Chương 9
-
Ruồi Trâu
- Ethel Lilian Voynich
- 13944 chữ
- 2020-05-09 02:35:00
Số từ: 13942
Dịch giả: Hà Ngọc
NXB Văn Học
Vài hôm sau , vẫn còn xanh mét và khập khiễng hơn thường ngày , Ruồi trâu vào thư viện mượn xem những bài thuyết giáo của Hồng y Giáo chủ Môntaneli . Ricácđô đang đọc sách ở 1 bàn gần đó , nhìn lên : tuy rất thích Ruồi trâu , nhưng anh không tài nào chấp nhận nổi 1 điểm duy nhất là cái ác ý cá nhân kỳ dị nơi con người ấy.
- Ông lại định tấn công vị Hồng y tội nghiệp này nữa ? - Ricácđô hỏi , gần như bực tức.
- Ông bạn thân mến ạ , sao ông cư.....mãi giao tiếng o...oan cho tôi thế ? Phi cơ đốc giáo đấy nhé , tôi đang chuẩn bị 1 bài tiểu luận về khoa thần học hiện đại cho một tờ báo m...m...mới đây!
- Báo nào vậy ? - Ricácđô hoài nghi giương mắt nhìn Ruồi trâu : đã có nguồn tin nửa bí mật nửa công khai nói rằng luật báo chí mới đã được dự thảo , và phe Đối lập đang chuẩn bị cho ra mắt 1 tờ báo cấp tiến làm chấn động thành phố , nhưng về mặt hình thức , đó vẫn là bí mật.
- Nhật báo " Kẻ lừa đảo " , dĩ nhiên , hay tờ " Lịch Giáo hội " cũng vậy.
- S....suỵt ! Rivarex , chúng ta đang làm ồn người khác đấy!
- Được , vậy hãy vùi đầu vào khoa giải phẫu của ông đi , đó là việc của ông và đ...để tôi yên với khoa th....thần học....của tôi.Tôi sẽ kh....không can thiệp vào việc trị liệu các xương gãy của ông đâu , dù tôi biết nhiều ca gãy xương q...q...quý giá hơn các ca của ông nhiều.
Ruồi trâu ngồi xuống với tuyển tập của những bài thuyết giáo , vẻ mặt càng căng thẳng , đăm chiêu. Một trong những nhân viên thư viện đến bên anh :
- Ông Rivarex ! Hình như ông có ở trong đoàn thám hiểm của Đuy-prê đi khám phá các phụ lưu của sông Amadôn phải không ? Mong ông vui lòng giúp đỡ hộ chúng tôi khó khăn này : một bà muốn mượn bản tường thuật cuộc thám hiểm đó , nhưng bản tường thuật đã đem đi đóng rồi.
- Bà ấy muốn biết những gì ?
- Chỉ hỏi năm nào cuộc thám hiểm bắt đầu , và khi nào thì băng qua Ê-cu-a-đo thôi ạ ?
- Cuộc thám hiẻm cuất fát từ Pa-ri , mùa thu 1837 băng qua Qui-tô vào tháng 4 năm 1838. Chúng tôi ở Braxin 3 năm , sau đó xuống Ri-ô và trở lại Pa-ri hè năm 1841. Bà ấy có muốn biết ngày của từng cuộc khám phá không ?
- Không , cám ơn ông , chỉ bấy nhiêu thôi. Tôi đã ghi được cả vào đây rồi ạ . Bep-pô , đưa hộ tờ giấy này cho bà Bôla. Cám ơn ông rất nhiều , ông Rivarex ạ , và cho tôi xin lỗi đã làm phiền ông.
Ruồi trâu ngả người ra ghế nhíu máy nghĩ ngợi.Giêm-ma muốn biết những ngày ấy để làm gì cơ chứ ? Sao lại chỉ cần biết thời gian họ đi qua Ê-đu-a-đo cơ nhỉ?...
Giêm-ma trở về nhà với mảnh giấy trong tay. Tháng tư , 1838 ...và Athơ chết tháng năm , 1833...Năm năm....
Chị chầm chậm đi tới đi lui trong phòng , qua mấy ngày mất ngủ , những quầng thâm đã xuất hiện dưới mắt chị . Năm năm...và " một gia đình cực kỳ sang trọng "...và " người mà anh ta hằng tin yêu nhất đã lừa dối anh ta ..." đã lừa dối anh ta....và anh ta đã tìm ra....
Chị dừng bước, hai tay bưng lấy đầu. Không, nghĩ thế hoàn toàn là điên rồ ! Không thể thế được...Thế thực là hoang đường ...Mà lúc đó đã mò tìm kỹ khắp bến tàu rồi !
Năm năm....Và lúc bị gã thuỷ thủ đánh thì ông ấy mới "chưa đầy hai mươi mốt tuổi"...Nghĩa là ông ấy bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi. Chính ông ấy nói " một năm rưỡi". Còn đôi mắt xanh biếc và những ngón tay hấp tấp ấy ? Và tại sao ông ấy lại căm ghét Mông-ta-ne-li ghê gớm đến thế ? Năm năm...Năm năm...Nếu biết chắc chắn rằng Ac-tơ đã chết đuối, nếu chính mắt chị được trông thấy thi hài Ac-tơ ...thì vết thương xưa cũ ấy sẽ có ngày lành lặn và kỷ niệm đau đớn sẽ thôi không dày vò chị và chừng hai mươi năm sau chị có thể quay nhìn lại quá khứ mà không chút kinh hoàng.
Cả một thời thanh xuân chị đã bị ý nghĩ ấy đầu độc. Ngày lại ngày, năm lại năm, chị đã kiên quyết đấu tranh chống lại sự cắn rứt lương tâm. Chị không ngừng nhủ thầm rằng mình sẽ phụng sự cho tương lai, không ngừng bưng tai nhắm mắt, cố tránh những bóng ma âm thầm của dĩ vãng. Nhưng ngày qua tháng lại, hình ảnh người gieo mình xuống biển tự tử bị cuốn ra biển cả vẫn cứ ám ảnh chị, trong lòng chị vẫn vang lên tiếng sóng dạt dào, tiếng kêu chua xót mà chị không sao dập tắt nổi :"ta đã giết Ac-tơ ! Ac-tơ chết rồi !". Đôi lúc chị có cảm giác rằng gánh nợ ấy đã quá nặng đối với chị.
Tuy thế, nếu bây giờ dù có phải hy sinh nửa cuộc đời còn lại để mang được gánh nặng ấy thì chị sẵn sàng hy sinh. Ý nghĩ cay đắng rằng mình đã giết Ac-tơ đã trở nên quen thuộc đối với chị rồi ; tâm hồn chị đã rên xiết quá lâu dưới gánh nặng ấy nên bây giờ không có lý gì để gục xuống nữa. Nhưng nếu chị không đẩy Ac-tơ xuống nước mà dẩy xuống...Giêma gieo mình xuống ghế, hai tay bưng lấy mặt và nghĩ rằng "tất cả cuộc đời mình đã bị cái chết của Ac-tơ ám ảnh như một bóng ma! Ồ mong sao mình chỉ đẩy Ac-tơ xuống chỗ chết thôi, chứ chưa đẩy Ac-tơ tới một cái gì đấy đau khổ hơn cái chết !"
Kiên quyết, không oán thán, Giêma hồi tưởng lại toàn bộ cảnh địa ngục của cuộc đời cũ của Ac-tơ, từng đoạn, từng đoạn một. Cảnh địa ngục ấy hiện ra mồn một trong trí tưởng tượng của chị , y như chính chị đã từng trông thấy và sống ngay trong cảnh đó; nào là một linh hồn trơ trọi đang run rẩy, nào là những nỗi kinh hoàng của cô đơn, nào là những suy nghĩ nhạo báng chua xót hơn cả cái chết, nào là những cơn hấp hối chầm chậm, mòn mỏi và tàn nhẫn.
Nó cũng mồn một y như chính chị đã từng ngồi cạnh anh trong túp nhà tranh bẩn thỉu đó, y như chị đã từng ngồi cùng anh chịu đựng khổ nhục trong những mỏ bạc trong những đồn điền cà phê và trong gánh xiếc rong gớm ghiếc đó.
Gánh xiếc rong...Thôi, ít nhất hãy xua đuổi hình ảnh ấy đi vì nó làm cho người ta có thể phát điên lên được.
Giêma rút ô kéo bàn viết, ngắm nhìn một số vật kỷ niệm mà không bao giờ chị muốn huỷ bỏ. Chị không hay thu góp các kỷ niệm nhớ nhung nhỏ nhặt nhưng dù sao chị vẫn giữ lại một vài thứ : đó là một sự nhượng bộ đối với một nhược điểm mà Giêma vẫn kiên quyết đè nén trong người. Rất ít khi chị cho phép mình ngó tới ô kéo ấy.
Đây là những vật chị gìn giữ : bức thư đầu của Giô-va-ni những bông hoa nằm trong bàn tay đã chết của Giô-va-ni, mớ tóc của đứa con chị, một chiếc là khô trên mồ cha chị. Ở đáy ô kéo là tấm ảnh độc nhất của Ac-tơ - tấm ảnh lúc Ac-tơ lên mười.
Giêma ngồi sụp xuống ghế và ngắm mãi mái tó mơn mởn xinh xắn, ngắm mãi cho tới khi hình ảnh chàng trai Ac-tơ hiện ra trước mắt chị mới thôi. Giờ đây bộ mặt Ac-tơ hiện ra nét quá ! Đôi môi nhạy cảm, mắt to và chân thành gương mặt trong sáng vô ngần - tất cả những cái đó khắc vào trí nhớ của chị sâu đến nỗi chị tưởng chừng như Ac-tơ chỉ mới chết hôm qua. Và những giọt lệ rưng rưng đã từ từ che mờ bức ảnh trước mắt chị.
Tại sao chị lại có ý nghĩ như thế ? Giam cầm linh hồn sáng láng và siêu thoát ây trong bùn lầy và đau khổ của cuộc sống thì chẳng phải đã xúc phạm tới thánh thần quý mến Ac-tơ nên mới cho anh ta chết sớm, thà biến thành hư hỏng không cẫn sướng gấp ngàn lần được sống sót và trở thành Ruồi trâu , trở thành anh chàng Ruồi trâu với những chiếc ca-vat lịch sự, những lời châm chọc đáng ngờ, với một miệng lưỡi cay độc và với cô vũ nữ của anh ta...Không, không ! Đó là kết quả ghê gớm mà vô nghĩa của trí tưởng tượng của chị. Chị đã làm thương tổn trái tim mình bằng những ảo tưởng trống rỗng - Ac-tơ chết rồi !
Có người khẽ gọi ngoài khung cửa.
- Tôi có thể vào được không ?
Giêma giật mình đến nỗi đánh rơi tấm ảnh xuống đất. Ruồi trâu khập khiễng bước vào phòng, nhặt lấy tấm ảnh đưa cho chị.
Chị nói :
- Ông làm tôi sợ quá !
- Xin...xin bà tha lỗi . Có lẽ tôi làm phiền bà ?
- Không, tôi đang soạn lại những đồ vật cũ.
Giêma ngập ngừng một lát rồi đưa cho anh tấm ảnh :
- Ông thấy cậu bé này thế nào ?
Và trong lúc Ruồi trâu ngắm tấm ảnh, Giêma theo dõi anh, cân não hết sức căng thẳng, dường như tất cả cuộc đời chị là do vẻ mặt anh quyết định. Nhưng Ruồi trâu chỉ cau mày có vẻ phê phán và nói :
- Bà đã ra cho tôi một bài toán khó, tấm ảnh đã phai màu và nói chung thì khuôn mặt trẻ con thì rất khó phán đoán. Nhưng tôi tưỏng rằng cậu bé này sẽ trở thành một kẻ bất hạnh. Và điều khôn ngoan nhất cho cậu ấy là cứ nên trẻ con như thế này mãi, đừng thành người lớn nữa.
- Tại sao thế ông ?
Bà thử nhìn xem đường môi dưới đây. Có thể thấy được tính cách của cậu ta : cái gì đau khổ , cái gì dối trá là dối trá. Trong thế giới của chúng ta, những người như thế.không sống được. Thế giới này cần có những người chỉ biết nghĩ đến công việc của mình.
- Bức ảnh không gợi cho ông nhớ tới ai ư ?
Ruồi trâu nhìn kỹ bức ảnh :
- Phải. Lạ thật ! ...Phải ! Tất nhiên là giống..
- Giống ai thế ông ?
- Giông Hồng...Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li. Có lẽ đức Hồng y giáo chủ thanh liêm này có cháu gọi bằng bác chăng ? Xin bà cho hỏi , đây là ai ?
- Đây là tấm ảnh thủa nhỏ của một người bạn mà tôi nói với ông hôm nào...
- Người mà bà đã giết có phải không ?
Giêma bất giác rùng mình. Ông ta thốt ra câu nói ghê rợn ấy một cách dễ dàng và tàn nhẫn quá !
- Phải, người...tôi đã giết...nếu anh ta chết thật.
- Nếu ư ?
Giêma dán mắt vào gương mặt Ruồi trâu :
- Đôi lúc tôi vẫn còn hoài nghi. Người ta không tìm thấy xác anh ấy. Có lẽ anh ấy cũng bỏ trốn sang Nam Mỹ giống như ông.
- Có thể tin là không. Nếu nghĩ như thế bà sẽ vẫn rất khổ tâm. Trong đời tôi , tôi đã từng đưa biết bao nhiêu người xuống địa ngục, nhưng xin bà hãy tin rằng nếu tôi biết do lỗi tại tôi mà có một sinh linh nào được sang Nam Mỹ thì tôi sẽ không sao ngủ yên...
Giêma nắm chặt tay, tiến lại gần và ngắt lời anh :
- Nghĩa là ông cho rằng nếu người đó không chết đuối...mà lại trải qua những cảnh ngộ như ông thì người đó vĩnh viễn không bao giờ trở lại và không sao quên được chuyện cũ có phải không ? Ông cho rằng người đó không thể nào có lòng tha thứ hay sao ? Ông nên biết rằng chính tôi cũng đã phải trả một giá nào đó ! Ông thử nhìn xem !
Giêma lật mái tóc dày lên khỏi trán. Giữa những mớ tóc đen nhánh lộ ra một mớ tóc bạc lớn. Sau một hồi im lặng , Ruồi trâu chậm rãi nói :
- Tôi nghĩ rằng những người đã chết thì cứ nên vẫn là những người đã chết. Khó mà quên đi được dĩ vãng và nếu tôi ở địa vị người bạn đã chết của bà thì tôi cứ tiếp tục làm một người đã chết. Dù là quỷ có hoàn hồn thì cũng chỉ là một bóng ma ghê rợn.
Chị cất tấm chân dung trở lại vào ô kéo, mà khoá lại.
- Chủ thuyết đó của ông khắc nghiệt quá. Thôi, bây giờ ta nói chuyện khác đi.
- Tôi đến để bàn với bà một việc nhỏ, và nếu bà cho phép , thì ta xem đó là một câu chuyện riêng. Tôi mới nghĩ ra một kế hoạch công tác.
Giêma kéo ghế lại gần bàn, ngồi xuống.
Ruồi trâu bắt đầu nói bằn một giọng trơn tru, không chút nói lắp:
- Bà có ý kiền gì về bản dự thảo luật báo chỉ?
- Ý kiến tôi à? Tôi nghĩ đạo luật đó có rất ít giá trị, nhưng thà có nửa chiếc bánh còn hơn không có tí bánh nào.
- Lẽ dĩ nhiên. VẬy nghĩa là bà định làm việc cho một trong những tờ báo mới mà mấy vị tốt bụng ở đây đang chuận bị xuất bản tại đây ?
- Phải , tôi tính làm việc đó. Khi sắp ra một tờ báo thường sẽ có rất nhiều công việc cụ thể như: tìm nhà in, bố trí lưu hành báo và...
- Bà định cứ tiếp tục phao phí những năng khiếu tríu tuệ của mình như thế đến bao giờ ?
- Tại sao lại "phao phí"?
- Vì nó là phao phí. Hẳn bà cũng thừa hiểu rằng bà còn thông minh ơn cả số lớn những người đàn ông đang cùng làm việc với bà. Vậy mà bà cứ để cho họ biến bà thành một người lao công tạp vụ, một người đầu sai. Về mặt trí tuệ, so với bà thì Gơratxini và Gali kém xa và chỉ là học trò. Vậy mà bà cứ chịu ngồi sửa các bản in thử những bài viết của họ như một chân thư ký sửa bài ở nhà in.
- Trước hết, không phải tôi chỉ toàn làm công việc sửa bản in thử, và thứ nữa , tôi có cảm tưởng là ông quá khen năng lực của tôi. Tôi chẳng có năng lực gì lỗi lạc như ông tưởng.
Ruồi trâu bình tĩnh trả lời:
- Nào tôi có bảo là lỗi lạc đâu. Điều quan trong hơn nhiều là bà có những năng lực vững vàng và chắc chắn . TRong các phiên họp tẻ ngắt của ban chấp hành, chính bà luôn luôn là người vạch rõ được những chỗ yếu trong lập luận của từng người.
- Đối với những người khác, ông chưa công bằng. Chẳng hạn như Mactini có đầu óc rất logic. Phabơritxi và Lega đều rất có năng lực, điều đó không còn nghi ngờ gì ữa. Cồn như Gơratxini thì có lẽ ông ta hiểu tình hình thống kê kinh tế của nước Ý sâu sắc hơn bất cứ một quan chức nào trong nước.
- Như thế cũng chưa lấy gì làm nhiều lắm. Nhưng thôi, ta đừng bàn đến họ và năng lực của họ nữa. Sự thực vẫn là : với tài năng của bà, bà có thể làm được những việc quan trọng hơn và ở cương vị có trách nhiệm lơn hơn hiện nay.
- Tôi rất băng lòng về vị trí của tôi; tuy công việc tôi đang làm không có nhiều giá trị lắm, có lẽ vâyk, nhưng tất cả chúgn tôi ai làm được gì thì đề ucố gắng làm.
- Bà Bôla, chúng ta không nên khen nhau và nhún nhường với nhau mãi làm gì. Xin bà cứ thật thà trả lời cho tôi biết : bà có thừa nhận rằng hiện những việc mà bà đang tận dụng trí não của mình để làm, lẽ ra có thể dành cho những người khém hơn bà làm được không ?
- Nếu ông cứ ép tôi trả lời, thì tôi bả rằng : có, ở mức nhất định.
- Vậy tại sao bà lại cứ để yên tình trạng như vậy ?
Không có tiếng trả lời.
- Tại sao bà lại cứ để yên ?
- Vì ...tôi không có cách nào khác.
- Tại sao vậy ?
Chị nhìn Ruồi trâu bằng con mắt trách móc:
- Ông chẳng tế nhị chút nào...tại sao lại cứ ép tôi phải trả lời .
- Nhưng dù sao bà vân cứ phải cho tôi biết vì lẽ gì chứ
- ĐÃ thế thì tôi xin trả lời rằng: tại vì đời tôi đã tan nát rồi. Hiện nay tôi không còn đủ nghị lực làm một việc gì ra hồn nữa. Tôi chỉ còn xứng đáng làm con bò kéo xe cách mạng và làm những tác lao công tạp vụ cho đảng được thôi. Ít nhất tôi cũng đã tận tâm làm tròn nhiệm vụ ấy, và cho dù tôi không làm nữa thì cũng phải có người nào khác làm.
- Vâng , tất nhiên cũng phải có ngừơi nào khác làm, nhưng không nhất thiết một người cư slàm mãi việc ấy.
- Đại thể tôi chỉ làm được có thế thôi.
Ruồi trâu lim dim mắt nhìn chị một cách khó hiểu. Giêma ngẩng đầu.
- Ta quay lại đề tài cũ mất rồi, lẽ ra ta cần bàn công việc gì mới kìa ma. Tôi bảo đảm với ông rằng nếu cứ bàn rằng tôi có thể làm được việc này việc nọ, thì sẽ chỉ vô ích thôi. Tôi sẽ chẳnt làm được đâu. Nhưng tôi có thể giúp ông suy nghĩ về kế hoạch. VẬy kế hoạch của ông là gì ?
- Đầu tiên bà bảo nếu tôi có gợi ý giao việc gì cho bà thì cũng chỉ là vô ich, thế rồi bà lại hỏi tôi định gợi ý công tác gì. Không những tôi cầ bà nghĩ kế hoạch giúp tôi mfa tôi còn cần bà giúp thực hiện kế hoạch nữa kìa.
- ông cứ nói xem việc gì đã, rồi sau ta sẽ bàn.
- Trước hết tôi muốn hỏi xem bà có nghe tin gì về những mưu toan khởi nghĩa ở vùng Venexia không ?
- Từ khi có đại xá đến nay , tôi chỉ nghe nói tới hai chuyện : một là chuyện chủan bị khởi nghĩa nói chung, và hai là về những âm mưu của phái Xanphêdich. Nhưng e rằng tôi hoài nghi cả hai chuyện đó .
- Trong số lớn trường hợp, tôi cũng nghĩ như bà, nhưng giờ đây tôi đang nói đến một tình hình là trong toàn bộ một tỉnh thực sự đang có việc nghiêm chỉnh chủân bị khởi nghĩa để chống lại người Áo. Trong những nước thuộc Giáo hoàng - đặc biệt là trong Bốn ĐẶc khu , rất nhiều bạn thanh niên đang bí mật chủân bị vượt biên giới để tình nguyện gia nhập nghĩa quân. Bạn bè của tôi ở Rômânh báo cho biết rằng...
Chị ngắt lời :
- Xin ông cho biết, liêu ông có hoàn toàn chắc chắn là những bạn bè của ông có thể tin cậy được không ?
- Hoàn toàn chắc chắn. Tôi có quen biết riêng với họ và đã từng làm việc với họ.
- Nghĩa là, họ cũng cùng một "nhóm bí mật" với ông chứ ? Mong ông tha thứ cho sự hoài nghi của tôi, nhưng thường tôi vẫ có chút nghi ngời đối với tính chính xác trong những thông tin của các đoàn thể bí mật. Tôi có cảm tưởng rằng cái thói quen mà ...
Anh cắt ngang:
- Ai bảo bà rằng tôi là người của một "nhóm bí mật"?
- Không ai bảo, tự tôi đoán thế
- À
Anh ngả lưng vào ghế, cau mày nhìn chị. Một lát sau anh nói:
- BÀ có luôn luôn đoán mò những việc riêng của ngươi fkhác không đấy ?
- Tôi rất hay suy đoán. Tôi có đôi chút đầu óc quan sát và cũng có thói quen tìm ra mối liên hệ giữa các sự việc. Nói như vậy để khi ông muốn giấu tôi một điều gì đó, thì xin ông hãy coi chừng tôi.
- Việc bà biết công ciệc của tôi, điều đó không can hệ gì lắm, miễn là không đi quá xa. Tôi hi vọng là chuyện ấy còn chưa đến nỗi...
Chị ngẩng cao đầu, với vẻ nửa ngạc nhiên nửa giận dỗi:
- Vấn đè ấy dứt kháot là thừa.
- Tất nhiên tôi biết bà không đi nói với người ngoài, nhưng có thể bà nói với những người trong đảng của bà...
- ĐẢng căn cứ vào sự thực chứ không căn cứ vào những sự phỏng đoán và tưởng tượng của cá nhân tôi. Lẽ dĩ nhiên tôi chưa hề bao giờ nói chuyện nfy với một ai
- CẢm ơn bà, vạy có bao giờ bà đoán tôi thuộc nhóm bí mật nào không ?
- Tôi mong rằng... - mà ông không được mếch lòng về tính thẳng thắn của tôi đâu nhé, bởi vì chuyện này là do chính ông tự khơi ra, phải không ạ..- tôi rất mong rằng ông không thuộc nhóm "Dao găm"
- Sao bà lại mong thế ?
- Bởi vì ông thích hợp với nhữgn việc tối đẹp hơn
- Tất cả chúng ta đều thích hợp những việc tốt đẹp hơn bất kể đã từng làm viêc gì. Câu bà nói cũng chính là để trả lời cho bà. Nhưng tôi không thuọc nhóm Dao găm mà llại thuộc nhóm "Thắt lưng đỏ. Nhóm này vững vàng hơn nhiều và tiến hành công việc cũng nghiêm chỉnh hơn.
- Ý ông muốn nói công việc đâm chém chắng ?
- Phải , cả công việc đó nữa. Dao găm là một vật rất có ích theo kiểu của nó, nhưng chỉ có ích nếu đằng sau nó có một bộ máy tuyên truyện tốt và có tổ chưc. Chính là ở chỗ ấy tôi không thích các nhóm khác. Họ tưởng rằng dao găm có thể giải quyết được mọi khó khăn trên thê giới này, và đo slà một sai lầm. Dao găm có thể giải quyết được khá nhiều chuyện, nhưng không phải là tất cả.
- ông có thật lòng tin rằng dao găm có thể giải quyết được vấn đề gì không ?
Anh ngạc nhiên nhìn chị .
Chị nói tiếp:
- Tất nhiên, nhất thời dùng đao găm có thể laọi trừ được một khó khăn cụ thể nào đó do một tên mật thám lợi hại hoặc một viên quan lại gian ác nào đó gây ra. Nhưng trừ xong được trở ngại này thì liêu j có tạo ra nhiều trở ngại khác tệ hại hơn không ? đó lại là vấn đề khác. Tôi thiêt stưởng chuyện ấy có thể giống như câu chuyện ngụ ngôn chưa quét dọn sạch nhà thì bầy mà đã đến . Bởi vì cứ mỗi một lần ám sát lại càng làm cho cảnh sát thêm hung hãn và càg làm cho quần chúng quen nhờn với hung tàn và bạo lực, trạng thái cuói cùng của cộng đồng có thể lại tệ hơn lúc ban đầu.
- Vậy theo bà khi cách mạng xảy tới thì điều gì sẽ điễn ra ? Bà có cho rằng lúc ấy nhân dân chẳng cần phải làm quen với bạo lưcu không ? Chiến tranh là chiế tranh chứ
- Đúng thế, nhưng một cuộc cách mạng công khai lại là một chuyện khác. Cách mạng chỉ là một sự kiện nhất thời trong sinh hoạt của nhân đân và đo slà cái giá chúng ta phải trả cho mọi bước tiến bộ . Dĩ nhiên , trong mọi cuộc cách mạng, những huyện haic hùng là không sao tránh khỏi , nhưng đó cũng chỉ là những sự việc cá biệt , những hiện tượng đặc biệt trong một thời điểm đặc biệt mà thôi. Điều kinh khủng nhất là để cho việc đam chém bừa bãi trở thành thói quen. Dân chúng quen thấy chuyện ấy diễn ra như cơm bữa, và làm cho người ta không thấy sinh mệnh con người là thiêng liêng nữa. Tôi không được đến Rô manha nhiều, nhưng đoi chút gì tôi thấy được ở dân chúng nơi đo svẫn ho tôi một ấn tượng là họ đã có hoặc đang sắp có một thó quen máy móc về bạo lực.
- Dù thói quen đó vẫn còn hơn là thói quen máy móc bảo sao nghe vậy và cúi đầu khuất phuc.
- Tôi không nghĩ thế. Mọi thói quen máy móc đều có mặt xấu, mặt nô lệ của nó, riêng thói quen này lại còn hung tàn nữa. Dĩ nhiên, nếu ông coi công việc của nhf hoạt động cách mạgn chỉ thuầnt uý nhằm giành giật vài sự nhượng bộ nhất định từ phía chính phủ, thì tất nhiên , ông sẽ cho nhóm bí mật và sao găm là những vũ khí tốt nhất, bởi vì các chính phủ không sợ cái gì bằng hai thứ này. Nhưng , nếu ôn nghĩ theo cách tôi nghĩ, rằng ép buộc chính phủ không phải là cứu cánh , mà chỉ là phương tiện để đạt mục đích, còn điều chúng ta thực sự cần cải tạo là mối quan hệ giữa người với người , thì ông sẽ tiến hành công việc theo cách khác hẳn. Nếu tập cho những người không có học thức quen nhìn cảnh đổ máu, thì đó không phải là cách làm cho người ta biết nâng cao giá trị sinh mệnh con người.
- Thế còn vấn đề nâng cao giá trị của tôn giáo.
- Tôi không hiểu.
Ruồi trâu mỉm cười:
- Tôi với bà bất đồng ý kiến ở chõ nhìn nhận căn nguyên mọi tai hoạ xảy ra. Theo ý kiến bà thì căn nguyên là ở chỗ thiếu coi trọng giá trị sinh mệnh con người...
- Nói đúng hơn là thiếu coi trọng cái thiêng liêng về nhân tính của con người.
- Cái đó tuỳ bà. Còn theo ý kiên tôi, nguyên nhân chủ yếu của mọi rối loạn và sai lẩm của chúng ta là một cănh bệnh tinh thần mà người ta gọi là tôn giáo.
- ông có định nói cụ thể một tôn giáo nào không ?
- Ồ không, đó chỉ là vấn đề triệu chứng bên ngoài mà thôi. Còn chính bản thân căn bệnh là cái mà người ta gọi là thái độ tôn giáo của nhận thức, là một nhu cầu bệnh hoạn của con người muốn tìm một cái gì để thờ phụng, để thần thánh hoá và để cúi đầu bái lạy. Cái đó là cái gì , là Giêsu, là phật hay là thứ tôtem mông muội , sự khác nhau đó không quan trọng lắm. Dĩ nhiên bà sẽ không đồng ý với tôi. Bà có thể là người vô thần, là người theo thuyết bất khả tri hay là gì gì đi nữa, nhưng đứng cách bà năm bước tôi vẫn có thể thấy tâm tính tôn giáo của bà. Nếu ta tranh luận vấn đề này thì cũng vô bổ . Nhưng nế bà tưởng rằg tôi chỉ coi sử dụng dao găm là một phương pháp để thanh toán những tên quan lại gian ác thì bà đã rất ai lầ. không, đó Trước hết là một phương tiện, và , theo tôi, là môộ phương tiện tốt nhất ,để đánh đổ uy tín của Giáo hội và để làm cho dân chúng có thói quen coi những kẻ đại biểu của giới giáo sĩ chỉ là một lũ giòi bọ.
- Nhưng kh ông đạt tới đích đó, khi ông thức tỉnh được con thú dữ đang thiu thiu ngủ trong mỗi con người và thúc nó xổ và giáo hội , thì lúc ấy...
- Thì lúc ấy tôi có thể nói rằng tôi đã làm xong một công việc làm nên giá trị cuộc đời tôi.
- Vậy té ra công việc mà ông nói hôm ấy tức là công việc này đó ư ?
- Phải , đúng thế.
Chị rùng mình, quay đi.
Ruồi trâu ngước nhìn chị với một nục cười và nói:
- Bà đã thất vọng về tôi rồi hay sao ?
- không , không chính xác như vậy. Tôi nghĩ là... tôi ..hơi sợ ông.
Một lát sau, Giêma quay lại nhìn anh và nói với một giọng bàn bạc công việc như bình thường.
- Phải , tranh luận làm gì, vô cíh. Quan điểm của chúgn ta khác nhau xa quá. Chẳng hạn như tôi thì tin tưởng vào tuyên truyền, tuyên truyền nữa, tuyên truyền mãi, và tin tưởng vào một cuộc khởi nghĩa công khai, khi có thể tiến hành được.
- Vậy hãy quay lại kế hoạch của tôi. Kê shoach đó chỉ liên quan phần nào đến tuyên truyền nhưng với khởi nghìa thì nó co sliên quan nhìêu hơn.
- Vậy ư ?
- Như tôi đã nói với bà là có rất nhiều người tình nguyện hiện đang từ Rômanha kéo sang tham gia với dân Venêixia. Chúng tôi chưa biết bao giờ cuộc khởi nghĩa sẽ nổ ra. Có lẽ sau thu hoặc đông này. Nhưng cần phải vũ trang cho các đội tình nguyện để hô một tiếng là họ lập tức đổ xuống đồng bằng ngay. Tôi phụ trách việc bí mật chuyên chở vũ khí và đạn dược vào lãnh địa Giáo hoàng cho họ...
- Khoan đã. Xin ông cho biết làm thế nào ông lại cộng tác được với họ. Những người hoạt động cách mạc ở Lôm bacdia và Venêxia hiện đều đang tán thành Giáo hoàng mới. Họ ủng hộ những cuộc cải cách tự do, cùng kê fvai sát cánh với phong trào tiến bộ trong Giáo hội. Một người chống giáo sĩ không khoan nhượng như ông làm sao hoà jhợp với họ được.
Ruồi trâu nhún vai:
- Miễn họ làm được việc là đủ rồi. Còn họ muốn chơi con búp bê giẻ rách nào, cái đó có can hệ gì đến tôi ? Lẽ dĩ nhiên, họ sẽ dùng Giáo hoàng làm bụ nhìn giữ dưa. Nhưng một khi cuộc khơở nghĩa vẫn cứ tiến hành được thì điều đó có lo gì ? ĐÁnh chó thì gậy nào mà chẳng đánh được, và bất cứ lời ho hào nà kêu gọi được nhân dân nôổ dậy chống Áo thì cũng đề tốt cả.
- Vậy ông muốn tôi giúp việc gì ?
- Chủ yếu là bà giúp tôi chuyên chở vũ khí qua biên giới.
- Nhưng tôi làm sa ođược việc ấy ?
- Bà chính là người có thể làm việc vấy tôt hơn ai hết. Tôi định mua vũ khí bên Anh, nhưng khi tính chuyện mang về thì thấy rất gian nan. Không thể chở qua được bất kỳ một hải cảng nào trong lãnh địa Giáo hoàng, vì tế phải chở qua Tôxcan, rồi từ đó xuyên qua dãy núi Apenanh.
- Nhưng như vậy thì ông sẽ phải vượt qua biên giới đến hai lần.
- Phải nhưng không còn con đg nào khác. Một món hàng lậu to như thế phải chở đến một bến có thương mại thì mới được. Còn cảng Trivita Vêchkia thì, như bà đã biết, ở đó ra vào cảng nhiều nhất cũng chỉ có ba thuyền buồm và một thuyền đánh cá. Nếu đưa được hàng đến Tôxcan thì tôi sẽ đảm nhiệm chuyển qua biên giới lánh địa Giáo hoàng. Các đồng chí của tôi thuộ lòng từng con đg đọc đạo trên núi, và chúng tôi có nhiều chỗ cất giấu được vũ khí. Khó khăn chính là làm sao đưa hnàg theo đg biển đên sLivoócno . Tôi không cso liên lạc với những người buôn lậu ở đo. Các vị hình như có liên lạc với họ thì phải.
- ông cho tôi nghĩ năm phút.
Chị cúi mình về phía Trước, khuỷu tay chống lên đầu gối để tỳ cằm. Im lặng một lát, chị ngước nhìn anh:
- Có thể là tôi giúp ông được phần nào trong công việc ấy. Nhưng Trước khi đi vào cụ thể, xin ông trả lời cho một câu hỏi: ông có thể hứa với tôi rằng việc này sẽ không liên quan tới giết chóc hoặc bất kỳ loại bạo lực bí mật nào , hay không ?
- Lẽ tự nhiên. Tô không bao giờ yêu cầu bà tham gia và việc gì mà bà không tán thành , điều đó thì khỏi nói rôi.
- Bao giờ ông cần tôi trả lời dứt khoát.?
- Thời giờ gấp rồi, nhưng tôi có thể đợi vài ngày
- Chiều thứ7 này ông có rỗi không ?
- Để toi tính thử xem...hôm nay là thứ năm...vâng , đến thứ bảy thì tôi rỗi.
- Vậy mời ông cứ đến đây. Tôi suy nghĩ kỹ rồi sẽ trả lời dứt khoát với ông.
Chủ nhật sau , Giêma gửi cho ban chấp hành chi bộ đảng Matdini ở Phơlô răngxơ một bức thư báo tin rằng chị định đảm nhiệm một công tác chính trị đặc biệt, nên trong mấy tháng tới chị không thể tiến hành được công tác mà trừ Trước đến nay chị vẫn phụ trách trước đảng.
Bức thư của Giêma có gây ra ít nhiều ngạc nhiên trong ban chấp hạnh, nhưng không một ai phản đối cả. Họ đều tin chắc nếu bà Bôla đã làm một việc đột ngột như thế thì hẳn là có lý do rất chính đáng, vì qua nhiều năm các đảng viên trong đảng đều rất biết Giêma là người đáng tin cậy.
Với Mactini thì Giêma nói thẳng thắn rằng chị nhận giúp đỡ Ruồi trâu trong một "công tác biên giới". Chị đã nói Trước với Ruồi trâu rằng chị có quyền thành thật đến một chừng mực nhất định với người bạn cũ này. Chị không muốn giữa hai ngưòi có sự hiểu lầm hoặc có những cảm giác đau xót do nghi ngờ va giấu giếm gây ra. Chị cho rằng chị có nhiệm vụ phải chứng tỏ được cho Mactini thấy là mình tín cẩn anh ấy. Tuy Máctini không bình luận gì cả khi được chị cho biết, nhưng Giêma thấy rõ , mặc dù không biết vì đâu , rằng khi nghe tin anh đã rất đau lòng.
Hai người ngồi trong sân hiên nhà Giêma, đang nhìn ra những mái nhà đỏ lô xô đến tận Phiêdôlê. Sau một hồi lâu im lặng, Máctini đứng dậy đi bách bộ trong sân. Anh thọc hai tay vào túi, vừa đi vừa huýt sao miệng, - một dấu hiệu chắc chắn cho thấy lòng anh đang xao xuyến.
Giema ngồi nhìn Máctini một lát. Cuối cùng chị bảo:
- Trêdarê, chắc anh lo lắng về việc này. Anh không vui như thế làm tôi cũng rất phiền lòng. Nhưng tôi chỉ quyết định khi nào tôi thấy là đúng.
Vẻ ủ dột, Máctini đáp:
- tôi không lo về công việc chị làm đâu. Việc đó tôi chẳng biết tý gì cả, nhưng tô inghĩ nếu chị đã thuận ý tham gia thì chắc là việc đó sẽ ổn cả thôi. Tôi chỉ không tin cậy con người ấy thôi.
- Tôi thấy anh vẫn hiểu lầm ông ấy. Trước kia tôi cũng thế, cho tới khi hiểu được ông ấy nhiều hơn. Tuy chưa phải là một người hoàn toàn, nhưng ông ấy tốt hơn anh tưởng nhiều.
- Có thể như thế lắm.
Anh lặng lẽ đi đi lại lại trên sân. Một phút sau anh bỗng đứng dừng lại bên cạnh chị.
- Giêma, chị hãy thôi đi. Chị thôi đi kẻo muộn. Chị đừng để cho con người ấy lôi kéo vào những công việc mà sau này lại phải hối hận.
Chị dịu dàng đáp:
- Trêdarê, sao anh lai nói thế. không ai lôi kéo được tôi và bất kỳ chuyện gì. Tự tôi suy nghĩ kỹ và quyết định việc này theo ý nguyện của chính mình. Anh không ưa Rivarét, tôi biết , nhưng đây là vấn đề chính trị chứ không phải là vấn đề cá nhân.
- madonna , bà hãy thôi đi. Đó là một con người nguy hiểm. Hắn giấu giếm, độc ác và bất nhẫn ...và hắn đã yêu bà.
Chị co người lại.
- TRêdarê, sao anh tưởng tượng ra được những chuyện kỳ quặc thế.
Máctini nhắc lại:
- Hắn đã yêu bà. Bà đuổi hắn đi thôi, madonna.
- Máctini thân mến, tôi không thể đuổi được ông ấy, mà cũng không thể cắt nghĩa để anh hiểu rõ vì sao. Số phận đã ràng buộc chúng tôi lại với nhau mà không phài do ý muốn hay hành động nào của chúng tôi.
Mactini mệt mỏi trả lời:
- Nếu đã ràng buộc với nhau, thì tôi không thể nói thêm gì nữa.
Mactini lấy cớ bận việc để ra về, và anh đi lang thang cả mấy tiếng đồng hồ trên các đường phố lầy lội. Chiều hôm ấy, thế giới với anh thật là đen tối. Anh chỉ có một vật báu nhỏ nhoi duy nhất, vậy mà con người giảo hoạt ấy từ đâu đến đã lẻn và đoạt trộm mất rồi.
__________________________________________________
........................................................................................
Vài hôm sau, Ruồi Trâu, tuy vẫn còn tái xanh và chân khập khiễng nhiều hơn mọi khi, đã đến phòng đọc sách của thư viện công cộng hỏi mượn tập các bài giảng đạo của Hồng y giáo chủ Montanelli. Ông Riccardo đang ngồi ở bàn gần đấy, bèn ngẩng đầu lên nhìn. Ông rất quý mến Ruồi Trâu nhưng duy có một nét trong anh, ông không sao tiếp nhận nổi, - đó là cái ác ý cá nhân kỳ quặc này của anh.
Ông hỏi, gần như bực dọc:
- Ông lại đang chuẩn bị một loạt đạn mới để nã vào cái ông Hồng y giáo chủ xúi quẩy ấy nữa đấy ư?
- Ông bạn quý mến của tôi ơi, sao lúc… lúc nào ông cũng đem những động… động… động cơ xấu xa gán ghép cho người khác thế? Đó là rất… rất phi Cơ đốc giáo. Tôi chỉ đang chuẩn bị viết một bài tiểu luận về khoa thần học hiện đại cho một tờ báo mới… mới đây thôi.
Ông Riccardo cau mày:
- Tờ báo mới nào thế?
Hình như lúc này đang có một điều bí mật công khai là đạo luật báo chí mới sắp được ban bố và rằng phe Đối lập đang chuẩn bị ra một tờ báo cấp tiến để làm chấn động dư luận thành phố. Thế nhưng, cho tới lúc bấy giờ, về mặt chính thức mà nói, đó vẫn còn là một điều bí mật.
- Cố nhiên là cho tờ Những kẻ lừa đảo[1] hoặc như người ta còn gọi là tờ Thông lịch giáo hội[2] chứ gì nữa.
[1] Swindlers Gazette (tiếng Anh).
[2] Church Calender (tiếng Anh).
- Suỵt suỵt! Ông Rivarez, chúng ta đang quấy rầy các bạn đọc khác rồi đấy.
- Vậy thì ông hãy cắm mũi vào khoa mổ xẻ của ông đi, nếu đó là đề tài của ông, và hãy để mặc tôi với khoa thần… thần học vì đó là đề tài của tôi. Tôi không… không… không… không can thiệp vào việc ông chữa trị các xương gẫy, mặc dù tôi biết nhiều điều quý… quý hiếm về xương gẫy hơn ông.
Đoạn anh ngồi xuống nghiên cứu tập bài giảng đạo với vẻ đăm chiêu, chăm chú. Một trong các nhân viên thư viện đã đến chỗ anh.
- Signor Rivarez, tôi nghĩ là ông đã từng tham gia đoàn thám hiểm Duprez, đi khám phá các nhánh sông Amazon phải không ạ? Có lẽ ông sẽ sẵn lòng giúp chúng tôi trong một vấn nạn. Có một bà đã đến để tra cứu các hồ sơ ghi chép về cuộc thám hiểm này, nhưng các bản ghi chép ấy lại đem đi đóng mất rồi.
- Bà ấy cần biết điều gì?
- Bà ấy chỉ muốn hỏi đoàn thám hiểm đã xuất phát năm nào và đã đi qua Êcuađor khi nào?
- Đoàn xuất phát từ Pari mùa thu năm 1837 và qua Quytô[3] tháng tư năm 1838. Chúng tôi đã ở Braxin 3 năm, sau đó xuống tận Riô[4] rồi trở lại Pari mùa hè năm 1841. Bà ấy có muốn biết ngày tháng của các cuộc phát hiện cụ thể không?
[3] Quito, thủ đô của Êcuađor. Đọc là Quytô.
[4] Rio (tức Rio de Janeiro): Thủ đô, đồng thời là cảng lớn của Braxin.
- Không, cảm ơn ông. Chỉ có thế thôi ạ. Tôi đã ghi được cả đây rồi. Beppo[5], nhờ anh đưa tờ giấy này cho signora Bolla. Signor Rivarez, cảm ơn ông nhiều. Xin lỗi đã làm phiền ông.
Ruồi Trâu cau mày khó hiểu, ngã lưng vào tựa ghế. Bà ấy muốn biết những ngày tháng ấy để làm gì nhỉ? Lại còn hỏi họ đã đi qua Êcuađor khi nào…
[5] Beppo (tiếng Ý): đọc là Bếp-pô.
Gemma trở về nhà với mẩu giấy trong tay. Tháng tư năm 1838… mà Arthur mất vào tháng năm năm 1833. Năm năm…
Chị quay ra đi tới đi lui trong căn phòng. Chị đã thao thức suốt mấy đêm nay, những quầng thâm đã xuất hiện quanh mắt chị.
Năm năm... Và một
gia đình cực kỳ sang trọng
… rồi
một người mà ông ấy vẫn tin yêu đã lừa dối ông ta
… đã lừa dối ông ta… và ông ta đã phát hiện ra việc đó…
Chị dừng bước, đưa cả hai tay lên ôm lấy đầu. Ôi, cái chuyện này đã hoàn toàn là điên rồ… Không thể như thế được… đó là phi lý…
Mà lúc bấy giờ đã mò tìm cái bến tàu ấy kỹ biết bao nhiêu!
Năm năm… và ông ấy
chưa đầy hai mươi mốt tuổi
khi cái gã Lascar ấy… Vậy khi bỏ nhà ra đi, ông ấy phải là mười chín tuổi. Chính ông ấy chả nói
một năm rưỡi
là gì! Còn đôi mắt xanh biếc ấy thì ông ta lấy ở đâu ra, và lại còn những ngón tay hấp tấp ấy nữa? Mà tại sao ông ấy lại ghét cay ghét đắng Montanelli như thế? Năm năm… Năm năm…
Phải chi chị có thể biết chắc được một điều là anh ấy đã chết đuối… phải chi chị có thể chính mắt mình được trông thấy thi hài… thì chắc chắn sẽ có một ngày vết thương xưa cũ ấy sẽ thôi đau đớn và kỷ niệm xưa cũ này sẽ không còn khủng khiếp nữa. Và có lẽ bước sang hai mươi năm sau chị có thể học được cách quay nhìn lại quá khứ mà không rùng mình kinh sợ nữa.
Cả một thời thanh xuân của chị đã bị đầu độc bởi cái ý nghĩ về điều mình đã trót làm. Ngày lại ngày, năm lại năm, chị đã kiên quyết đấu tranh chống lại con quỷ hối hận. Chị luôn đinh ninh nhủ lòng rằng sự nghiệp của mình là ở tương lai, luôn bưng tai, nhắm mắt trước bóng ma lởn vởn của dĩ vãng. Nhưng ngày lại ngày, năm lại năm, hình ảnh thi thể người trẫm mình đang trôi bập bềnh ra nơi biển cả vẫn chẳng chút nào buông tha chị, trong lòng chị vẫn vang lên một tiếng kêu chua xót mà chị không sao dập tắt nổi:
Ta đã giết Arthur! Arthur chết rồi!
. Đôi lúc chị có cảm giác rằng gánh nợ ấy đã quá nặng, mình không sao gánh nổi nữa.
Ấy vậy mà giờ đây chị vẫn sẽ sẵn sàng hy sinh nửa cuộc đời mình để lại được mang gánh nặng ấy. Nếu chị đã giết anh - đó là nỗi đau quen thuộc mà chị chịu đựng đã quá lâu rồi nên bây giờ không sao gục xuống dù dưới sức nặng của nó. Nhưng nếu chị không đẩy anh xuống nước, mà đẩy xuống… Chị ngồi xuống ghế, đưa cả hai tay lên che lấy mắt. Và chính vì anh mà cuộc đời chị đã trở nên đen tối, bởi lẽ anh đã chết mất rồi! Chỉ mong sao chị đã không đem đến cho anh một cái gì đó tệ hại hơn cái chết!...
Kiên định và quả cảm, chị từng bước từng bước ôn lại toàn bộ cảnh địa ngục cuộc sống đã qua của anh. Cảnh ấy sao nó rất sống động đối với chị, hệt như chính chị đã từng trông thấy và cảm biết hết thảy: nào là một linh hồn trần trụi đang run rẩy trong tuyệt vọng, nào là những sự nhạo báng chua xót hơn cả cái chết, nào là những nỗi kinh hoàng của cô đơn, nào là những cơn hấp hối chầm chậm, mòn mỏi và tàn nhẫn. Nó cũng sống động hệt như chính chị đã từng ngồi bên anh trong túp lều tranh nhớp nhúa đó, hệt như chị đã từng cùng anh chị đựng khổ nhục trong những mỏ bạc, trong những đồn điền cà phê, trong gánh xiếc rong gớm ghiếc đó…
Gánh xiếc rong… Thôi, chí ít hãy xua đuổi cái hình ảnh ấy đi, vì chỉ riêng nó cũng đủ làm cho ta chỉ ngồi mà nghĩ đến cũng phát điên lên được!
Chị rút ra một ô kéo nhỏ ở bàn viết. Ô kéo đựng một vài vật kỷ niệm riêng tư mà chị không sao đang tâm hủy bỏ. Chị không ham thu góp các kỷ vật nhớ nhung nhỏ nhặt, nên việc giữ lại vài thứ lưu niệm này chính là sự nhượng bộ đối với một khía cạnh nhược điểm trong bản tính của chị, một khía cạnh mà chị vẫn kiên quyết dồn nén trong lòng. Họa hoằn lắm chị mới cho phép mình dòm ngó tới chúng.
Giờ đây chị lấy chúng ra xem, từng chiếc một: này là bức thư đầu của Giovani gửi chị và những đóa hoa nằm trong bàn tay anh khi anh đã tắt thở; này là lọn tóc của đứa con chị và một chiếc lá khô héo trên mộ của ba chị. Dưới đáy ô kéo là một bức chân dung nhỏ xíu của Arthur lúc lên mười, - một dáng hình phảng phất duy nhất còn lại của anh.
Gemma cầm tấm hình ấy mà ngồi xuống ghế và ngắm nhìn mái đầu trẻ thơ xinh xắn mãi cho tới khi gương mặt thật sự của Arthur lại hiện ra trước mắt chị. Sao mà gương mặt ấy hiện ra rõ rệt thế, rõ đến từng chi tiết. Những làn môi nhạy cảm, cặp mắt to đầy nhiệt tình, vẻ mặt tinh khiết như của thiên thần Seraphim[6], tất cả những cái đó khắc vào trí nhớ chị sâu đến nỗi chị tưởng chừng Arthur chỉ mới chết hôm qua. Và những giọt lệ nhạt nhòa từ từ trào ra che khuất bức chân dung trước mắt chị.
[6] Seraphic purity (tiếng Anh): Thiên thần Seraphim là vị thiên thần đứng hàng đầu trong chín bậc thiên thần của Công giáo. Cũng gọi là
Luyến thần
,
Thần sốt mến
… và thường được biểu hiện là có sáu cánh, mặt đỏ tượng trưng cho lửa và tình yêu.
Ôi, sao chị lại có thể nghĩ ra một chuyện như thế được nhỉ! Dù chỉ trong mộng tưởng, mà đem gắn linh hồn sáng láng và siêu thoát ấy với những khổ ải nhơ nhuốc của cuộc sống thì chẳng phải cũng là tội phạm thánh[7] sao? Hẳn là các thần thánh có phần ưu ái anh nên mới cho anh chết trẻ thế! Thà hóa thành hư không vẫn sướng gấp ngàn lần phải sống và trở thành Ruồi trâu, - làm cái anh chàng Ruồi trâu với những chiếc cavát cực kỳ nghiêm chỉnh, với những ngôn từ sắc sảo đáng ngờ, với một miệng lưỡi cay độc và với cô vũ nữ ba lê của anh ta! Không, không! Đó hoàn toàn chỉ là một ảo tưởng khủng khiếp và vô nghĩa, và chị đã chỉ làm thương tổn trái tim mình bằn những tưởng tượng hão huyền. Arthur chết rồi.
[7] Sacrilege (tiếng Anh): Cũng là tội phạm sự thánh, tội bất kính, tội nặng nhất trong Thiên chúa giáo.
- Tôi vào được không? - Một giọng nhẹ nhàng hỏi ngoài cửa.
Chị giật thót người đến nỗi tấm chân dung rời khỏi tay chị, và rồi thấy Ruồi trâu khập khiễng bước qua phòng đến nhặt tấm chân dung lên đưa cho chị.
Chị bảo:
- Ông làm tôi giật mình quá đấy!
- Tôi rất… rất xin lỗi. Có lẽ tôi quấy rầy bà rồi chăng?
- Không, tôi chỉ đang soạn lại vài đồ vật cũ thôi mà.
Chị ngập ngừng một lát, đoạn trao lại cho anh tấm hình bé nhỏ.
- Ông thấy gương mặt này thế nào?
Trong lúc anh ngắm nghía, chị đã chăm chú theo dõi nét mặt anh, như thể cuộc đời chị là tùy thuộc vào vẻ mặt ấy. Thế nhưng vẻ mặt ấy hoàn toàn chỉ là phủ định và phê phán. Anh bảo:
- Bà đã giao cho tôi một nhiệm vụ khó khăn. Tấm chân dung đã phai nhòa, và nói chung nét mặt trẻ con rất khó đoán. Nhưng tôi cho rằng cậu bé này lớn lên sẽ trở thành một kẻ không may mắn, và điều khôn ngoan nhất cho cậu ấy là nên tránh, đừng trở thành người lớn làm gì.
- Tại sao vậy?
- Bà hãy nhìn đường môi dưới của cậu ấy đây. Đó… đó… đó là một loại bản chất cứ cho đau khổ là đau khổ và sai trái là sai trái, mà thế giới này không… không… không làm gì có chỗ cho những kẻ như thế. Thế giới này cần những người chỉ biết nghĩ đến công việc của mình.
- Nhìn chung tấm hình có giống một ai mà ông biết không?
Anh càng nhìn kỹ hơn bức chân dung:
- Phải. Lạ lùng thật! Dĩ nhiên là giống rồi, rất giống đấy.
- Giống ai?
- Giống Hồng… Hồng y giáo chủ Monta… nelli. Tôi ngờ ngợ phải chăng Đức Hồng y cực kỳ thanh liêm này có cháu gọi bằng bác hay sao? Xin bà cho hỏi, đây là ai?
- Đây là tấm chân dung thuở nhỏ của người bạn mà tôi nói với ông hôm nào…
- Người mà bà đã giết?
Chị bất giác co người lại. Sao ông ta sử dụng cái từ ghê rợn ấy dễ dàng và tàn nhẫn thế!
- Phải, người tôi đã giết… nếu anh ấy chết thật.
- Nếu ư?
Chị chằm chằm nhìn mặt anh, rồi bảo:
- Đôi lúc tôi vẫn còn nghi hoặc. Người ta chưa hề tìm thấy xác anh ấy. Anh ấy cũng có thể đã bỏ nhà ra đi như ông, và cũng sang Nam Mỹ.
- Ta hãy hy vọng là không phải thế. Nếu cứ hy vọng thế, bà sẽ luôn mang theo một hoài niệm đau buồn. Trong đời… đời tôi, tôi đã… đã từng tham gia một số trận… trận chiến gay go và có lẽ đã từng đưa không… không chỉ một người xuống chầu Diêm Vương[8], nhưng nếu lương tâm tôi mách bảo rằng tôi đã từng đưa một sinh… sinh linh nào sang đến Nam Mỹ, thì tôi sẽ không sao ngủ yên được đâu...
[8] Nguyên văn là:
xuống chầu Hades
, theo thần thoại Hy Lạp, là thần cai quản cõi âm; ở đây coi như chỉ âm ty, địa ngục nói chung.
Hai tay chắp chặt lại, chị bước lại gần mà ngắt lời anh:
- Vậy ông có tin rằng: nếu như anh ấy không chết... và nếu như anh ấy lại cũng đã trải qua những cảnh ngộ như ông, anh ấy vẫn sẽ chẳng bao giờ trở lại và cứ để quá khứ trôi qua không? Ông có bao giờ tin rằng anh ấy sẽ không bao giờ quên đi không? Hãy nhớ rằng chính tôi cũng đã phải trả một giá nào đó! Ông nhìn xem!
Chị lật ngược những làn tóc dày trên trán. Giữa những lọn tóc đen, lộ ra một dải tóc bạc lớn.
Một hồi lâu im lặng. Rồi Ruồi trâu chậm rãi nói:
- Tôi nghĩ rằng những gì đã chết vẫn cứ nên là đã chết. Một số chuyện có quên được cũng khó. Và nếu tôi ở địa vị người bạn đã chết của bà, thì tôi cứ... cứ sẽ tiếp tục làm người đã chết. Dù hồn ma có hiện về[9] thì cũng vẫn là một bóng ma ghê rợn.
[9] Trong nguyên văn dùng từ tiếng Pháp
revenant
và từ này nghĩa đen là
kẻ trở về
, tức
hồn hiện về
.
Chị cất tấm chân dung trở lại vào ô kéo, khóa lại, rồi bảo:
- Chủ thuyết ấy khắc nghiệt quá. Vậy bây giờ ta nói chuyện khác đi.
- Tôi đến để bàn với bà chút ít về công việc, nếu bà cho phép, và đây là một câu chuyện riêng về một kế hoạch mà tôi đang suy tính.
Chị bèn kéo một chiếc ghế lại gần bàn và ngồi xuống.
Anh mở lời, trong câu nói không còn dấu vết gì của tật nói lắp thường ngày.
- Bà nghĩ gì về bản dự thảo luật báo chí?
- Tôi nghĩ gì à? Tôi nghĩ đạo luật đó chẳng có giá trị gì lắm, nhưng thà có nửa chiếc bánh còn hơn không có tí nào.
- Hẳn thế rồi. Vậy bà có định làm việc cho một trong những tờ bào mới mà mấy vị tốt bụng ở đây đang chuẩn bị xuất bản không?
- Tôi tính thế đấy. Khi sắp ra một tờ báo thường sẽ có rất nhiều công việc cụ thể, - nào là sắp đặt việc in ấn, bố trí việc lưu hành báo và...
- Bà định cứ tiếp tục phung phí những năng khiếu trí tuệ của mình như thế đến bao giờ?
- Tại sao lại
phung phí
?
- Vì nó là phung phí. Bà thừa biết rằng trí óc của mình vượt xa cả số lớn những người đang cùng làm việc với bà, vậy mà bà cứ để họ biến mình thành một người lao công tạp vụ, một người đầu sai[10]. Về mặt trí tuệ, so với bà, Grassini và Galli còn kém xa và chỉ là cỡ học trò.
[10] Nguyên văn là Johannes factotum (tiếng Latinh): Chân sai vặt.
Vậy mà bà cứ chịu ngồi sửa các bản in thử những bài của họ như một chân học việc ở xưởng in ấy.
- Trước hết, không phải lúc nào tôi cũng chỉ ngồi sửa bản in thử, và hơn nữa, dường như ông quá khen các khả năng trí tuệ của tôi. Những năng lực của tôi chẳng có gì xuất sắc như ông tưởng.
Anh bình tĩnh trả lời:
- Nào tôi có bảo là xuất sắc đâu, nhưng tôi dám chắc những năng lực ấy là vững vàng và chắc chắn, cái đó còn quan trọng hơn nhiều. Trong các phiên họp chán ngắt của ban chấp hành, chính bà luôn luôn là người vạch rõ được những chỗ yếu trong lập luận của mỗi người.
- Đối với những người khác, ông chưa công bằng. Chẳng hạn như Martini có đầu óc rất lôgíc. Fabrizi và Lega cũng đều rất có năng lực, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Hay như Grassini thì có lẽ sự hiểu biết của ông ta về thống kê kinh tế của nước Ý còn sâu sắc hơn bất cứ một quan chức nào trong nước.
- Ồ, thế cũng chưa có nghĩa lý gì nhiều lắm. Nhưng thôi, ta tạm gác, không bàn đến họ và năng lực của họ nữa! Sự thực vẫn là: với tài năng của bà, bà có thể làm được những việc quan trọng hơn và ở cương vị có trách nhiệm lớn hơn hiện nay.
- Tôi rất bằng lòng về vị trí của mình; tuy công việc tôi đang làm không có nhiều giá trị lắm, có lẽ vậy, nhưng tất cả chúng tôi ai làm được gì thì cứ làm.
- Signora Bolla, bà và tôi đã đi quá xa trong cái trò khen nhau và nhún nhường với nhau mãi rồi. Xin bà cứ thật thà trả lời cho tôi biết: bà có thừa nhận rằng hiện bà đang tận dụng trí não của mình vào những việc mà những người kém hơn bà cũng vẫn làm được không?
- Nếu ông cứ ép tôi phải trả lời, thì tôi bảo rằng: có, ở mức độ nào đó.
- Vậy sao bà cứ để tình trạng ấy tiếp diễn?
Không có tiếng trả lời.
- Tại sao bà cứ để nó tiếp diễn?
- Vì... tôi không còn các nào khác.
- Tại sao?
Chị ngước nhìn với vẻ trách móc:
- Thế là quá quắt rồi đấy... ai lại ép buộc nhau thế bao giờ.
- Nhưng dù sao bà vẫn cứ phải cho tôi biết vì lẽ gì chứ!
- Nếu ông đã cố đòi trả lời, thì đây: tại vì đời tôi đã tan nát rồi, và nay tôi chẳng còn đủ nghị lực làm một việc gì cho ra hồn nữa. Tôi chỉ còn xứng đáng làm con bò kéo xe[11] cách mạng và làm những công tác lao công tạp vụ cho đảng được thôi. Ít nhất tôi cũng đã tận tâm làm tròn công việc ấy, và dù sao vẫn phải có một ai làm công việc ấy.
[11] Nguyên văn là cab horse (tiếng Anh), con ngựa kéo xe chở khách. Ý nói công việc nặng nhọc về thể lực và nhàm chán.
- Chắc chắn là vẫn phải có một ai làm việc ấy rồi, nhưng không nhất thiết một người cứ làm mãi việc ấy.
- Đó là gần như tất cả những gì tôi có thể làm được.
Anh lim dim mắt nhìn chị một cách khó hiểu. Nhưng chị đã ngẩng đầu lên.
- Ta quay lại đề tài cũ mất rồi, lẽ ra cần bàn công việc kia mà! Tôi đảm bảo với ông rằng nếu cứ bảo là lẽ ra tôi có thể làm được đử thứ việc, thì sẽ hoàn toàn vô ích thôi! Hiện nay tôi sẽ chẳng bao giờ làm được đến thế đâu. Nhưng may ra tôi có thể giúp ông suy nghĩ cho kế hoạch của ông. Vậy kế hoạch ấy là gì vậy?
- Khởi đầu bà bảo nếu tôi có gợi ý công việc gì cũng là vô ích, thế rồi bà lại hỏi tôi định gợi ý công việc gì. Kế hoạch của tôi cần bà giúp cả về hành động, chứ không chỉ về suy nghĩ cho kế hoạch mà thôi.
- Ông cứ nói xem việc gì đã, rồi sau ta sẽ bàn.
- Trước hết tôi muốn hỏi xem bà có nghe tin gì về những toan tính khởi nghĩa ở vùng Venetia[12] không?
[12] Venetia (tiếng Anh): tiếng Ý là Veneto, một vùn g ở cực Đông Bắc nước Ý, ở gần Áo và Slovenia, bị Áo thống trị từ 1815, sau là một nước cộng hòa độc lập, đến năm 1866 mới thống nhất vào nước Ý chung. Trong vùng Veneto có thành phố nổi tiếng là Venezia. Nay nước Ý còn có một vùng (tỉnh) khác ngay cạnh vùng (tỉnh) Veneto là Friuli - Venezia - Giulia mà thủ phủ là Trieste, còn Venezia của địa phương này vẫn nằm trong vùng (tỉnh) Veneto và là thủ phủ của địa phương này.
- Từ khi có đại xá đến nay, tôi chẳng nghe thấy gì khác ngoài những mưu toan khởi nghĩa, và những âm mưu của phái Sanfedists, nhưng e rằng tôi hoài nghi cả hai chuyện đó.
- Trong số lớn trường hợp, tôi cũng nghĩ như bà. Nhưng hiện giờ tôi đang nói đến một tình hình là trong toàn bộ một tỉnh thực sự đang có việc nghiêm chỉnh chuẩn bị khởi nghĩa để chống lại người Áo. Trong những nước thuộc Giáo hoàng[13] - đặc biệt là trong Bốn Đặc khu[14], rất nhiều bạn thanh niên đang bí mật chuẩn bị vượt biên sang đấy để tình nguyện gia nhập nghĩa quân. Và các bạn bè của tôi ở Romagna còn cho tôi biết rằng...
[13] The Papal Sates (tiếng Anh).
[14] The Four Legations (tiếng Anh): Bốn tỉnh trong những nước thuộc Giáo hoàng do các Đặc sứ (đặc phái viên) của Giáo hoàng (Papal Legates) cai trị trực tiếp.
Chị ngắt lời:
- Ông cho biết, liệu ông có thể hoàn toàn chắc chắn là những bạn bè ấy của ông có thể tin cậy được không?
- Hoàn toàn chắc chắn. Tôi quen thân với họ và đã từng làm việc với họ.
- Nghĩa là họ cũng là những thành viên của một
nhóm bí mật
[15] có ông tham gia chứ gì? Ông tha thứ cho thái độ hoài nghi của tôi, nhưng thường tôi vẫn có chút ngờ vực đối với tính chính xác trong những thông tin của các hội kín[16]. Tôi có cảm tưởng rằng cái thói quen mà...
[15] Secte (tiếng Anh): Cũng có nghĩa là
phe phái
,
giáo phái
.
[16] Secret societies (tiếng Anh): Cũng là
các hội (đoàn thể) bí mật
.
Anh thẳng thừng cắt ngang:
- Ai bảo bà rằng tôi tham gia một
nhóm bí mật
?
- Không ai bảo, tự tôi đoán thế.
- À!
Anh ngả lưng vào tựa ghế, cau mày nhìn chị. Một lát sau anh hỏi:
- Bà có thường đoán mò những việc riêng của người khác không đấy?
- Tôi rất thường suy đoán. Tôi hay quan sát và cũng có thói quen liên kết các sự việc. Nói như vậy để khi ông không muốn cho tôi biết một chuyện gì đó, thì ông có thể phải cẩn thận đấy.
- Việc bà biết một chuyện gì đấy, điều đó không can hệ gì lắm, miễn là không đi quá xa. Tôi hy vọng là chuyện này còn chưa...
Chị ngẩng cao đầu, với vẻ nửa ngạc nhiên nửa giận dỗi. Chị bảo:
- Câu hỏi ấy chắc chắn là không cần thiết!
- Tất nhiên tôi biết bà sẽ không nói chuyện gì với người ngoài, nhưng tôi nghĩ biết đâu, với những người trong đảng của bà...
- Công việc của đảng là dựa trên sự thực, chứ không dựa vào những sự phỏng đoán và tưởng tượng của cá nhân tôi. Lẽ dĩ nhiên tôi chưa hề bao giờ nhắc đến vấn đề này với một ai cả.
- Cảm ơn bà. Vậy có bao giờ bà đoán tôi thuộc nhóm bí mật nào không?
- Tôi mong rằng... - mà ông không được mếch lòng về tính thẳng thắn của tôi đâu nhé, bởi vì chuyện này là do chính ông tự khơi mào ra, phải không ạ... - tôi rất mong rằng ông không thuộc nhóm
Dao găm
!
- Sao bà lại mong thế?
- Bởi vì ông thích hợp với những việc tốt đẹp hơn.
- Tất cả chúng ta đều thích hợp vớ những việc tốt đẹp hơn so với mọi việc chúng ta đã làm. Câu trả lời của chính bà là để trả lời lại cho bà. Tuy nhiên, tôi không thuộc nhóm
Dao găm
mà lại thuộc nhóm
Thắt lưng đỏ
! Nhóm này vững vàng hơn nhiều và tiến hành công việc cũng nghiêm chỉnh hơn.
- Ý ông muốn nói công việc đâm chém chăng?
- Cả việc đó, cùng với những công việc khác nữa. Dao găm là một vật rất có ích theo kiểu của nó; nhưng chỉ có ích khi đằng sau nó có một công tác tuyên truyền tốt và có tổ chức. Chính do điểm này mà tôi không ưa cái nhóm nọ đấy. Họ tưởng rằng dao găm có thể giải quyết được mọi khó khăn trên đời, và đó là một sai lầm. Dao găm có thể giải quyết được khá nhiều chuyện, nhưng không phải là tất cả.
- Ông có thật lòng tin rằng dao găm có thể giải quyết được chuyện gì không?
Anh ngạc nhiên nhìn chị.
Chị nói tiếp:
- Tất nhiên, nhất thời dùng dao găm có thể loại trừ được một khó khăn cụ thể nào đó do sự hiện diện của một tên mật thám xảo quyệt hoặc một viên quan lại đáng ghét nào đó gây ra. Nhưng trừ xong được khó khăn này liệu có tạo ra nhiều khó khăn nữa tệ hại hơn không, đó lại là vấn đề khác. Tôi thiết tưởng chuyện ấy giống như truyện ngụ ngôn chưa quét dọn sạch nhà thì bầy ma đã đến[17]. Cứ mỗi lần ám sát lại càng làm cho cảnh sát thêm hung hãn và càng làm cho quần chúng quen nhờn với hung tàn và bạo lực, và rồi trạng thái cuối cùng của cộng đồng có thể lại tệ hơn trạng thái ban đầu
[17] Nguyên văn
the parable of the swept and garnished house and the seven devils
(truyện ngụ ngôn về ngôi nhà đã quét dọn sạch sẽ với bảy con quỷ): từ Công giáo gọi là
dụ ngôn
, có rất nhiều
dụ ngôn của chúa Giêsu
trong sách Phúc Âm (Tin Mừng). Ở đây là dẫn một
dụ ngôn
về một người đã dọn sạch nhà của mình khỏi một con quỷ rồi, nhưng lại bỏ trống, không ở; con quỷ quay lại thấy thế liền dẫn thêm bảy con quỷ khác đến chiếm lĩnh. Ngụ ý chung là: làm chuyện gì không đến đầu đến đuôi thì sau đó tệ hại hơn nhiều.
- Vậy theo bà khi cách mạng xảy tới thì điều gì sẽ diễn ra? Bà có cho rằng lúc ấy nhân dân chẳng cần phải làm quen với bạo lực không? Chiến tranh là chiến tranh chứ.
- Vâng, nhưng cách mạng công khai lại là một chuyện khác. Cách mạng chỉ là một thời điểm nhất thời trong sinh hoạt của dân chúng, và đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho mọi bước tiến bộ của chúng ta. Dĩ nhiên, sẽ có những chuyện đáng sợ xảy ra, đó là điều không thể tránh khỏi trong mọi cuộc cách mạng. Thế nhưng đấy cũng chỉ là những sự việc riêng biệt, - những nét đặc biệt của một thời điểm đặc biệt mà thôi. Điều kinh khủng của việc đâm chém bừa bãi là khi nó trở thành thói quen. Dân chúng quen thấy chuyện ấy diễn ra như cơm bữa, và rồi ý thức của họ đối với tính thiêng liêng của sinh mạng con người sẽ mòn mỏi đi. Tôi chưa đến Romagna nhiều, nhưng đôi chút gì tôi thấy được ở dân chúng nơi đó vẫn cho tôi một ấn tượng là họ đã có hoặc đang sắp có một thói quen máy móc về bạo lực.
- Chắc chắn là thói quen ấy vẫn còn hơn thói quen bảo sao nghe vậy và cúi đầu khuất phục.
- Tôi không nghĩ thế. Mọi thói quen máy móc đều có mặt xấu, mặt nô lệ của nó, riêng thói quen này lại còn hung hãn nữa. Tất nhiên, nếu ông coi công việc của người cách mạng chuyên nghiệp chỉ thuần túy nhằm đoạt được vài sự nhượng bộ nhất định từ phía chính phủ, thì chắc chắn ông sẽ cho nhóm bí mật và dao găm là những vũ khí tốt nhất, bởi vì các chính phủ không sợ cái gì hơn hai thứ này. Nhưng, nếu ông cũng nghĩ như tôi, rằng việc cưỡng ép chính phủ không phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện để đạt mục đích, và rằng điều chúng ta thật sự cần cải tạo là mối quan hệ giữa người với người, thì nhất định ông sẽ tiến hành công việc theo cách khác hẳn. Việc tập cho những người không có học thức quen những cảnh đổ máu, không phải là cách làm cho họ nâng cao được giá trị của sinh mạng con người trong nhận thức của họ.
- Thế còn giá trị tôn giáo trong nhận thức của họ?
- Tôi không hiểu.
Anh mỉm cười:
- Theo tôi thì chúng ta khác ý kiến nhau trong vấn đề đâu là căn nguyên của tai họa. Bà cho rằng căn nguyên là ở chỗ thiếu coi trọng giá trị sinh mạng con người...
- Nói đúng hơn là thiếu coi trọng cái thiêng liêng về nhân tính của con người.
- Cái đó tùy bà. Còn theo ý kiến tôi, nguyên nhân chính của các hỗn loạn và sai lầm của chúng ta có lẽ là ở một căn bệnh tinh thần mà người ta gọi là tôn giáo.
- Ông có ý nhằm vào một tôn giáo riêng biệt nào không?
- Ồ, không! Đấy chỉ thuần túy là vấn đề triệu chứng bên ngoài mà thôi. Còn chính căn bệnh là cái mà người ta gọi là thái độ tôn giáo của nhận thức. Nó là một khát vọng bệnh hoạn muốn dựng lên một vật tổ để thờ phụng, muốn rạp đầu cúi lạy, và sùng bái một cái gì đó. Cái đó là cái gì, là Giêsu, là Phật hay là một cây tum-tum thì khác nhau cũng chẳng bao nhiêu. Dĩ nhiên bà chẳng đồng ý với tôi đâu. Bà có thể là người vô thần, và là người theo thuyết bất khả tri[18] hay là gì gì đi nữa, nhưng đứng cách bà năm thước[19] tôi vẫn có thể thấy được tâm tính tôn giáo của bà. Tuy nhiên, nếu ta đi vào tranh luận vấn đề này thì cũng vô bổ. Nhưng nếu bà tưởng rằng một người như tôi chẳng hạn, chỉ coi sử dụng dao găm là một phương tiện để thanh toán những tên quan lại gian ác thì bà đã lầm to. Đó trước hết là một phương tiện, và, theo tôi, là một phương tiện tốt nhất, để hủy hoại uy tín của Giáo hội và để khiến dân chúng quen coi những kẻ làm chân tay cho Giáo hội chỉ là một lũ dòi bọ.
[18] Agnostic (tiếng Anh): Cũng là người theo thuyết
Không thể biết
( Anosticism).
[19] Nguyên văn là
yards
(thước Anh: 91,4cm).
- Nhưng khi ông đã hoàn tất việc ấy, khi ông thức tỉnh được con thú dữ đang thiu thiu ngủ trong lòng dân chúng và thúc nó nhảy xổ vào Giáo hội, thì lúc ấy...
- Thì lúc ấy tôi đã làm xong một công việc đáng cho tôi sống trên đời này.
- Phải chăng đó chính là công việc ông nói bữa nọ?
- Phải, chính thế.
Chị rùng mình, quay đi.
Anh mỉm cười ngước nhìn lên, và nói:
- Bà thất vọng về tôi rồi hả?
- Không, không hẳn thế. Tôi nghĩ là... tôi... hơi sợ ông.
Một lát sau, chị quay lại và nói với giọng bàn bạc công việc như bình thường.
- Thảo luận như thế chẳng ích lợi gì. Quan điểm của chúng ta khác nhau quá xa. Riêng tôi thì tôi tin tưởng vào tuyên truyền, tuyên truyền nữa, tuyên truyền mãi, và khi có thể thì sẽ khởi nghĩa công khai.
- Vậy ta hãy quay lại bàn kế hoạch của tôi. Kế hoạch đó liên quan phần nào đến tuyên truyền và có liên quan nhiều hơn đến khởi nghĩa.
- Vậy ư?
- Như tôi đã nói với bà là có rất nhiều người tình nguyện hiện đang từ Romagna kéo sang tham gia với dân Venetia. Chúng tôi còn chưa biết bao lâu nữa cuộc khởi nghĩa sẽ nổ ra. Có lẽ không tới tận thu hoặc đông này đâu, nhưng những người tình nguyện trong dãy Apennines phải được vũ trang và chuẩn bị sẵng sàng để có thể xuất phát và thẳng tiến đến các vùng đồng bằng mà họ được phái đến. Tôi đã lãnh trách nhiệm bí mật đưa vũ khí và đạn dược vào lãnh địa Giáo hoàng cho họ…
- Khoan đã. Làm thế nào ông lại cộng tác được với đám người đó. Những người hoạt động cách mạng chuyên nghiệp ở Lombardy và Venetia hiện đều đang tán thành Giáo hoàng mới. Họ ủng hộ những cuộc cải cách tự do, cùng kề vai sát cánh với phong trào tiến bộ trong Giáo hội. Một người chống Giáo sĩ
không khoan nhượng
như ông làm sao hòa hợp với họ được?
Anh nhún vai:
- Chừng nào họ vẫn còn làm việc, mà họ thích tự giải trí với một con búp bê giẻ rách[20] nào đó thì can hệ gì đến tôi? Lẽ dĩ nhiên, họ sẽ dùng Giáo hoàng làm bù nhìn giữ dưa. Việc gì tôi phải bận tâm đến chuyện ấy, một khi cuộc khởi nghĩa vẫn cứ tiến hành được như thường? Tôi thấy gậy nào đánh chó chả được, và lời hô nào kêu gọi được nhân dân nổi dậy chống người Áo thì cũng tốt cả.
[20] Rag-doll (tiếng Anh): Búp bê làm bằng các mụn vải thừa rẻ tiền.
- Vậy ông muốn tôi giúp việc gì?
- Chủ yếu là bà giúp tôi đưa vũ khí qua biên giới.
- Nhưng tôi làm sao được việc ấy?
- Bà chính là người có thể làm việc ấy tốt hơn ai hết. Tôi định mua vũ khí bên Anh, nhưng thấy chuyện mang về có khá nhiều khó khăn. Không thể đưa qua được bất kỳ một hải cảng nào thuộc quyền Giáo hoàng; mà phải bằng đường Tuscany, rồi xuyên qua dãy Apennines.
- Như vậy phải vượt biên không chỉ một mà những hai lần.
- Vâng, nhưng không thể hy vọng có con đường nào khác. Một số hàng lớn như thế không thể chở vào một bến mà không có thương mại được. Còn cảng Civita Vecchia[21] như bà đã biết, toàn bộ lực lượng vận chuyển bằng tàu bè ở đó chỉ khoảng ba thuyền buồm và một thuyền đánh cá. Còn một khi ta tìm được hàng qua đường Tuscany thì tôi sẽ xoay sở chuyển qua biên giới lãnh địa Giáo hoàng được. Người của tôi thuộc từng con đường độc đạo trên núi, và chúng tôi đã có rất nhiều chỗ cất giấu vũ khí. Nhất thiết phải vận chuyển bằng đường biển đến Leghorn, mà đây chính là nỗi khó khăn rất lớn của tôi. Tôi không có đầu mối nào trong những dân buôn lậu ở đó, và tôi tin là bà có.
[21] Civita Vecchia (tiếng Ý): Hải cảng chính thuộc quyền Giáo hoàng, ở bờ biển phía tây nước Ý, ở gần và phía bắc Roma.
- Ông cho tôi nghĩ năm phút.
Chị cúi mình, tì cằm lên bàn tay của một cánh tay chống lên đầu gối. Im lặng vài phút, chị nhìn lên mà bảo:
- Có thể là tôi giúp được phần nào trong công việc ấy. Nhưng trước khi đi vào cụ thể, xin hỏi ông một câu. Ông có thể hứa cới tôi rằng việc này sẽ không dính dáng gì đến bất kỳ việc đâm chém nào hoặc bất kỳ loại bạo lực bí mật nào không?
- Chắc chắn thế. Tôi sẽ không bao giờ yêu cầu bà tham gia vào việc gì mà tôi biết là bà không tán thành, điều đó thì khỏi nói rồi.
- Bao giờ ông cần câu trả lời dứt khoát của tôi?
- Không còn nhiều thời giờ để chờ đợi nữa rồi, nhưng tôi có thể để bà quyết định trong vài ngày.
- Chiều thứ bảy tới ông có rảnh không?
- Để tôi xem thử… hôm nay là thứ năm… Vâng, được.
- Vậy ông cứ đến đây. Tôi suy nghĩ kỹ rồi sẽ trả lời ông dứt khoát.
Chủ nhật sau đó, Gemma gửi cho ban chấp hành đảng bộ Florence của đảng Mazzini một thư thông báo rằng chị định đảm nhiệm một công tác chính trị đặc biệt, nên trong mấy tháng tới chị không thể tiến hành được những công việc mà từ trước đến nay chị vẫn phụ trách trước đảng.
Lời thông báo này có gây ra ít nhiều ngạc nhiên, nhưng ban chấp hành không có ý kiến phản đối gì. Các ủy viên đều đồng ý rằng nếu signora Bolla đã có một chủ trương đột ngột như thế thì hẳn bà có những lý do xác đáng, vì từ nhiều năm nay trong đảng ai cũng biết bà là người có trí phán đoán rất đáng tin cậy.
Với Martini thì chị nói thẳng thắn rằng chị đã nhận giúp đỡ Ruồi trâu trong một
công tác biên giới
. Chị đã ước định trước rằng chị có quyền nói nhiều đến chừng ấy với người bạn cũ này của mình, để giữa hai người khỏi có sự hiểu lầm hoặc những cảm giác đau xót vì nghi ngờ và giấu giếm. Chị thấy dường như mình có nhiệm vụ phải cho Martini có được bằng chứng về lòng tín cẩn của mình đối với anh ấy. Tuy anh đã không bình luận gì khi được chị cho biết tin, nhưng chị thấy rõ, mặc dù không biết tại sao, rằng cái tin ấy đã làm anh rất đau lòng.
Hai người ngồi trên sân thượng nhà chị, đang lướt nhìn qua những mái nhà đỏ đến tận Fiesole. Sau một hồi im lặng, Martini đứng dậy đi đi lại lại trên sân, hai tay thọc túi, vừa đi vừa huýt sáo miệng, - một dấu hiệu chắc chắn cho thấy anh đang xao động. Chị ngồi nhìn anh một lát.
Cuối cùng chị bảo:
- Cesare, anh đang lo lắng về vụ việc này. Câu chuyện khiến anh chán nản đến thế làm tôi cũng rất phiền lòng. Nhưng tôi đã chỉ quyết định khi tôi thấy là đúng.
Vẻ ủ dột, anh đáp:
- Không phải tôi lo lắng về vụ việc đâu. Vụ việc ấy tôi chẳng biết tí gì cả,nhưng có lẽ là tốt cả thôi, một khi chị đã thuận ý tham gia. Tôi chỉ không tin cậy con người ấy.
- Tôi thấy anh vẫn hiểu lầm ông ấy. Trước kia tôi cũng thế, cho tới khi tôi hiểu được ông ấy nhiều hơn. Tuy rất chưa vẹn toàn, nhưng ông ấy có nhiều cái tốt hơn anh tưởng.
- Rất có thể thế.
Anh lặng lẽ đi tới đi lui trên sân một lát, rồi đột ngột dừng bước bên cạnh chị.
- Gemma, từ bỏ việc ấy đi! Từ bỏ việc ấy trước khi quá muộn. Đừng để con người ấy lôi kéo chị vào những chuyện mà sau này sẽ phải hối hận.
Chị dịu dàng đáp:
- Cesare, anh chưa nghĩ kỹ những điều anh nói. Không ai lôi kéo tôi vào bất kỳ chuyện gì cả. Sau khi tự mình suy nghĩ cẩn thận, tôi đã đi đến quyết định theo ý nguyện của chính mình. Cá nhân anh không ưa Rivarez, tôi biết, nhưng ta đang bàn đây là chuyện chính trị chứ không phải chuyện các cá nhân,
- Madonna, từ bỏ việc ấy đi! Con người ấy nguy hiểm đấy. Hắn bí hiểm, tàn bạo và bất nhẫn... và hắn đã yêu bà!
Chị co người lại:
- Cesare, sao anh chứa chất trong đầu được những chuyện kỳ quặc thế?
Martini nhắc lại:
- Hắn đã yêu bà! Hãy tránh xa hắn ra, Madonna!
- Cesare thân mến, tôi không thể tránh xa ông ấy, và cũng không thể cắt nghĩa để anh rõ vì sao. Chúng tôi đã gắn bó với nhau... mà không phải do ý muốn hay hành động nào của chúng tôi.
Martini chán chường đáp lại:
- Nếu hai người đã gắn bó với nhau, thì không còn gì để nói thêm nữa.
Anh lấy cớ bận việc để ra về, và anh đã đi lang thang nhiều tiếng đồng hồ trên các đường phố lầy lội. Chiều hôm ấy, thế giới đối với anh thật là đen tối. Có một vật báu nhỏ nhoi duy nhất[22], vậy mà con người xảo trá từ đâu đến ấy đã lẻn vào nẫng mất rồi.
[22] Nguyên văn
one poor ewe-lamb
(tiếng Anh), nghĩa đen là
một con chiên (cừu) cái nhỏ đáng thương
, trong từ ngữ Công giáo là chỉ
vật sở hữu duy nhất và thân yêu
.