hành với nhau. Chúng tôi im lặng. Đã gần hai giờ sáng. Còn một tiếng rưỡi để đợi. Chúng tôi sẽ lên đường lúc 3 giờ 30. Đến đó lúc bốn giờ. Thời điểm tấn công mà tôi thích.
Thời gian chờ đợi. Như những người lính dưới chiến hào. Như các phi công trước một cuộc đột kích. Im lặng.
Finlay lơ mơ ngủ. Trước đây ông từng trải qua việc này. Có khi nhiều lần rồi. Ông nằm dài ra ghế. Cánh tay trái thõng qua một bên. Nửa chiếc còng bị cắt lủng lẳng trên cổ tay viên thám tử. Trông như chiếc vòng tay bằng bạc.
Hubble ngồi thẳng dậy. Trước đây anh ta chưa trải qua việc này lần nào. Anh ta đứng ngồi không yên, thế chỉ tổ tốn năng lượng. Chẳng thể đổ lỗi cho anh chàng. Anh ta cứ nhìn tôi suốt. Những câu hỏi hiện lên trong mắt Hubble. Tôi liên tục nhún vai với anh ta. 2 giờ 30 có tiếng gõ cửa. Chỉ là tiếng gõ nhẹ. Cửa mở ra chừng ba mươi phân. Ông già cắt tóc nhiều tuổi hơn đang đứng đó. Ông trỏ ngón tay xương xẩu run rẩy vào trong phòng. Thẳng vào tôi.
"Có người cần gặp cậu, con trai ạ," ông bảo.
Finlay ngồi thẳng dậy còn Hubble trông sợ hãi. Tôi ra hiệu cho cả hai ở yên chỗ. Đứng dậy lôi khẩu tự động to đùng khỏi túi. Mở khóa an toàn. Ông già khoát hai tay ngăn tôi lại.
"Anh không cần đến thứ đó đâu, con trai," ông nói. "Không cần đến nó chút nào hết."
Ông già đang mất kiên nhẫn, ra hiệu cho tôi ra ngoài cùng ông. Tôi lại cất súng đi. Nhún vai với hai người kia và đi ra cùng ông già cắt tóc. Ông dẫn tôi vào căn bếp bé xíu. Trong này có một người phụ nữ rất già, đang ngồi trên chiếc ghế cao. Cũng có nước da nâu gỗ gụ như ông già, gây tong teo. Bà trông như cây giữa mùa đồng.
"Đây là chị gái tôi," ông già cắt tóc nói. "Đám các anh nói chuyện đã làm bà ấy thức giấc".
Rồi ông bước tới bên người phụ nữ. Cúi người nói vào tai bà.
"Đây là cậu bé em đã kể với chị," ông nói.
Bà già ngước lên mỉm cười với tôi. Rạng rỡ như mặt trời. Tôi phát hiện ra nét đẹp chắc chắn bà từng có, cách đây rất lâu rồi. Bà già chìa một tay ra, tôi nắm lấy. Cảm giác như
những đường chỉ mỏng trên chiếc găng tay mềm đã khô. Ông già để hai chúng tôi lại trong bếp. Bước qua chỗ tôi, ông dừng lại
"Hãy hỏi chị tôi về ông ấy," ông bảo.
Ông chậm chạp bước ra. Tôi vẫn cầm tay bà cụ. Ngồi xổm xuống cạnh bà. Bà già không cố kéo tay ra. Chỉ để nguyên đó, như một nhánh cây nâu trong bộ móng khổng lồ của tôi.
'Ta nghe không được tốt lắm", bà nói. "Anh phải ghé sát vào".
Tôi nói vào tai bà. Bà tỏa ra mùi như một bông hoa nở đã lâu. Như một bông hoa đã phai sắc.
"Như thế này bà có nghe được không?" tôi hỏi.
"Thế thì tốt, con trai. Ta có thể nghe được."
"Cháu đã hỏi em trai bà về Blake Mù," tôi nói.
"Ta biết chuyện đó, con trai. Cậu ấy đã kể cho ta nghe điều đó."
"Ông ấy bảo cháu rằng bà biết Blake," tôi nói vào tai bà
"Chắc chắn ta biết chứ. Ta biết rõ ông ấy."
"Bà kể cho cháu nghe về ông ấy được chứ?"
Bà già xoay đầu chăm chú nhìn tôi vẻ buồn bã.
"Có gì để kể chứ?" bà nói. "Ông ấy đã đi xa rất lâu rồi."
"Ông ấy là người thế nào?" tôi hỏi.
Bà già vẫn chăm chú nhìn tôi. Hai mắt mơ màng khi trở về với quá khứ cách đây sáu bảy mươi năm.
"Ông ấy mù," bà đáp.
Thêm một lúc nữa bà không nói gì. Hai môi mấp máy không thành tiếng và tôi có thể cảm nhận được mạch đang đập dồn dập ở cổ tay xương xẩu của bà. Bà khẽ quay đầu như đang cố gắng nghe gì đó từ chốn xa xăm.
"Ông ấy mù", bà nhắc lại. "Và ông ấy là một cậu bé ngọt ngào."
Bà già đã hơn chín mươi tuổi. Tuổi bà như ngang với thế kỷ hai mươi. Thế nên bà đang nhớ lại thời hai mươi, ba mươi tuổi. Không phải nhớ lại thời thơ ấu hay thời thiếu nữ. Bà đang nhớ lại thời đã trở thành một người đàn bà. Và bà nhớ tới Blake như một cậu bé ngọt ngào.
"Ta là ca sĩ," bà nói. "Còn ông ấy chơi ghi ta. Anh biết rằng ông ấy có thể chơi ghi ta như làm ảo thuật chứ? Đó là cách ta hay nói về Blake. Ông ấy cầm cây đàn cũ lên và các nốt nhạc cứ thế tuôn ra, nhanh hơn cả tốc độ anh có thể hát. Nhưng mỗi nốt nhạc đều là một tiếng chuông hoàn hảo ngân trong không gian. Chúng ta hát và chơi nhạc suốt cả đêm, rồi đến sáng ta đưa ông ấy ra đồng cỏ, chúng ta ngồi dưới gốc cổ thụ nào đó, chúng ta sẽ hát và chơi nhạc tiếp. Chỉ để tận hưởng niềm vui. Chỉ bởi vì ta có thể hát còn ông ấy có thể chơi nhạc".
Vừa thở bà già vừa ngân nga vài nhịp. Giọng của bà thấp hơn mức cần ngân khoảng một phần năm quãng tám. Bà gầy gò và mong manh đến nỗi ta tưởng như nghe thấy chất giọng nữ cao không còn phong độ. Nhưng bà già đang hát giọng nữ trầm, thấp như hơi thở. Tôi theo dòng suy nghĩ cùng bà và tưởng tượng ra hai người trên đồng cỏ xưa của Georgia. Mùi hoa dại nồng đậm, tiếng vo ve buổi trưa của đám côn trùng lười biếng, hai người tựa lưng vào gốc cây, vừa hát vừa chơi đàn chỉ vì niềm vui được làm việc ấy. Cao giọng ngân nga những bài hát châm biếm ngang tàng Blake đã sáng tác mà tôi rất yêu thích.
"Chuyện gì đã xảy ra với ông ấy?" tôi hỏi. "Bà biết chứ?"
Bà già gật đầu.
"Hai người trên trái đất biết điều ấy," bà thì thầm. "Ta là một trong hai người đó."
"Bà sẽ kể cho cháu chứ? Cháu tới đây để tìm hiểu chuyện ấy."
"Sáu mươi hai năm rồi. Ta chưa kể cho bất kỳ ai trong sáu mươi hai năm qua."
"Bà sẽ kể cho cháu chứ?" tôi nhắc lại.
Bà già gật đầu. Buồn bã. Nước mắt ngấn trong đôi mắt già nua như sương khói.
''Sáu mươi hai năm rồi," bà nói. "Anh là người đầu tiên hỏi ta về chuyện này."
Tôi nín thở. Đôi môi bà già mấp máy, bàn tay run lên trong tay tôi.
"Ông ấy mù," bà nói. "Và ông ấy hoạt bát. Anh biết từ đó chứ? Hoạt bát ấy? Nghĩa là một kiểu tự cao. Tự cao cùng với nụ cười và vẻ nhăn nhở là hoạt bát. Blake hoạt bát. Đầy sức sống và tinh thần. Bước nhanh, nói nhanh, luôn đi lại, luôn cười như quên hết mọi thứ. Nhưng có một lần, chúng tôi bước ra từ một nơi trong thị trấn này, vừa đi theo vỉa hè vừa cười. Chẳng có ai xung quanh trừ hai kẻ da trắng trên vỉa hè tiến về phía chúng tôi. Một gã đàn ông cùng một đứa con trai. Tôi trông thấy chúng liền né khỏi vỉa hè, như chúng tôi phải làm thế. Đứng trên nền đất để bọn chúng đi qua. Nhưng Blake tội nghiệp bị mù. Không nhìn thấy hai kẻ đó. Chỉ đâm sầm vào đứa con trai da trắng. Một đứa con trai da trắng, có lẽ mười, mười hai tuổi. Blake khiến nó ngã lăn ra nền đất. Thằng con trai da trắng chảy máu đầu vì va phải một hòn đá, hét rống lên, anh chưa bao giờ nghe thấy đứa nào la hét thế đâu. Cha của thằng bé ấy ở bên cạnh nó. Tôi biết hắn. Hắn là một kẻ quan trọng trong thị trấn này. Thằng con trai hắn hò hét như điên. Hét đòi cha nó trừng phạt người da đen kia. Thế nên cha nó nổi đóa đánh Blake bằng cây gậy của hắn. Đầu gậy có tay nắm to bằng bạc. Hắn quất Blake bằng cây gậy đó cho tới lúc đầu ông ấy vỡ toác như quả dưa hấu. Giết ông ấy chết tươi. Nhấc thằng con lên và quay sang tôi. Bắt tôi đến máng ngựa rửa hết tóc, máu và óc của Blake bám ở đầu gậy của hắn. Bảo tôi không bao giờ được hé răng với ai, nếu không hắn cũng sẽ giết tôi. Thế nên tôi chỉ trốn đi đợi cho tới khi một người khác thấy Blake tội nghiệp nằm đó trên vỉa hè. Rồi tôi bỏ chạy, vừa chạy vừa la hét cho những người còn lại. Chẳng nói lời nào về chuyện đó cho bất kỳ ai, đến tận ngày hôm nay."
Những giọt nước mắt lớn trào ra từ hai mắt bà già từ từ lăn xuống đôi má hóp lại. Tôi đưa tay lau khô nước mắt cho bà lão. Cầm bàn tay kia của bà lão.
"Đứa con trai ấy là ai?" tôi hỏi.
"Là kẻ tôi vẫn trông thấy từ đó đến giờ," bà nói. "Một kẻ mà từ đó đến giờ tôi thấy gần như ngày nào cũng có những lời chế nhạo, làm tôi nhớ tới Blake tội nghiệp của tôi nằm đó với cái đầu vỡ toác."
"Hắn là ai?"
"Đó là việc ngoài ý muốn," bà già nói. "Bất kỳ ai cũng có thể đã thấy thế. Blake tội nghiệp là người mù. Thằng con to ai không cần phải hò hét như thế. Nó không bị đau đến mức ấy. Nó đã đủ lớn để hiểu. La hét lớn như thế chính là lỗi của nó.
"Thằng con trai ấy là ai?" tôi lại hỏi bà già.
Bà quay sang chăm chăm nhìn vào hai mắt tôi. Nói cho tôi biết bí mật đã chôn chặt sáu mươi hai năm.
"Grover Teale," bà nói. "Đã lớn và trở thành thị trưởng, như ông bố của nó. Nghĩ rằng nó là vua của thế giới, nhưng nó chỉ là một thằng bé hỗn xược la hét inh ỏi khiến Blake tội nghiệp của tôi bị giết chẳng vì lý do gì cả trừ chuyện ông ấy mù và là người da đen."
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Reacher báo thù.