Chương 11
-
Ruồi Trâu
- Ethel Lilian Voynich
- 16334 chữ
- 2020-05-09 02:35:01
Số từ: 16334
Dịch giả: Hà Ngọc
NXB Văn Học
Vậy tôi không...thể gặp mặt ông ta trong vùng núi được ư ? Gặp ở Bơ-xi-ghê-la thì nguy hiểm quá.
- Chỗ nào ở Rô-ma-nha cũng đều nguy hiểm cho anh cả. Chính lúc này chỉ có Bơ-xi-ghê-la là nơi an toàn nhất.
- Tại sao ?
- Tại sao à ?... Anh chớ để cho lão áo xanh kia trông thấy mặt : Hắn là một đối tượng rất nguy hiểm... Phải, trận bão vừa qua thật khủng khiếp. Tôi chưa bao giờ thấy nho bị huỷ hoại nhiều như thế !
Ruồi trâu đặt hai tay lên bàn, đầu gục hẳn xuống, trông như một người hoặc đã kiệt sức hoặc đã quá say. " Đối tượng rất nguy hiểm" mặc áo xanh liếc nhìn gian phòng. Hắn chỉ nhìn thấy hai người nông dân đang nói chuyện về mùa màng cạnh một bình rượu vang và một người dân miền núi ngái ngủ gục đầu xuống bàn. Những cảnh như thế thường xảy ra luôn trong những quán rượu ở nơi hẻo lánh như vùng Ma-ra-đi này. Gã mặc áo xanh hình như cho rằng ở đây chẳng có gì lạ bèn nốc một hơi cạn chén rượu rồi lắc lư bước ra phòng ngoài. Hắn tỳ tay vào quầy hàng, uể oải nói chuyện với chủ quán, thỉnh thoảng lại liếc qua khung cửa bỏ ngỏ, nhìn về phía ba người ngồi quanh chiếc bàn. Hai người nông dân vẫn cứ nghiễm nhiên nhắm rượu, tán chuyện thời tiết bằng tiếng địa phương; còn Ruồi trâu ngáy ầm ầm như một kẻ vô tư lự.
Cuối cùng, tên mật thám chắc mẩm rằng trong quán rượu chẳng có gì đáng để hắn mất thời giờ hơn nữa. Hắn trả tiền, uể oải ra khỏi quán, rồi lắc lư bước trên đường phố.
Ruồi trâu ngẩng đầu lên, ngáp dài, vươn vai và lấy tay áo da dụi mắt.
Anh nói :
- Đóng cái trò này cũng không pahỉ là đễ.
Rồi anh rút trong túi ra con dao nhíp, cắt lấy một chiếc bánh mỳ trên bàn.
- Mi-kê-lê, gần đây họ làm rầy rà các anh lắm phải không ?
- Tệ hơn cả muỗi tháng tám. Họ không để cho một phút yên thân. Đi đến đâu cũng thấy mật thám theo sau lưng. Đến cả trên núi cao trước mật thám không dám thò mặt đến nhưng nay chốc chốc lại thấy từng nhóm ba bốn đứa một... Phải không nhỉ Gi-nô ?...Chính vì thế nên chúng tôi bố trí để anh gặp Đô-mi-ni-kô trong thành phố.
- Phải, nhưng tại sao lại ở Bơ-ri-xi-ghê-la? Các thành phố biên giới thì bao giờ chằng đầy mật thám ?
- Anh không tìm được nơi nào tốt hơn Bơ-ri-xi-ghê-la đâu. Bây giờ khách thập phương trên toàn nước Ý đều đổ xô đến đó cả.
- Nhưng Bơ-ri-xi-ghê-la không phải là chỗ tiện đường cho họ tới.
- Bơ-ri-xi-ghê-la ở cách đường về La mã không xa lắm. Nhiều khách thập phương tạt vào đó để nghe giảng đạo.
- Tôi không hề nghe ai nói ở Bơ-ri-xi-ghê-la có danh...danh lam thắng cảnh gì.
- Có Hồng y giáo chủ chứ ? Anh có nhớ ông ta đã tới Phơ-lô-răng-xơ giảng đạo hổi tháng mười năm ngoái không ? Chính Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li đấy. Nghe nói lúc đó ông ta đã làm chấn đông dư luận Phơ-lô-răng-xơ
- Chắc thế. Nhưng tôi đi nghe giảng đạo làm gì.
- Thiên hạ người ta coi Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li như ông thánh.
- Tại sao ông ta nổi tiếng thế nhỉ ?
- Tôi không biết. Có lẽ bởi vì ông ta nhận được bao nhiêu thì đem bố thí cả. Còn riêng bản thân mình ông ta chỉ sống như một linh mục coi xứ, mỗi năm chỉ tiêu pha bốn năm trăm đồng scu-đô thôi.
Người tên là Gi-nô cũng góp chuyện :
- À! Còn hơn thế nữa chứ. Hồng y giáo chủ không chỉ khác mọi người ở chỗ bố thí tiền mà ông ta còn suốt đời chú ý đến người nghèo. Ông ta chăm lo để người ốm được săn sóc chu đáo. Suốt ngày từ sáng đến tối ông ta lắng nghe dân chúng than thở và kêu cầu. Mi-kê-lê, tôi không thích cha cố hơn anh đâu, nhưng ngài Mông-ta-ne-li không giống như các Hồng y giáo chủ khác.
Mi-kê-lê nói :
- Phải, tôi thì cho rằng Mông-ta-ne-li là một người gàn dở chứ không phải là một tay bịp bợm. Nhưng dù sao thiên hạ cũng sùng bái ông ta như điên dại vậy. Gần đây khách thập phương có lệ đi Bơ-ri-xi-ghê-la để được ông ta ban phước lành. Đô-mi-ni-kô định giả trang một người bán hàng rong, mang một giỏ thánh giá và một tràng hạt loại rẻ tiền đến bán. Mọi người đi lễ sẵn sàng mua những của đó để xin Hồng y giáo chủ giơ tay làm phép, rồi mang về đeo cho trẻ con lấy khước.
- Khoan đã,.. Vậy tôi đi bằng cách nào ? Giả làm khách thập phương à ? Tôi thích bộ quần áo đang mặc trong người lắm, nhưng bộ đồ này tới ...Bơ-ri-xi-ghê-la thì không thể được. Vì nếu họ bắt được tôi thì sẽ..sẽ đủ tang chứng để bắt các anh.
- Chẳng đứa nào bắt anh đâu. Chúng tôi đã lo liệu cho anh đủ quần áo, hộ chiếu và mọi thứ cần thiết.
- Bộ quần áo gì thế ?
- Anh sẽ hoá trang làm một khách thập phương già từ Tây Ban Nha đến để ăn năn về tội cướp giết người. Năm ngoái lão già này bị ốm dở ở An-cô-na. Một đồng chí của chúng ta thương tình cho lên tàu ở rồi đưa về Vơ-ni-dơ, nơi lão ta có nhiều bạn bè. Lão cho chúng tôi hết mọi giấy tờ để tỏ lòng cảm ơn. Bây giờ giấy tờ ấy hợp với anh lắm.
- Một...một kẻ cướp giết người ăn năn tội lỗi ư ? Thế đối với cảnh..cảnh sát thì làm thế nào ?
- Về mặt đó cũng ổn cả rồi. Lão già đã mãn hạn tù khổ sai từ mấy năm trước, bây giờ chỉ đi viếng Giê-ru-xa-lem và các đất thánh để cầu cho linh hồn được sạch tội. Lẽ ra lão ta định giết kẻ khác nhưng lại giết lầm phải con mình và đến tự nộp mình cho cảnh sát.
- Lão ta già lắm không ?
- Vâng, già lắm. Nhưng không sao, anh cứ đeo tóc và râu giả vào là được. Còn những đặc điểm khác của lão ta thì anh giống như hệt. Lão ta là một lính phục viên chân khập khiễng, mặt cũng có vết sẹo như anh, quốc tịch Tây Ban Nha nếu anh gặp người Tây Ban Nha thì anh cũng có thể nói chuyện được.
- Vậy tôi sẽ gặp Đô-mi-ki-nô ở chỗ nào ?
- Chúng tôi sẽ chỉ cho anh một ngã tư đường trên bản đồ. Tới đây anh cứ nhập vào đoàn khách thập phương nói với họ rằng anh bị lạc trong núi. Khi tới thành phố thì anh cứ nhập bọn đi theo tới khu họp chợ trước cửa lâu đài của hồng y giáo chủ.
- Thế nghĩa là mặc ..mặc dù ông ta là thánh ông ta vẫn ở trong...trong lâu đài ư ?
- Ông ta ở một chái, chỗ còn lại thì làm nhà thương... Anh đợi tới khi Hồng y giáo chủ bước ra ban phép lành cho khách thập phương thì Đô-mi-ni-ki-nô cũng sẽ mang giỏ tới, anh ta hỏi " Thưa bố, bố có phải là khách thập phương không?"
Anh sẽ trả lời " lão là một kẻ không may có tội." Khi anh ta đặt giỏ xuống đất và lấy ống tay áo chùi mặt thì anh ta đưa sáu đồng scu-đô ra mua một tràng hạt.
- Và sẽ bàn ngay với anh ta về địa điểm gặp nhau để nói chuyện à ?
- Phải, trong khi mọi người đang dồn mắt cả về phía Hông y giáo chủ thì anh ta sẽ có thừa thời giờ để bảo cho anh biết chỗ gặp. Kế hoạch của chúng tôi như thế đấy, nhưng nếu anh không đồng ý thì chúng tôi có thể báo trước cho Đô-mi-ni-ki-nô biết và đổi kế hoạch khác.
- Không, kế hoạch ấy hay lắm. Nhưng các anh phải làm sao xoay được bộ râu tóc giả cho thật giống thì mới được.
- Thưa bố, bố có phải là khách thập phương không ?
Lúc ấy Ruồi trâu đang ngồi trên bậc thềm lâu đài của Hồng y giáo chủ. Anh ngẩng đầu lên với mái tóc bạc bù xù, giả giọng khàn khàn run run và lơ lớ nói lên mật hiệu định trước. Đô-mi-ni-ki-nô trật chiếc dây da ra khỏi vai, đặt giỏ tràng hạt và thánh giá xuống bậc thềm. Đám đông những người nông dân và khách thập phương ngồi kín cả bậc thềm và đứng đầy khu họp chợ không ai để ý cả, nhưng hai người vẫn cứ thận trọng, thỉnh thoảng mới nói một vài câu. Đô-mi-ni-ki-nô nói tiếng địa phương, còn Ruồi trâu thì nói tiếng Ý pha tiếng Tây Ban Nha.
Bỗng những người đứng ở cửa lâu đài kêu lên :
- Đức Hồng y đến ! Đức Hồng y đến ! Tránh ra cho người đi ! Ruồi trâu và Đô-mi-ni-ki-nô đứng dậy.
- Này, bố cầm lấy.
Nói đoạn, Đô-mi-ni-ki-nô giúi vào tay Ruồi trâu một chiếc ảnh thánh nhỏ gói giấy.
- Khi bố tới La mã thì xin bố cầu nguyện cho con.
Ruồi trâu nhét bức ảnh vào ngực và quay lại nhìn Hồng y giáo chủ. Mặc chiếc áo choàng màu tím nhạt, đội mũ đỏ tía, ông ta đứng trên bậc cao nhất để giơ tay ban phước cho mọi người. Mông-ta-ne-li từ từ bước xuống bậc thềm, khách thập phương xúm xít ung quanh để được hôn tay Hồng y giáo chủ. Nhiều người quỳ xuống, ghé môi hôn tà áo.
- Các con, cha cầu cho các con được bằng an !...
Nghe giọng nói trong như bạc ấy, Ruồi trâu bỗng cúi gục đầu làm cho những mớ tóc bạc xoã xuống mặt. Nhìn chiếc gậy run rẩy trong tay Ruồi trâu, Đô-mi-ni-ki-nô tấm tắc khen thầm" Thật là một tay đóng kịch có tài!"
Một người đàn bà đứng gần đó, cúi xuống nhấc đứa con lên khỏi bậc thềm rồi nói :
- Trếch-cô, đến gần đức Hồng y đi con. Người sẽ ban phước lành cho con như của chúa Giê-su ngày xưa đã chúc phước lành cho các trẻ em.
Ruồi trâu tiến lên một bước rồi dừng lại. Cuộc đời sao mà tàn nhẫn quá. Khách thập phương và những người dân miền núi tất cả những người ngoài cuộc ấy có thể tiến lại gần cha và nói chuyện với cha...cha sẽ xoa đầu các em bé..Và có lẽ cha sẽ gọi chú bé nông dân đó là "Carino" như cha đã từng gọi anh hồi nào.
Ruồi trâu lại ngồi thụp xuống bậc thềm và quay mặt đi để tránh nhìn cảnh tượng đó. Nếu có thể chui vào một xó nào, nút tai lại để không nghe thấy gì nữa thì tốt biết bao ! Thật là quá sức chịu đựng của con người... Ở gần, gần đến nỗi chỉ việc chìa tay ra là có thể mó vào bàn tay thân yêu đó...
Một giọng dịu dàng cất lên :
- Ông bạn ơi, có vào trong nhà nghỉ một chút không? Ông rét run lập cập rồi.
Trái tim Ruồi trâu như ngừng đập. Trong giây phút ấy, anh không thấy gì cả, chỉ thấy máu trào mạnh mẽ tưởng chừng như xé tan lồng ngực, từng đợt, từng đợt, máu nóng rừng rực chạy khắp toàn thân. Ruồi trâu ngẩng đầu. Và nhìn thấy mặt anh, đôi mắt nghiêm nghị và sâu xa của người đang đứng cúi xuống bên anh bỗng càng trở nên hiền dịu với một niềm trắc ẩn thiêng liêng.
Mông-ta-ne-li nói với đám đông :
- Các con hãy lui ra một chút để cha nói chuyện với ông cụ này.
Khách thập phương xì xào, từ từ lui ra. Còn Ruồi trâu thì ngồi im, môi mím chặt, mắt nhìn thẳng xuống đất. Anh cảm thấy tay Mông-ta-ne-li nhẹ nhàng đặt lên vai mình.
- Ông bạn có gì đau khổ lắm phải không ? Tôi có thể giúp ông một phần nào được chăng ?
Ruồi trâu lắc đầu im lặng.
- Ông là khách thập phương à ?
- Tôi là kẻ không may có tội.
Câu hỏi của Mông-ta-ne-li ngẫu nhiên trùng với mật hiệu làm cho Ruồi trâu dường như sắp chết đuối vớ được cọc. Anh trả như một cái máy. Tay Mông-ta-ne-li dịu dàng đặt lên vai anh làm cho anh cảm thấy da thịt nóng bỏng lên, toàn thân anh run lẩy bẩy.
Hồng y giáo chủ lại càng cúi sát xuống mặt anh :
- Có lẽ ông bạn muốn nói chuyện riêng với tôi chăng ? Nếu tôi có thể giúp ông bạn được phần nào.
Lần đầu tiên Ruồi trâu vững vàng nhìn thẳng vào mắt Mông-ta-ne-li . Bình tĩnh trở lại, anh nói :
- Không, không ai có thể giúp tôi được cả.
Một viên cảnh sát lách vào .
- Xin đức Hồng y tha tội để cho con được nói vài lời. Lão già này điên đấy. Lão ta lành lấm và có đủ giấy tờ nên chúng con vẫn để cho lão yên thân. Lão ta phạm tội nặng bị khổ sai. Bây giờ lão ta đang ăn năn để chuộc tội.
Ruồi trâu chậm chạp gạy đầu nhắc lại :
- Phạm tội nặng lắm.
Mông-ta-ne-li nói :
- Cám ơn đại uý. Xin đại uý lui ra xa một chút... Ông bạn của tôi ơi, người nào đã biết thật bụng ăn năn thì tôi đều có thể giúp được. Chiều nay ông bạn đến chỗ tôi nói chuyện có được không ?
- Đức cha liệu có thể tiếp chuyện một người phạm tội giết con đẻ của mình không ?
Câu hỏi có vẻ khiêu khích đó làm cho Mông-ta-ne-li giật mình, rúm người lại như bị một cơn gió lạnh.
Ông ta trịnh trọng trả lời :
- Dù cho ông bạn đã phạm tội gì, Đức chúa lời cũng không cho phép tôi buộc tội ông. Trước mặt Chúa, tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và lòng chính trực của chúng ta cũng chỉ là một giẻ rách bẩn thỉu mà thôi. Nếu ông bạn đến cùng tôi thì tôi sẽ chịu lấy ông bạn như tôi hiện đang cầu nguyện Đức chúa lời chịu lấy tôi trong ngày ra khỏi thế gian.
Với một cử chỉ tha thiết đột nhiên, Ruồi trâu giơ hai tay ra phía trước nói :
- Đức Hồng y hãy nghe tôi ! Và bà con bổn đạo cũng hãy nghe tôi ! Nếu một kẻ đã giết chính đứa con đẻ duy nhất của mình, nếu một kẻ đã dùng sự gian dối mà lừa gạt để đưa con mình vào cạm bẫy thì liệu kẻ đó có hy vọng gì sống ở trên trái đất hoặc nơi thiên đàng được chăng ? Tôi đã nhận tội với Đức chúa lời và người thế gian. Tôi đã từng chịu phạt của người đời và người đời đã để cho tôi được yên lành. Nhưng đến bao giờ Chúa mới phán truyền cho tôi rằng như thế đã đủ rồi ? Ai có thể làm phúc cho tôi để linh hồn tôi khỏi bị Chúa nguyền rủa? Ơn tha thứ nào rửa sạch được tội lỗi của tôi ?
Một phút im lặng chết chóc nặng nề trôi qua. Mọi người nhìn Mông-ta-ne-li và thấy cây thánh giá phập phồng trên ngực ông ta. Cuối cùng Mông-ta-ne-li ngước mắt nhìn lên, tay run rẩy làm phép cho mọi người .
- Đức Chúa lời lòng lành vô cùng ! Ông bạn hãy đặt gánh nặng linh hồn của mình trước bàn thờ Chúa vì có lời Kinh thánh rằng :"Không nên chối bỏ một linh hồn sa ngã đã biết ăn năn tội lỗi".
Hồng y giáo chủ quay đi và bước dọc theo sân chợ. Cứ đi một lúc ông ta lại dừng lại nói chuyện với dân chúng hoặc bế trẻ em lên tay.
Ngay chiều hôm đó, theo đúng lời chỉ dẫn ghi trong giấy gói ảnh. Ruồi trâu đến nơi gặp gỡ đã định. Đó là nhà một người y sĩ địa phương, Đảng viên tích cực của nhóm "Thắt lưng đỏ". Số lớn những người công tác bí mật đều đã tập hợp đông đủ. Khi Ruồi trâu tới, mọi người hân hoan đón chào anh làm cho anh càng thấy rõ uy tín của mình như một lãnh tụ.
Người y sĩ nói :
- Chúng tôi rất vui mừng lại được gặp anh. Nhưng khi nào anh rời khỏi chốn này thì chúng tôi lại càng vui hơn vì việc anh tới đây thật là mạo hiểm hết sức. Tôi phản đối kế hoạch đó. Anh có dám chắc sáng nay anh chưa bị lọt vào mắt một con chuột cảnh sát nào ở chợ không ?
- Tất nhiên họ trông... trông thấy, nhưng họ không nhận ra. Đô-mi-ni-ki-nô bố trí mọi việc rất... rất tài tình. Anh ấy đâu? Sao không thấy anh ấy ở đây ?
- Anh ấy sắp đến bây giờ. Thế nghĩa là trôi chảy cả chứ ? Hồng y giáo chủ ban phép lành cho anh chưa ?
Tiếng Đô-mi-ni-ki-nô bỗng vang lên ngoài cửa :
- Ban phép lành à ? Cái đó có nghĩa lí gì đâu ! Ri-va-ret, anh thật nhiều phép lạ hơn cả mình Thánh trong lễ Nôen. Anh còn có tài gì nữa không ?
Ruồi trâu uể oải hỏi :
- Thế nghĩa là thế nào ?
Ruồi trâu ngả mình trên đi văng hút xì gà. Anh còn bận đồ khách thập phương, nhưng bộ râu giả đã bỏ sang bên cạnh.
- Tôi không ngờ anh lại là một kịch sĩ có tài như vậy. Trong đời tôi chưa hề thấy ai đóng kịch giỏi đến thế ! Anh làm cho ngài Hồng y cảm động đến rớt nước mắt.
- RI-va-rét, chuyện thế nào, anh kể cho chúng tôi nghe với !
Ruồi trâu nhún vai. Tối hôm ấy anh rất ít nói . Mọi người thấy hỏi mãi cũng nhàm bèn quay sang bắt chuyện với Đô-mi-ni-ki-nô. Khi nghe Đô-mi-ni-ki-nô kể lại quang cảnh ban sáng trên sân chợ thì một công nhân trẻ tuổi không hoà theo tiếng cười chung. Anh nói :
- Anh đóng khéo thật đấy, nhưng làm như thế có lợi ích gì không ?
Ruồi trâu trả lời :
- Có lợi nhiều chứ. Bây giờ thì tôi có thể đi lại tự do, muốn làm gì tuỳ ý và không bị kẻ nào ngờ vực cả, dù một nam phụ não ấu nào. Ngày mai khắp thành phố sẽ biết câu chuyện xảy ra hôm nay. Và mỗi khi gặp tôi mật thám sẽ nghĩ rằng : "À, đấy là lão già điên ĐI-ê-gô đã ăn năn tội lỗi ở sân chợ hôm nào !" Như thế có lợi lắm chứ !
- Tất nhiên là như thế. Nhưng dù sao làm khác một chút thì cũng vẫn hơn. Không cần lừa dối Hồng y giáo chủ. Ông ta là người tốt chơi khăm ông ta làm gì .
Ruồi trâu uể oải tán thành :
- Tôi cũng nghĩ ông ta là người đứng đắn
Đô-mi-ni-ki-nô nói :
- Xan-đơ-rô, cậu nói vớ vẩn lắm ! Ở đây chúng ta chẳng có ai cần đền Hồng y giáo chủ làm gì. Nếu Mông-ta-ne-li nhậm một chức tại La mã như người ta từng đề nghị với ngài thì đố Ri-va-ret lừa được ngài.
- Ông ta không nhậm chức như thế chỉ là vì ông ta không muốn bỏ công việc ở đay.
- Cũng có thể là tại ông ta không muốn bị tay sai của Lan-bơ-ru-tri-ni đầu độc. Bọn chúng phản đối ông ta về một số vấn đề, điều đó rõ như ban ngày. Nếu một Hồng y giáo chủ, nhất là một tay có uy tính như Mông-ta-ne-li lại cứ thích ở nơi khỉ ho cò gáy thì có ngày chúng ta cũng có thể đoán biết tại sao chứ, phải không Ri-va-ret ?
Ruồi trâu phà ra những cuộn khói tròn. Anh ngẩng đầu nhìn theo nhưng cuộn khói đó và nói :
- Có lẽ tại trái tim ông ta đã bị tan vỡ mà ông ta đang ăn năn tội lỗi đấy. Thôi, ta bàn việc đi !
Những người tham dự cuộc họp bắt đầu thảo luận tỉ mỉ các kế hoạch chuyên chở và cất giấu vũ khí. Ruồi trâu chăm chú nghe. Trong khi mọi người tranh luận nếu có những tin không chính xác hoặc những phương án đề ra có chỗ nào hớ hênh thì anh lại đưa ra những nhận xét sắc bén. Khi mọi người phát biểu ý kiến xong Ruồi trâu liền đưa ra một số đề nghị cụ thể. Phần lớn đề nghị ấy được thông qua không cần tranh cãi. Thế là buổi họp kết thúc. Hội nghị quyết định chừng nào Ruồi trâu chưa yên ổn về tới Tô-scan thì tránh họp ban đêm để cảnh sát khỏi chú ý.
Chưng hơn mười giờ, mọi người giải tán. Chỉ còn một tiểu ban ba người gồm người y sĩ, Ruồi trâu và Đô-mi-ni-ki-nô ở lại để bàn nốt một vài vấn đề đặc biệt.
Một cuộc tranh luận sôi nổi lại kéo dài. Cuối cùng Đô-mi-ni-ki-nô nhìn đồng hồ nói :
- Mười một giờ rưỡi rồi. Giải tán đi thôi, kẻo lại vấp phải lính tuần tra ban đêm.
- Mấy giờ đội tuần tra đi tua ?
- Độ mười hai giờ. Tôi định về tới nhà trước khi lính tuần tra đến. Thôi, chào Giooc đa-ni nhé!...
Có về cùng không, Ri-va-ret ?
- Không, đi từng người một an toàn hơn. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu ?
- Ở Bô-lô-ne-dơ, tôi cũng chưa biết đến đó nên trá hình thế nào . Nhưng mật hiệu anh đã rõ rồi. Sáng mai anh đi à ?
Ruồi trâu ra trước gương đeo râu tóc giả .
- Sáng mai tôi sẽ nhập vào đám khách thập phương. Đến ngày kia, tôi sẽ giả ốm nằm trong lều người chăn cừu. Ở đó tôi vượt thẳng qua núi và sẽ đến Bô-lô-ne-dơ trước anh. Chào anh !
Khi Ruồi trâu bước tới cửa vựa thóc thì đồng hồ gác chuông nhà thờ điểm mười hai tiếng. Vựa thóc bỏ không này nay đã trở thành nơi ngủ trọ của khách thập phương. Những thân hình kỳ dị nằm ngổn ngang khắp sàn nhà, tiếng ngáy vang lên tứ phía. Không khí ở đây hết sức ngột ngạt, nặng nề. Ruồi trâu giật mình ghê rợn, lùi lại. Nằm đây thì không tài nào ngủ được ! Tốt nhất là đi lang thang vài giờ rồi sẽ sà vào một mái lều hoặc một đống cỏ khô nào sạch sẽ và yên tĩnh hơn.
Đêm hôm ấy trời thật là đẹp, trăng tròn, toả ánh sáng rực rỡ trên bầu trời tím sẫm. Ruồi trâu đi lang thang qua các phố, và cay đắng nhớ lại cảnh ban sáng. Bây giờ anh thấy hơi tiếc tại sao đồng ý gặp Đô-mi-ni-ki-nô ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Nếu nói ngay từ đầu rằng chỗ đó là nguy hiểm và chọn chỗ khác thì cả anh lẫn Mông-ta-ne-li đều thoát khỏi trò hề ghê tởm và kỳ cục ấy.
"Cha" khác trước nhiều quá ! Nhưng giọng nói vẫn như xưa, như hồi cha gọi mình là "Carino"...
Bỗng một chiếc đèn ló của lính tuần tra hiện ra đầu phố trước mặt. Ruồi trâu rẽ vào một ngõ hẻm ngoắt ngoéo. Đi được mấy bước thì tới sân nhà thờ, mé bên trái lâu đài giám mục. Ánh trăng tràn ngập trên sân nhà thờ trống trải. Ruồi trâu nhận thấy cửa ngách nhà thờ còn hé mở. CHắc người coi nhà thờ quên không đóng cửa . Đêm khuya thế này còn có ai vào đây làm gì nữa ! Bây giờ vào đó mà lăn kềnh trên ghế có lẽ tốt hơn là trở về vựa thóc ngột ngạt ấy. Đến sáng thì sẽ chuồn ra khỏi nhà thờ trước khi người coi nhà thờ tới. Và dù có bắt gặp anh chắc ông ta cũng chỉ nghĩ rằng lão già Đi-ê-gô điên rồ lại cầu nguyện ở xó xỉnh nào trong nhà thờ và đã bị nhốt suốt đêm qua.
Ruồi trâu đứng trước cửa nghe ngóng giây lát rồi khập khiễng rón rén bước vào, cố gắng hết sức yên lặng. Ánh trăng tràn vào cửa sổ, in thành vệt rộng trên sàn đá hoa. Nhất là ngôi điện thờ phía trong nhà thờ thì còn rõ lắm, rõ như ban ngày. Dưới bàn thờ, Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li đang quỳ gối một mình, đầu trần, chắp tay cầu khấn.
Ruồi trâu lần vào bóng tối. Có nên rời ngay khỏi chốn này khi Mông-ta-ne-li chưa kịp trông thấy không ? Làm như thế là sáng suốt nhất và có lẽ nhân đạo nhất đấy.
Nhưng nếu bước lại gần một chút thôi thì cũng đã sao đâu ? Lại gần một chút và nhìn mặt cha một lần nữa; bây giờ chung quanh có ai khác đâu mà phải giở trò đóng kịch xấu xa như ban sáng nữa. Có lẽ đây là dịp cuối cùng. Cũng không cần để cha nhìn thấy anh. Bước lại gần nào có ai hay, nhìn cha một lần này nữa thôi rồi ta trở về với công việc.
Nép mình trong bóng tối sau hàng cột, Ruồi trâu nhẹ nhàng bước tới chấn song nhà thờ. Anh ngừng lại giây lát bên cửa ngách, cách bàn thờ không xa. Bóng tối từ trên ghế Hồng y giáo chủ toả xuống quá rộng, trùm khắp người anh. Ruồi trâu ngồi trong bóng tối, nín thở :
- Con ơi, Lạy Chúa ! Khốn khổ cho con tôi !
Trong tiếng thì thầm dứt đoạn ấy chứa biết bao nhiêu là tuyệt vọng làm cho Ruồi trâu bất giác rùng mình. Tiếp theo là tiếng nức nở âm thầm não ruột, không nước mắt. Mông-ta-ne-li bóp chặt hai tay, như một người thể chất quá đau đớn.
Ruồi trâu không ngờ cha đau khổ đến thế. Nhiều lần anh tự tin một cách cay đắng mà nhủ mình rằng "Cần gì phải lo chuyện đó ! Vết thương của ông ta đã lành từ lâu rồi !". Và giờ đây sau bao năm trường, vết thương ấy vẫn còn sờ sờ ra đó và nó vẫn đang rỉ máu. Chữa vết thương ấy bây giờ dễ biết chừng nào ! Chỉ cần giơ tay lên, bước lại gần mà nói" Thưa cha, con đây !"
Nhưng Giê-ma còn cả một mớ tóc bạc. Trời, ước gì anh có thể tha thứ được ! Ước gì anh có thể xoá nhoà tất cả dĩ vãng, lãng quên hết người thuỷ thủ say khướt, cái đồn điền mía và gánh xiếc rong kia ! Đau khổ nào sánh được đau khổ này ! Muốn tha thứ đấy, cố tha thứ đấy, nhưng lại biết rằng tha thứ cũng chẳng ích gì, anh không dám và không thể nào tha thứ được.
Cuối cùng, Mông-ta-ne-li đứng dậy, làm dấu thánh giá và bước ra khỏi bàn thờ. Ruồi trâu nép hẳn vào bóng tối, sợ rằng Hồng y giáo chủ sẽ trông thấy mình nghe thấy tiếng đập của trái tim mình. Bỗng anh nhẹ nhàng thở hắt ra : Mông-ta-ne-li chỉ đi sát ngay bên cạnh, tà áo tím chạm vào má anh nhưng Mông-ta-ne-li không hề trong thấy anh.
Không trông thấy...Ồ , tại sao thế ! Tại sao thế ! Đó là cơ hội cuối cùng, là khoảnh khắc quý giá mà sao ta không biết nắm lấy. Ruồi trâu nhỏm dậy, tiến lên, bước ra chỗ sáng :
- Cha !
Tiếng nói của chính mình vang lên rồi lắng dần dưới những vòm nhà thờ cao vút làm cho Ruồi trâu kinh hoàng vô hạn.
Anh lùi lại vào bóng tối. Mông-ta-ne-li dừng bước bên cột, đứng im nghe ngóng, trố mắt nhìn khủng khiếp và ghê rợn. Im lặng kéo dài đến nỗi Ruồi trâu không thể lường được : có lẽ chỉ trong nháy mắt thôi mà sao dài vô tận. Nhưng rồi anh bừng tỉnh lại. Mông-ta-ne-li loạng choạng như muốn ngã, đôi môi chỉ run lên mấp máy.
Cuối cùng một tiếng thều thào bật ra :
- Ác-tơ... phải, nước sâu lắm...
Ruồi trâu tiến lên :
- Đức Hồng y tha lỗi, con tưởng là một vị giáo sĩ ở nhà thờ này.
- À, ông khách thập phương đấy phải không ?
Mông-ta-ne-li đã trấn tĩnh. Nhưng nhìn thấy ánh sáng ngọc xanh vẫn không ngừng lóng lánh trên tay. Ruồi trâu biết rằng ông ta vẫn còn run.
- Cần gì đây, ông bạn ? Đêm khuya rồi, nhà thờ đã đóng cửa từ lâu.
- Đức Hồng y lượng thứ cho. Cửa còn mở nên con định vào nguyện ngắm. Thấy Người đang cầm trí nguyện con tưởng là một vị giáo sĩ nào và định xin Người làm phép ảnh này cho.
Ruồi trâu giơ chiếc thánh giá bằng thiếc nhỏ xíu mà sáng nay Đô-mi-ni-ki-nô đã bán cho anh. Mông-ta-ne-li cầm lấy, bước vào đặt lên bàn thờ trong chốc lát.
Ông nói :
- Hỡi con, con hãy nhận lấy và nguyện cầu cho linh hồn con được yên lành , vì Chúa chúng ta nhân từ và lòng lành vô cùng. Con hãy dến La mã, xin Đức Thánh cha là sứ thần của Đức Chúa ban phước lành tha vạ cho con. Nguyện cho con được bằng an.
Ruồi trâu cúi đầu nhận lễ, rồi từ từ bước ra. Mông-ta-ne-li đứng cạnh bàn thờ, một tay nắm lấy chấn song nói theo :
- Khoan hãy đi. Khi nào ông bạn chịu Mình Thánh ở La mã thì xin ông bạn hay nguyện cầu cho một trái tim đầy đau thương, một linh hồn nặng chĩu cánh tay của Chúa.
Tiếng nói chứa đầy nước mắt của Hồng y giáo chủ làm cho ý chí quyết tâm của Ruồi trâu có phần xao xuyến. Chỉ suýt nữa thì anh đã tự phản bội mình. Nhưng hình ảnh đám xiếc rong lại hiện ra trong trí anh.
- Con là ai ? Là một thằng hủi, là một kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Liệu Chúa có nghe lời nguyện xin của một kẻ như thế hay không ? Nếu con làm được như đức cha, nếu con có thể hiến dâng cho bàn thờ Chúa một cuộc sống thiêng liêng, một linh hồn trong trắng không gợn chút nhơ nhuốc thầm kín...
Mông-ta-ne-li bỗng ngắt lời :
- Cha chỉ có thể hiến dâng trước bàn thờ Chúa trái tim tan nát này mà thôi.
Vài ngày sau Ruồi trâu lên xe ngựa từ Pis-tôi-a trở về Phơ-lo-răng-xơ. Trước hết anh đi thẳng tới nhà Giê-ma, nhưng không găp. Anh viết giấy để lại hẹn sáng hôm sau sẽ đến và trở về thầm mong Di-ta sẽ không đường đột xông vào phòng làm việc của mình như lần trước. Nếu tối nay anh lại phải nghe một lô những lời trách móc ghen tuông của nàng thì nó sẽ tác động tới thần kinh của anh như tiếng rũa răng ken két của bác sĩ nha khoa vậy.
Người con gái ra mở cửa.
- Chào Bi-an-ca. Hôm nay bà Rê-mi có đến không ?
Bi-an-ca trố mắt nhìn anh :
- Bà Rê-mi ? Bà ấy về rồi hả ông ?
Ruồi trâu cau mày dừng bước trước ngưỡng cửa.
- Chị nói thế nghĩa làm sao ?
- Khi ông đi thì bà ấy lập tức đi theo ngay. Không đem theo đồ đạc gì. Bà ấy cũng không hề báo cho biết là đi đâu.
- Đi theo tôi ? Cách đây hai tuần à ?
- Thưa ông, vâng. Bà ấy bỏ bữa bãi tất cả đồ đạc rồi đi ngay hôm đó. Bà con láng giềng bàn tán rất nhiều về chuyện này.
Ruồi trâu quay đi không nói một lời. Anh vội đảo qua một ngõ hẻm rồi bước nhanh tới nhà Di-ta. Trong phòng, mọi vật đều như cũ. Các quà tặng của anh vẫn ở nguyên các chỗ cũ. Không một bức thư, không một mẩu giấy nhỏ nào của Di-ta.
Bi-an-ca thò đầu vào cửa nói :
- Thưa ông, có một bà cụ đến.
Ruồi trâu quay phắt lại :
- Chị muốn gì ? Tại sao chị cứ bám sát tôi như thế ?
- Có một bà cụ muốn gặp ông.
- Bà ta cần hỏi gì ? Chị nói tôi không...không thể tiếp bà ấy được bây giờ. Tôi bận.
- Dạ thưa ông, từ khi ông đi hầu như chiều nào bà cụ cũng đến và cứ hỏi bao giờ ông về.
- Chị ra hỏi xem bà ta muốn gì... Thôi được, để tôi ra vậy.
Bà cụ đang ngồi ở phòng khách, ăn mặc rất tiều tuỵ mặt ngăm đen và răn rúm như chiếc bị, đầu quấn một chiếc khăn sặc sỡ. Bà đứng dậy tiến về phía anh chăm chú nhìn anh từ đầu đến chân với đôi mắt đen nhánh rồi nói :
- Vậy té ra ông là cái ông khập khiễng ấy à ? Di-ta Rê-ni nhờ tôi báo tin cho ông.
Ruồi trâu mời bà cụ vào phòng làm việc rồi bước theo sau, đóng cửa lại để Bi-an-ca khỏi nghe chuyện :
- Mời cụ ngồi. Cụ là..là ai ?
- Tôi là ai điều đó không quan hệ gì tới ông, tôi đến để nói cho ông biết Di-ta Rê-ni đã bỏ ông để đi với con trai tôi rồi.
- ĐI với con...con trai cụ à ?
- Thưa ông, vâng ! Ông đã vớ được người yêu như cô ta mà không biết đường giữ, để người khác cướp mất thì đó là lỗi ở ông không thể trách ai khác được. Trong mạch máu con tôi là máu chứ không phải sữa loãng . Nó là người Rô-ma (người tsi-gan tự tôn mình là dòng dõi dân tộc Rô-ma).
- À, té ra bà cụ là người tsi-gan ! Thế nghĩa là Di-ta đã trở về với bà con dòng giống của mình rồi ?
Bà cụ nhìn anh , vừa ngạc nhiên vừa khinh bỉ : Những người thiên chúa giáo này lạ thật, đàn ông gì mà người ta mắng cũng không biết đường giận !
- Ông là cái thá gì mà cô ta cứ phải bám lấy ông ? Con gái chúng tôi có đứa hiếu kỳ, có đứa vì tiền tài phải tìm đến hạng người như ông. Nhưng máu mủ Rô-ma bao giờ chẳng trở về với dòng giống Rô-ma.
Ruồi trâu vẫn giữ nét mặt lạnh lùng và bình tĩnh :
- Cô ta đi với cả đoàn hay là chỉ đi với con cụ thôi ?
Bà già cười rộ :
- Ông lại định đuổi theo lôi cô ta về chăng ? Không kịp đâu, ông ạ ! Ông phải tính cho sớm chứ !
- Không, tôi chỉ muốn biết đầu đuôi câu chuyện nếu cụ không muốn nói thì thôi.
Bà cụ nhún vai. Một người nhu nhược đến thế thì còn hoài hơi mắng mỏ làm gì nữa !
- Vâng, thì đầu đuôi như thế này : Ngay hôm ông bỏ Di-ta ra đi thì cô ta gặp con tôi ngoài phố. Di-ta nói chuyện với con tôi bằng tiếng Rô-ma. Mặc dù cô ấy ăn mặc bảnh bao nhưng con tôi cũng nhận ngay ra là người đồng tộc. Di-ta đẹp, nó liền yêu ngay, yêu mê mệt như mọi người đàn ông khác của chúng tôi. Rồi nó đưa Di-ta về nhập bọn. Con bé khốn khổ ấy kể cho chúng tôi nghe mọi nỗi niềm tâm sự. Cô ta khóc nức nở làm cho chúng tôi cứ trông thấy là tan nát cả cõi lòng. Chúng tôi hết sức dỗ dành. Rồi cô ta bỏ hết quần áo diêm dúa, mặc quần áo tsi-gan và thuận lấy con tôi làm chồng. Con tôi nó chẳng bao giờ nói " Tôi không yêu cô" với lại "tôi bận, tôi có việc đâu ". Con gái hơ hớ như thế ở một mình sao được. Còn ông, ông mà cũng là đàn ông à! Con gái xinh như thế, ôm lấy ông mà ông cũng chẳng biết đường hôn...
Ruồi trâu ngắt lời :
- À hình như cụ bảo Di-ta có nhắn tôi điều gì...
- Có, tôi nán lại đi sau chính là để chuyển lời của cô ta cho ông hay. Di-ta nhờ tôi nói rằng cô ta chán ngấy những kẻ tán nhăng tán cuội những kẻ trong mạch máu chẳng có máu mà chỉ có nước lã như các ông rồi. Cô ta trở về với dân tộc mình trở về để sống tự do. Di-ta nói "Tôi là một người đàn bà. Tôi yêu Rivarét nhưng không thể ở lại làm vợ lẽ ông ta được." Di-ta bỏ ông là phải. Con gái Rô-ma bán sắc đẹp lấy chút tiền điều đó chẳng có gì xấu cả. Nếu không thì sắc đẹp nó để làm gì ?Nhưng dù sao con gái Rô-ma cũng chẳng thể nào yêu được dòng giống các ông đâu.
Ruồi trâu đứng dậy :
- Hết rồi chứ ? Vậy thì nhờ cụ nói dùm cô ấy biết cô ấy làm như thế là đúng và tôi xin chúc Di-ta hạnh phúc. Tôi không có gì để nói nữa. Xin chào cụ !
Đợi bà cụ ra, đóng xong cửa vườn, Ruồi trâu mới vào ngồi xuống ghế bành, bưng lấy mặt.
Lại một cái tát nữa! Lẽ nào người ta không để lại cho anh một chút tự hào, tự trọng mà anh vẫn hằng có trong những ngày oanh liệt xưa kia ! Bao nhiêu đau khổ mà một con người có thể chịu đựng thì anh đã chịu cả rồi. Ngay cả trái tim anh cũng đã bị dấn chìm trong bùn và bị giày xéo dưới chân mọi khách qua đường. Tâm hồn anh không còn chỗ nào là không bị đốt cháy thui bởi sự khinh rẻ của người này hoặc sự nhạo báng của người khác. Và giờ đây đến cả cô gái tsi-gan mà anh nhặt được lề đường cũng lại cầm roi quất vào mặt anh !
Tiếng rền rĩ của con chó Sai tan vang lên ngoài phòng, Ruồi trâu đứng dậy mở cửa. Sai-tan nhảy xổ vào lòng chủ vui sướng sủa ầm lên như mọi khi. Nhưng nó hiểu ngay là hôm nay chủ nó không vui nó dúi mõm vào bàn tay không động đậy của Ruồi trâu và nằm phục dưới chân anh.
Một giờ sau, Giê-ma tới thăm Ruồi trâu. Chị gõ cửa nhưng không có tiếng ai thưa. Bi-an-ca nghe chừng ông chủ không muốn ăn cơm, đã lỉnh dang chơi bên nhà bếp bên hàng xóm rồi. Cửa chưa đóng và đèn vẫn chưa tắt ở hành lang. Giê-ma dừng lại vài phút rồi cả quyết bước vào. Chị cần bàn với Ruồi trâu về tin quan trọng mà Bây-li vừa gửi tới.
Giê-ma gõ cửa phòng làm việc và nghe tiếng Ruồi trâu nói :
- Bi-an-ca, chị có thể đi ra. Tôi không cần gì cả.
Giê-ma nhẹ nhàng hé cửa. Trong phòng tối như bưng, nhưng ngọn đèn ở lối đi đã dọi một vệt sáng vào Ruồi trâu. Anh đang ngồi một mình, đầu cúi gục, con chó cuộn ngủ dưới chân.
Giê-ma lên tiếng :
- Tôi đây mà.
Ruồi trâu nhỏm dậy :
- Giê-ma, Giê-ma ! Tôi đang mong chờ Giê-ma !
Giê-ma chưa kịp nói gì thì Ruồi trâu đã quỳ xuống và gục đầu vào lòng chị. Toàn thân anh run lên, trông đáng thương hơn cả nước mắt...
Giê-ma đứng lặng. Chị không thể nào giúp đỡ Ruồi trâu được gì cả, không giúp được một chút nào ! Cái đó mới thật là đau xót hơn cả ! Chị phải đứng bên cạnh Ruồi trâu, bó tay nhìn vẻ mặt đau khổ của anh ... Chị có thể vui lòng chết đi để chia sẻ nỗi đau khổ của Ruồi trâu ! Ồ, nếu có thể cúi xuống, ghì chặt Ruồi trâu vào lòng, lấy thân mình che chở cho Ruồi trâu khỏi mọi tai ương đang đe doạ anh ! Lúc ấy anh sẽ lại là Ac-tơ của chị như cũ và trong lòng chị mặt trời sẽ lại sáng bừng lên, xua tan hết bóng đêm dày đặc.
Không, không ! Có lẽ nào anh ấy lại quên đi như thế được ? Chính chị, chính bàn tay phải của chị đã đẩy anh xuống địa ngục rồi kia mà !
Và Giê-ma đã để cho khoảnh khắc ấy trôi qu. Ruồi trâu vụt đứng dậy ngồi vào bàn, tay bưng lấy mặt, răng cắn chặt như muốn nghiến đứt môi.
Rồi anh ngẩng đầu, giọng nói đã bình tĩnh trở lại :
- Giê-ma tha lỗi, có lẽ tôi đã làm cho Giê-ma phải sửng sốt.
Giê-ma chìa hai tay cho anh :
- Anh thân yêu, chẳng lẽ tình bạn hiện nay của chúng ta không làm cho anh tin Giê-ma được hay sao ? Cứ nói đi anh vì sao anh đau khổ ?
- Đó chỉ là nỗi khổ của riêng tôi, nói ra khiến Giê-ma phải lo lắng mà làm gì.
Hai tay Giê-ma nắm chặt lấy bàn tay run rẩy của Ruồi trâu.
- Anh hãy nghe Giê-ma . Giê-ma không muốn can thiệp vào chuyện mà Giê-ma không có quyền can thiệp. Nhưng anh đã tự ý thổ lộ nỗi lòng với Giê-ma . Vậy còn chút gì chưa nói hết thì xin anh cứ nói ra, tin cậy Giê-ma như một người em gái ! Anh cứ giữ lấy bức màn che trên mặt nếu nó sẽ làm anh dễ chịu hơn, nhưng xin anh hãy bỏ bức màn trong tâm hồn và hãy thương lấy bản thân !
Ruồi trâu càng cúi gục đầu. Anh nói :
- Mong Giê-ma hãy vì tôi mà hết sức nhẫn nại. Sợ rằng tôi chỉ là một người anh không xứng đáng. Nhưng nếu Giê-ma hiểu cho... Mấy ngày qua tôi suýt nữa mất lý trí. Tôi có cảm tưởng sống lại quãng đời ở Nam Mỹ. Ma quỷ như đã nhập vào người tôi và...
Ruồi trâu ngừng lại giữa chừng câu nói :
Giê-ma thủ thỉ :
- Mong anh có thể san sẻ bớt phần đau khổ cho em...
Ruồi trâu gục đầu vào cánh tay Giê-ma " bàn tay của Chúa thật nặng nề!".
__________________________________________________
........................................................................................
- Nhưng tôi không… không thể gặp mặt anh ta ở một nơi trong vùng núi được ư? Brisighella[1] là một địa điểm nguy hiểm đối với tôi.
[1] Brisighella (tiếng Ý).
- Một tấc đất nào ở Romagna bây giờ cũng đều nguy hiểm cho anh cả. Chính lúc này Brisighella lại là nơi an toàn cho anh hơn những nơi khác.
- Tại sao?
- Lát nữa tôi sẽ nói. Anh chớ để cho lão áo vét tông xanh kia trông thấy mặt: hắn là tên nguy hiểm đấy. Vâng, trận bão vừa qua thật khủng khiếp. Tôi chẳng nhớ là mình đã từng thấy vụ nho nào bị thất bát nhiều thế bao giờ.
Ruồi trâu duỗi hai tay lên bàn mà gục hẳn vào, trông như một người kiệt sức vì mệt mỏi hoặc vì đã say mèm. Còn vị khách nguy hiểm mới đến, mặc áo vét tông xanh kia đã đảo mắt nhìn quanh, chỉ thấy có hai người nông dân đang bàn chuyện mùa màng cạnh một bình rượu, với lại một người dân miền núi ngái ngủ gục đầu xuống bàn, - một cảnh thường thấy ở những nơi hẻo lánh như Marradi[2] này. Gã vét tông xanh dường như chắc dạ rằng ở đây nghe ngóng mãi cũng chẳng ăn thua gì, bèn một hơi cạn cốc rượu rồi đủng đỉnh bước ra phòng ngoài.
[2] Marradi (tiếng Ý).
Hắn đứng tựa vào quầy thu tiền, uể oải nói chuyện với chủ quán, chốc chốc lại láo liên liếc qua khung cửa bỏ ngỏ, nhìn về phía ba người ngồi quanh chiếc bàn. Hai người nông dân vẫn cứ nghiễm nhiên nhắm rượu, bàn chuyện thời tiết bằng tiếng địa phương; còn Ruồi trâu thì đã ngáy vang như một kẻ vô tư lự.
Cuối cùng tên mật thám như chắc mẩm rằng trong quán rượu này chẳng có gì đáng để hắn mất thời giờ hơn nữa. Hắn trả tiền rượu, lừ đừ ra khỏi quán, rồi đủng đỉnh bước theo đường phố hẹp. Ruồi trâu cất mình dậy, ngáp dài, vươn vai và ngái ngủ đưa ống tay áo khoác bằng vải thô lên dụi mắt.
- Đóng trò kiểu này cũng khá căng đấy, - Nói đoạn anh rút trong túi ra một con dao díp, cắt lấy một khoanh bánh mì đen trên bàn, - Gần đây chúng có quấy nhiễu các anh lắm không, Michele[3]?
[3] Michele (tiếng Ý): Đọc là Mi-kê-lê.
- Chúng quấy còn tệ hơn cả muỗi tháng tám, không được yên lấy một phút nào đâu. Dù đi đâu cũng có mật thám bám theo suốt. Ngay cả trên núi, trước chúng thường ngại mò mặt đến, nhưng nay chúng đã đến từng đàn ba bốn đứa một… Phải không nhỉ, Gino[4]? Chính vì thế chúng tôi bố trí để anh gặp Domenichino[5] trong thành phố.
[4] Gino (tiếng Ý).
[5] Domenichino (tiếng Ý): Đọc là Đô-mê-ni-ki-nô.
- Phải, nhưng tại sao lại Brisighella chứ? Thành phố biên giới bao giờ chẳng đầy mật thám?
- Chính lúc này Brisighella là địa điểm chủ chốt. Các khách hành hương từ mọi nơi trong nước đều nườm nượp kéo đến đấy cả.
- Nhưng ở đó không tiện đường đi đâu cả.
- Nó ở cách đường đi Roma không xa lắm, nên nhiều khách hành hương Lễ Phục sinh đều vòng qua đấy để dự Thánh Lễ[6].
[6] Nguyên văn là to hear Mass (nghe Thánh Lễ) theo cách nói xưa trước năm 1983.
- Tôi không… không hiểu ở Brisighella có cái gì đặc biệt nhỉ.
- Có Hồng y giáo chủ! Anh có nhớ là ông ta đã đến Florence giảng đạo hồi tháng mười hai[7] năm ngoái không? Chính là Hồng y giáo chủ Montanelli ấy đấy. Nghe nói ông ta đã từng gây chấn động lớn trong dư luận.
[7] Nguyên bản tiếng Anh như vậy (last December), mặc dù ở Chương IV (phần II) nói là tháng mười (October). Bản dịch tiếng Nga của Liên Xô sửa lại là
tháng mười
. Bản dịch tiếng Trung Quốc vẫn theo nguyên bản tiếng Anh.
- Có thể thế. Nào tôi có đi nghe giảng đạo đâu cơ chứ.
- Vậy, anh biết không, thiên hạ người ta coi ông ta như ông thánh ấy.
- Ông ta làm thế nào được nổi tiếng thế?
- Tôi chả biết. Tôi cho có lẽ vì ông ta lĩnh được bao nhiêu thì đem bố thí cả, còn riêng ông ta chỉ sống như một cha xứ[8],với bốn hoặc năm trăm đồng scudo hàng năm thôi.
[8] Tức linh mục coi giáo xứ (a parish priest), hàng giáo phẩm thấp nhất.
Người tên là Gino cũng góp chuyện:
- A! Còn hơn thế nữa chứ! Không phải ông ấy chỉ bố thí tiền, mà ông còn suốt đời chăm sóc người nghèo, chăm lo cho người ốm đau được chữa chạy chu đáo, từ sáng đến tận tối lắng nghe dân chúng kêu ca và than vãn[4], Michele, tôi cũng chẳng khoái cha cố hơn anh đâu, nhưng Đức ông Montanelli quả là không giống các vị Hồng y khác.
Michele nói:
- Ồ! Tôi dám quả quyết rằng ông ta là một người gàn dở chứ không phải là tay bịp bợm. Nhưng dù sao thiên hạ cũng đang mê mẩn lên vì ông ta, và mới đây nhất các khách hành hương lại có thói mới lạ là tạt vào đấy để được ông ta ban phước lành. Domenichino định giả làm một người bán hàng rong, mang một giỏ thánh giá và tràng hạt Mân Côi[9] loại rẻ tiền đến bán. Thiên hạ người ta sẵng sàng mua những của đó để xin Hồng y giáo chủ chạm tay vào, rồi mang về đeo cho trẻ con lấy khước[10].
[9] Tức tràng (chuỗi) hạt của Công giáo.
[10] Tức trừ tà, tránh được ma quỷ ( nguyên văn tiếng Anh: to keep off the evil eye).
- Khoan đã. Vậy tôi đi bằng cách nào? Giả làm khách hành hương ư? Tôi thấy bộ quần áo cải trang hiện giờ là rất… rất thích hợp với tôi, nhưng nếu tôi cứ đóng vai như ở đây mà dẫn xác đến Brisighella thì không... không ăn thua. Vì nếu bắt được tôi, chúng sẽ có đủ chứng... chứng cớ để bắt các anh.
- Anh sẽ chẳng bị bắt đâu. Chúng tôi đã lo liệu cho anh một bộ giả trang tuyệt vời, với cả hộ chiếu và mọi thứ đủ lệ bộ.
- Giả trang gì vậy?
- Giả trang làm một khách hành hương già người Tây Ban Nha, một tên cướp ở vùng Sierras[11] nay đang hối cải. Năm ngoái lão già này đi đến Ancona[12] thì ngã bệnh, được một anh bạn của chúng tôi thương tình cho lên tàu buôn đưa đến tận Venezia, nơi lão ta có nhiều bạn bè. Lão đã để lại cho chúng tôi mọi giấy tờ để tỏ lòng biết ơn. Chính những giấy tờ này sẽ rất đắc dụng cho anh.
[11] Sierras (tiếng Tây Ban Nha; Sierra vốn nghĩa là
lưỡi cưa
và để chỉ một dãy núi): Vùng núi đá lởm chởm ở Tây Ban Nha, thường làm sào huyệt cho các băng cướp táo bạo.
[12] Ancona (tiếng Ý): Một hải cảng thuộc lãnh địa Giáo hoàng trên bờ biển Ađơriatích, phía đông Đại Công quốc Tôxcana.
- Một kẻ... kẻ cướp đang hối cải ư? Thế đối với cảnh... cảnh sát thì sao?
- Ồ, cũng ổn cả rồi. Lão già đã mãn hạn tù khổ sai từ mấy năm trước, sau đó chỉ đi viếng Jerusalem[13] và đủ mọi nơi khác để cứu rỗi linh hồn từ bấy đến nay. Lão ta đã giết mất con trai mình vì tưởng lầm là kẻ khác, nên trong lúc lương tâm cắn rứt đã tự đến nộp mình cho cảnh sát.
[13] Jerusalem: Thủ phủ của xứ Judea xưa, nơi Đức Giêsu đã đến giảng đạo, sau được coi là đất thánh (thánh địa) của đạo Kitô. Nhưng sau này cũng được coi là đất thánh của cả đạo Do Thái và đạo Hồi.
- Lão ta già lắm không?
- Vâng, già lắm. Nhưng cứ đeo giả râu tóc bạc vào là ổn thôi. Còn mọi đặc điểm hình dạng khác của lão ta thì anh giống như hệt. Lão vốn là một cựu chiến binh, chân khập khiễng mà ngang mặt cũng có vết sẹo gươm chém như anh, và rồi lão cũng lại là người Tây Ban Nha nữa, anh thấy không, nếu gặp các khách hành hương từ Tây Ban Nha nào thì anh cũng có thể nói chuyện tốt ấy chứ.
- Vậy tôi phải gặp Domenichino ở đâu?
- Anh sẽ nhập vào một đoạn khách thập phương ở một ngã tư đường mà chúng tôi sẽ chỉ cho anh trên bản đồ, và anh sẽ bảo với họ rằng anh bị lạc đường trong vùng núi. Rồi khi đến thị trấn, anh cứ đi theo đám người còn lại mà đến khu họp chợ trước cửa lâu đài của Hồng y giáo chủ.
- Ồ, thế nghĩa là mặc... mặc dù ông thánh, ông ta vẫn xoay sở để ngự trong lâu... lâu đài?
- Ông ta chỉ ở một bên chái, còn lại ông cho làm nhà thương tất. Thế nhé, anh cứ đợi miết ở đấy cho tới khi ông ta bước ra làm chuyện ban phép lành, thì Domenichino cũng sẽ mang giỏ đến mà hỏi:
Thưa bố, bố có phải là khách hành hương không?
. Anh sẽ trả lời:
Lão là kẻ có tội rất khốn khổ!
Thế rồi khi anh ta đặt giỏ xuống mà đưa ống tay áo lên lau mặt, thì anh đưa cho anh ta sáu đồng scudo để mua một tràng hạt Mân Côi.
- Thế rồi dĩ nhiên là anh ta sẽ xếp đặt ngay địa điểm gặp nhau để bàn việc chứ gì?
- Phải, trong khi dân chúng đang há mồm dồn mắt cả về phía Montanelli, anh ta sẽ có thừa thời giờ để báo cho anh biết địa điểm gặp mặt. Kế hoạch của chúng tôi như thế đấy, nhưng nếu anh không tán thành, chúng tôi có thể báo cho Domenichino biết và bố trí theo cách khác.
- Không, kế hoạch ấy được đấy. Chỉ cốt sao cho bộ râu tóc giả được giống như thật.
- Thưa bố, bố có phải là khách hành hương không?
Lúc ấy Ruồi trâu đang ngồi ở bậc thềm lâu đài Tòa giám mục. Anh lé mắt nhìn lên qua những lọn tóc bạc bù xù, giả giọng khàn khàn, run run lại lơ lớ nặng theo tiếng ngoại quốc, để trả lời theo đúng mật khẩu. Domenichino trật quai da ra khỏi vai, đặt giỏ tràng hạt và thánh giá[14] xuống bậc thềm. Đám đông những người nông dân và khách thập phương ngồi kín các bậc thềm và đi đứng đầy khu họp chợ đều không ai để ý đến họ cả, nhưng hai người vẫn cứ thận trọng, thỉnh thoảng mới nói với nhau vài lời. Domenichino thì nói tiếng địa phương, còn Ruồi trâu thì nói tiếng Ý giả cầy pha lẫn tiếng Tây Ban Nha
[14] Nguyên văn tiếng Anh là
basket of pious gewgaws
, tức
giỏ đựng các mỹ nghệ phẩm (các đồ dùng xinh xắn) cho người ngoan đạo
.
Bỗng những người đứng ở cửa lâu đài kêu lên:
- Đức Hồng y kìa! Đức Hồng y ra kìa! Đứng tránh ra! Đức Hồng y đến đấy!
Cả hai người đều đứng dậy. Domenichino nói:
- Đây, bố ơi!
Đoạn anh dúi vào tay Ruồi trâu một bức tượng thánh nhỏ gói giấy.
- Bố cầm lấy cả gói này nữa, và khi đến được Roma, xin bố cầu nguyện cho con.
Ruồi trâu nhét bức tượng thánh vào ngực rồi quay lại nhìn nhân vật mình mặc áo choàng tím mùa Chay[15] đầu đội mũ sọ[16] đỏ tía, đang đứng trên bậc cao nhất dang rộng hai tay để ban phước cho dân chúng.
[15]The violet Lenten robe (tiếng Anh) – Lent (mùa chay) là gồm 40 ngày cầu nguyện và sám hối trước lễ Phục Sinh (Easter).
[16] Cap (tiếng Anh): Mũ nhỏ trên đỉnh đầu Giáo hoàng, Hồng y giáo chủ và Giám mục.
Montanelli từ từ bước xuống các bậc thềm. Mọi người xúm xít chung quanh để được hôn tay ông. Nhiều người quỳ xuống, ghé môi hôn tà áo chùng[17] của ông khi ông đi qua.
[17] Áo chùng (cassock) ở trong áo choàng (robe).
- Các con, cha cầu cho các con được bằng an!
Nghe giọng nói trong như bạc ấy, Ruồi trâu bỗng cúi gục đầu làm cho những mớ tóc bạc xõa xuống mặt. Nhìn chiếc gậy hành hương run rẩy trong tay Ruồi trâu, Domenichino tấm tắc khen thầm:
Tay này đóng kịch cừ thật!
Một người đàn bà đứng gần đấy cuối xuống bồng đứa con lên khỏi bậc thềm, rồi nói:
- Cecco[18], lại đây con! Đức Hồng y sẽ ban phước lành cho con như Chúa Giêsu ngày xưa đã ban phước lành cho các trẻ em.
[18] Cecco (tiếng Ý), đọc là Trêch-cô.
Ruồi trâu tiến lên một bước rồi đứng sững lại. Ôi, sao khổ sở vậy! Các khách thập phương và những người dân sơn cước, tất cả những người ngoài cuộc ấy đều có thể tiến lại gần cha và nói chuyện với cha, và cha sẽ đặt tay lên mái tóc những trẻ nhỏ, con cái của họ. Và có lẽ cha sẽ gọi chú bé nông dân kia là carino như cha đã từng quen gọi...
Ruồi trâu lại ngồi sụp xuống bậc thềm và ngoảnh mặt đi để tránh phải thấy cảnh tượng đó. Phải chi anh có thể chui vào một xó xỉnh nào, bịt chặt tai lại để không nghe thấy gì nữa cả! Quả vậy, đây là việc mà bất kỳ con người nào cũng không sao chịu đựng nổi, - ở ngay gần kề, gần kề đến nỗi anh chỉ việc chìa tay ra là có thể chạm vào bàn tay thân yêu đó.
Một giọng dịu dàng cất lên:
- Ông bạn ơi, có vào nơi tạm trú không? Ta e rằng ông thấm lạnh rồi.
Trái tim Ruồi trâu ngừng bặt. Trong giây lát anh không còn nhận biết được gì cả, chỉ thấy máu trào lên dồn ép mạnh mẽ và bệnh hoạn tưởng chừng xé tan lồng ngực, rồi máu lại bật trở lại rạo rực và nóng ran khắp toàn thân, thế rồi anh ngước mắt lên. Và anh thấy cặp mắt nghiêm nghị và sâu thẳm của người đang đứng cúi nhìn anh bỗng càng trở nên hiền dịu với một niềm trắc ẩn huyền diệu khi nom thấy mặt anh.
Quay lại phía đám đông, Montanelli bảo:
- Các bạn đứng lui ra một chút, ta muốn nói chuyện với ông cụ này.
Dân chúng từ từ giãn ra, ghé tai nhau xì xào, còn Ruồi trâu đành ngồi bất động, hai hàm răng siết chặt, mặt cúi gằm, và cảm thấy bàn tay Montanelli đang êm ái đặt lên vai mình.
- Ông bạn đã có niềm đau khổ lớn? Tôi có thể giúp ông được chăng?
Ruồi trâu im lặng, lắc đầu.
- Ông có phải là khách hành hương không?
- Tôi là kẻ có tội rất khốn khổ.
Câu hỏi của Montanelli ngẫu nhiên trùng khớp với mật khẩu làm cho Ruồi trâu dường như sắp chết đuối vớ được cọc nên đã trả lời như một cái máy. Bàn tay dịu dàng áp trên vai anh, nay đã như cháy bỏng lên, khiến anh bắt đầu run rẩy
Hồng y giáo chủ lại càng cúi sát xuống mặt anh:
- Có lẽ ông bạn muốn nói chuyện riêng với tôi chăng? Nếu tôi có thể giúp ông bạn được gì...
Lần đầu tiên Ruồi trâu vững vàng nhìn thẳng vào mắt Montanelli, - anh đã lấy lại được tự chủ. Anh nói:
- Vô ích thôi, hết hy vọng rồi.
Một quan chức cảnh sát bước ra khỏi đám đông, tiến đến.
- Xin Đức Hồng y tha tội cho sự đường đột của con. Con thiết nghĩ ông già này tâm thần không thật tỉnh táo đâu ạ. Ông ta hoàn toàn vô hại và có đủ các giấy tờ hợp lệ nên chúng con vẫn để cho ông ấy yên, không can thiệp gì. Ông ta phạm trọng tội và đã bị hình phạt khổ sai, hiện giờ đang chịu phép đền tội[19] đấy ạ.
[19] Is now doing penance (tiếng Anh): Penance trong Công giáo là bí tích Giải tội hoặc Cáo giải, bao gồm một loạt thủ tục nghiêm ngặt mà hối nhân (penitent) phải sám hối, xưng tội. được tha tội và cuối cùng là phải làm những việc nào đó để đền tội. Ở đây ông già (do Ruồi trâu đóng vai) phải đi hành hương để đền tội.
Ruồi trâu chậm chạp lắc đẩu, nhắc lại:
- Phạm trọng tội đấy ạ.
- Cảm ơn ông đại úy. Xin ông đứng tránh sang bên một chút. Ông bạn của tôi ơi, người nào đã biết thành tâm sám hối thì không có gì là hết hy vọng cả đâu. Chiều nay ông bạn đến cùng tôi nói chuyện được không?
- Liệu Đức Hồng y có thể tiếp chuyện một người phạm tội giết con trai ruột của mình không?
Câu hỏi hầu như mang giọng thách thức đó khiến Montanelli rúm người lại và run rẩy như bị một cơn gió lạnh.
Ông trịnh trọng trả lời:
- Dù cho ông bạn có làm chuyện gì, Đức Chúa Trời cũng không cho phép tôi được kết tội ông. Trước mặt Chúa, tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và đức công chính[20] của chúng ta cũng chỉ như những mớ giẻ rách nhơ bẩn mà thôi. Nếu ông bạn đến cùng tôi thì tôi sẽ chịu lấy[21] ông bạn như tôi hiện đang hằng xin Đức Chúa Trời chịu lấy tôi trong một ngày nào đó.
[20] Righteouness (tiếng Anh): Cũng là lòng chính trực, ngay thẳng. Từ Công giáo là đức công chính.
[21] Đây là cách nói của Công giáo: đến cùng tôi (đến với tôi), chịu lấy tôi (chịu nhận tội).
Ruồi trâu giơ hai tay ra phía trước. trong một tư thế sôi nổi bột phát. Anh nói:
- Hãy nghe tôi! Và tất cả các bà con bổn đạo[22] cũng hãy nghe tôi! Nếu một kẻ đã giết chính đứa con trai duy nhất của mình, đã giết đứa con nó tin yêu mình và là đứa con máu mủ ruột rà của mình, nếu một kẻ đã dùng sự gian dối và lừa gạt để đưa con mình vào cạm bẫy chết người, thì liệu kẻ đó còn có hy vọng gì ở nơi trần thế hoặc lên cõi thiên đàng được chăng? Tôi đã thú nhận tội lỗi trước Đức Chúa Trời và với người thế gian. Tôi đã từng chịu hình phạt của người đời và người đời đã thả tôi ra. Nhưng đến bao giờ Chúa mới phán truyền cho tôi rằng:
Thế là đủ rồi!
? Phép lành nào giải thoát được cho linh hồn tôi khỏi lời nguyền rủa của Người? Ơn tha tội nào gột sạch được tội lỗi tôi đã gây ra?
[22] Nguyên văn là all of you, Christians nghĩa là
tất cả các bổn đạo Cơ đốc giáo hoặc Kitô giáo
.
Trong phút im lặng chết chóc sau đó, dân chúng nhìn vào Montanelli và thấy giá chữ thập đang phập phồng trên ngực ông ta.
Cuối cùng Montanelli ngước mắt nhìn lên, ông giơ cánh tay để ban phép lành nhưng người ta thấy cánh tay ông nay đã không còn thật vững vàng nữa.
Ông nói:
- Đức Chúa Trời lòng lành vô cùng! Ông bạn hãy đặt gánh nặng linh hồn của mình trước ngai báu của Người, vì có lời Kinh Thánh viết rằng:
Ngươi chớ chối bỏ một trái tim tan vỡ đã biết ăn năn tội lỗi
[23].
[23] Lời Đức Kito trong sách Phúc Âm.
Ông quay đi và bước ngang qua sân chợ, chỗ nào ông cũng dừng lại nói chuyện với dân chúng và bế những trẻ nhỏ con cái họ lên tay.
Ngay chiều hôm đó, theo đúng lời chỉ dẫn ghi trong giấy gói bức tượng thánh, Ruồi trâu tìm đường đến nơi gặp gỡ đã định. Đó là nhà một vị bác sĩ địa phương, thành viên tích cực của
nhóm
[24]. Đa số những người công tác bí mật đều đã tập hợp đông đủ, và nỗi vui mừng của họ khi Ruồi trâu đến đã lại một lần nữa chứng minh, - nếu anh cần có thêm sự chứng minh ấy – về uy tín của mình như một lãnh tụ.
[24] Tức nhóm
Thắt lưng đỏ
.
Ông bác sĩ nói:
- Chúng tôi rất vui lại được gặp anh, nhưng khi nào thấy anh rời được khỏi chốn này, chúng tôi mới sẽ càng vui hơn. Đây quả là một công việc mạo hiểm kinh khủng, mà chính tôi là một người đã phản đối kế hoạch này. Anh có dám chắc sáng nay chưa bị lọt vào mắt một con chuột cảnh sát nào trong sân chợ không?
- Ồ, họ để... để ý tôi quá đi chứ, nhưng họ chẳng... chẳng nhận ra tôi được đâu. Domenichino bố trí mọi việc rất... rất cừ khôi. Mà anh ấy đâu nhỉ? Tôi chưa thấy anh ấy đâu cả.
- Cậu ấy chưa tới. Thế nghĩa là công việc của anh trôi chảy cả chứ? Hồng y giáo chủ đã ban phước cho anh chưa?
- Ban phước ư? Ồ, cái đó có nghĩa lý gì! - Vừa bước chân đến cửa, Domenichino đã phát biểu. - Rivarez, con người anh đầy phép lạ như Mình Thánh[25] trong lễ Giáng sinh vậy. Anh còn có bao nhiêu tài khiến chúng tôi sửng sốt hơn nữa không đấy?
[25] Nguyên văn là
as a Christmas cake
(bánh thánh), tức bánh đã được truyền phép trong dịp lễ Giáng sinh. Khi đã được truyền phép theo một bí tích Công giáo, bánh được coi là Mình Thánh, rượu (nho) được coi là Máu Thánh.
- Bây giờ chuyện ấy còn có nghĩa gì nào? - Ruồi trâu uể oải hỏi lại. Anh đang ngả lưng vào ghế xô pha, phì phèo điếu xì gà. Bộ đồ khách hành hương anh vẫn mặc, nhưng những râu tóc bạc anh đã bỏ sang bên cạnh.
- Tôi không ngờ anh lại là một kịch sĩ có tài như vậy. Trong đời tôi chưa hề thấy cảnh nào diễn ra hoành tráng đến thế! Anh làm Đức Hồng y cảm động đến suýt rớt nước mắt.
- Chuyện thế nào, kể cho chúng tôi nghe đi, anh Rivarez.
Ruồi trâu nhún vai. Anh đang trong tâm trạng trầm lặng và ít lời. Những người khác thấy cạy miệng anh chẳng được gì, bèn quay ra truy hỏi Domenichino. Khi nghe kể lại xong màn kịch trên sân chợ, một công nhân trẻ tuổi không góp tiếng cười chung mà bật ra một nhận xét:
- Dĩ nhiên là rất tài tình rồi, nhưng tôi không hiểu tất cả cái trò diễn kịch như thế có lợi gì cho ai?
Ruồi trâu xen lời:
- Có lợi nhiều ở chỗ, là bây giờ tôi có thể đi lại tự do, mún làm gì tùy ý trong vùng này mà không một ai nghĩ đến việc nghi ngờ tôi nữa cả, dù là bất kỳ một nam phụ lão ấu nào. Mai đây câu chuyện sẽ lan truyền ra khắp địa phương này, và mỗi khi tôi đụng phải một tên mật thám, hắn sẽ chỉ nghĩ rằng:
À, cái lão già điên Diego[26] đã thú tội ở sân chợ đây mà
. Như thế chắc chắn là có lợi rồi chứ!
[26] Diego (tiếng Tây Ban Nha).
- Vâng, tôi hiểu. Nhưng dù sao tôi vẫn thấy chả cần lừa gạt Hồng y giáo chủ làm gì. Ông ta quá tốt, chả nên chơi khăm ông ta đến nước ấy.
Ruồi trâu miễn cưỡng tán thành:
- Chính tôi cũng có cảm tưởng ông ta là người khá đứng đắn.
Domenichino nói:
- Sandro[27], cậu chỉ vớ vẩn! Ở đây chúng ta cần quái gì đến các ông Hồng y giáo chủ. Ví phỏng hồi có cơ may Monsignor Montanelli đã nhận ngay cái chức vị này tại Roma, thì đố Rivarez lừa được ngài.
[27] Sandro (tiếng Ý).
- Ông ấy không muốn nhận chức vị đó chỉ là vì không muốn rời bỏ công việc ở đây.
- Đúng hơn là tại ông ta không muốn bị lũ tay sai của Lambruschini đánh thuốc độc cho chết đấy thôi. Bon chúng đã vớ được chuyện gì đó để chống lại ông ta, anh có thể tin chắc là như thế đấy. Nếu một Hồng y giáo chủ, nhất là một tay có uy tín như Montanelli, lại cứ
thích ở lại
một cái xó xỉnh mà cả đến Chúa cũng bỏ rơi này, thì chúng ta ai nấy đều hiểu được điều đó có ý nghĩa gì chứ, phải không, ông Rivarez?
Ruồi trâu đang chơi trò phà ra những cuộn khói tròn. Anh ngả đầu để ngắm những cuộn khói trôi đi và nhận xét:
- Có lẽ đó là một trường... trường hợp
trái tim tan... tan vỡ đã biết ăn năn tội lỗi
đấy. Còn bây giờ, ta hãy bàn việc đi thôi, các bạn!
Họ bắt đầu thảo luận tỉ mỉ nhiều phương án khác nhau đã được hình thành để bí mật chuyên chở và cất giấu vũ khí. Ruồi trâu chăm chú nghe một cách nhạy bén, và thỉnh thoảng anh lại xen vào để sắc sảo chấn chỉnh những ý kiến không chính xác hoặc những đề xuất thiếu thận trọng. Khi mọi người đều đã phát biểu xong, anh liền đưa ra một số đề nghị thiết thực mà hầu hết đều được thông qua, không phải thảo luận gì. Thế là buổi họp kết thúc. Mọi người còn quyết định rằng sau đây chừng nào anh còn chưa an toàn về tới Tuscany thì tránh họp hành quá khuya để cảnh sát khỏi chú ý. Chừng hơn mười giờ một chút, mọi người giải tán, chỉ còn ông bác sĩ, Ruồi trâu và Domenichino ở lại giống như một tiểu ban để bàn thêm vài điểm đặc biệt. Sau một cuộc tranh luận dài và sôi nổi, Domenichino nhìn đồng hồ.
- Mười một giờ rưỡi rồi. Chúng ta không nên nấn ná nữa, kẻo bị tên lính tuần canh phát hiện.
Ruồi trâu hỏi:
- Lúc nào hắn đi qua đây?
- Khoảng mười hai giờ. Và tôi tính phải về tới nhà trước khi hắn đến. Chào Giordani nhé! Ta cùng đi chứ, Rivarez?
- Không, tôi thấy đi tách ra an toàn hơn. Vậy tôi còn sẽ gặp lại anh chứ?
- Vâng, ở lâu đài Bôlônha[28]. Tôi cũng chưa biết đến đó tôi nên giả trang thế nào, nhưng mật khẩu anh đã có rồi. Chắc mai anh rời đây chứ?
[28] Castel Bolognese (tiếng Ý).
Ruồi trâu đang đứng trước gương đeo lại râu tóc giả cho thật cẩn thận.
- Sáng mai, cùng với các khách hành hương. Đến ngày kia, tôi sẽ giả ốm nằm lại trong lều của người chăn cừu, rồi tôi sẽ tắt ngang xuyên qua núi. Tôi sẽ đến đó trước anh đấy. Chào anh!
Khi Ruồi trâu nhìn vào bên trong của một vựa thóc lớn bỏ không, nay đã được mở ra làm chỗ trú chân cho khách thập phương, thì gác chuông Nhà thờ chính tòa[29] đã điểm đúng mười hai tiếng. Sàn vựa chứa đầy những thân hình khó coi, phần lớn đều ngáy vang; còn không khí ở đây hết sức ngột ngạt và hôi hám. Ruồi trâu hơi rùng mình kinh tởm, lùi lại. Có muốn vào ngủ ở đây cũng sẽ vô ích thôi, thà là anh sẽ đi dạo một lúc rồi sẽ kiếm một mái lều hoặc một đụn cỏ khô nào, dù sao cũng vẫn là sạch sẽ và yên tĩnh.
[29] Cathedral (tiếng Anh).
Đêm hôm ấy thật huy hoàng, một vầng trăng đầy đặn và to lớn tỏa sáng rực rỡ trên bầu trời tím nhạt. Anh thả bước đi lang thang vô định qua các đường phố, xót xa ngẫm lại cảnh tượng sáng nay, và hối tiếc phải chi mình đừng bao giờ đồng ý với kế hoạch của Domenichino về việc họp hành ở Brisighella. Nếu ngay từ đầu anh tuyên bố rằng phương án ấy quá ư là nguy hiểm thì có phải một địa điểm khác đã được chọn lựa rồi không? Và cả anh lẫn Montanelli đều đã thoát khỏi cái trò hề kinh khủng và nực cười ấy.
Padre khác trước nhiều quá! Vậy mà giọng nói của padre chẳng thay đổi chút nào, vẫn như những ngày xưa, hồi padre thường gọi mình là carino.
Bỗng chiếc đèn ló của tên lính tuần canh đã hiện ra ở đầu phố đằng kia, Ruồi trâu bèn rẽ vào một ngõ hẻm ngoắt ngoéo. Vừa đi được ít bước, anh đã thấy mình đứng ở ngay quảng trường Nhà thờ chính tòa, sát với cánh trái lâu đài Tòa giám mục. Ánh trăng tràn ngập trên sân nhà thờ vắng vẻ không một bóng người. Nhưng anh nhận thấy cửa ngách nhà thờ còn hé mở. Chắc ông bó coi nhà thờ[30] đã quên không đóng cửa. Đêm hôm khuya khoắt thế này còn có ai vào đây làm gì nữa! Bây giờ chính anh cũng có thể vào đó mà ngủ trên một chiếc ghế dài hơn là trở về nơi vựa thóc ngột ngạt kia. Đến sáng anh sẽ lẻn ra trước khi ông bõ coi nhà thờ tới, và cho dù có ai bắt gặp anh chăng nữa thì lẽ tự nhiên người ta cũng chỉ cho rằng lão già điên Diego lại vào cầu nguyện ở xó xỉnh nào trong nhà thờ và đã bị nhốt ở đấy, thế thôi.
[30] Sacristan (tiếng Anh): Cũng là ông từ, người coi nhà thờ.
Anh đứng ở cửa nghe ngóng giây lát, rồi rón rén bước vào, cố giữ cho bên chân khập khiễng của mình không gây ra tiếng động. Ánh trăng tuôn vào qua các cửa sổ, trải những vệt rộng trên sàn đá hoa. Nhất là ở nội điện[31] mọi vật đều trông còn rõ lắm, hệt như trong ánh sáng ban ngày vậy. Dưới chân các bậc cấp nơi ban thờ, Hồng y giáo chủ Montanelli đang một mình quỳ gối, đầu để trần, hai tay chắp lại.
[31] Chancel (tiếng Anh): Cũng là điện thờ, là phần trọng yếu nhất của nhà thờ, bên trong có cung thánh (hoặc gian thánh, sanctuary) là nơi thiêng liêng nhất, ở đây đặt ban thờ (hoặc bàn thờ, bàn thánh, altar) và Mình Thánh Chúa (Mình Máu Thánh, Eucharist). Xưa kia, giữa các phần này trong nhà thờ có rào chắn (hàng rào, tay vịn) gọi là hàng rào nội điện (chancel rails) và hàng rào cung thánh (altar rails).
Ruồi trâu liền lùi vào bóng tối. Có nên lẩn ngay ra khỏi chốn này, để Montanelli không kịp trông thấy anh không? Làm như thế hiển nhiên là sáng suốt nhất, và có lẽ là nhân hậu nhất nữa. Thế nhưng, nếu chỉ bước lại gần chút xíu thôi thì cũng có hại gì cho anh đâu? Lại gần chút xíu để nhìn mặt padre một lần nữa; một khi bây giờ không còn đám đông nữa và không phải diễn mãi cái trò hài kịch bỉ ổi như ban sáng nữa. Có lẽ đây sẽ là cơ may cuối cùng cho anh, - mà cũng đâu có cần để padre nhìn thấy anh, anh chỉ lén bước lại gần nhìn padre một tí thôi, - và cũng chỉ một lần này thôi, rồi anh lại trở về với công việc của mình mà!
Nương mình trong bóng tối sau hàng cột, anh nhẹ nhàng lần đến hàng rào nội điện. Anh dừng lại giây lát bên cửa ngách, gần sát ban thờ. Bóng chiếc ngai Giám mục tỏa xuống khá rộng, đủ che khuất anh, anh ngồi phục xuống trong bóng tối, nín thở.
- Con trai khốn khổ ơi! Ôi, lạy Chúa! Khốn khổ con tôi!
Trong tiếng thì thầm đứt đoạn ấy chứa chấp biết bao niềm tuyệt vọng vô biên khiến Ruồi trâu bất giác rùng mình. Tiếp theo là những tiếng thổn thức sâu xa, nặng nhọc, không nước mắt. và anh thấy Montanelli vặn chặt hai tay lại với nhau như một người đang đau đớn trong thân thể vậy.
Anh không ngờ sự thể lại tồi tệ như thế này. Biết bao lần anh đã khăng khăng tự tin mà nhủ mình rằng:
Mình chẳng cần bận tâm về chuyện đó! Vết thương ấy đã lành từ lâu rồi
. Giờ đây, sau bấy nhiêu năm trường, vết thương ấy vẫn còn sờ sờ ra đó và anh thấy nó vẫn đang rỉ máu. Và rốt cuộc vết thương ấy bây giờ sẽ dễ chữa biết chừng nào! Anh chỉ cần giơ tay lên, chỉ cần bước lên mà bảo:
Padre, con đây!
. Thế nhưng còn có cả Gemma với một dải tóc bạc lớn trên mái đầu nữa kia. Chao ôi, phải chi anh có thể tha thứ được! Phải chi anh có thể cắt bỏ ra khỏi ký ức mình cái dĩ vãng đã từng cháy đỏ mà khắc sâu đến thế, - nào là gã Lascar, nào là cái đồn điền mía và cả gánh xiếc rong kia nữa! Chẳng đau khổ nào sánh được đau khổ này! Muốn tha thứ đấy, ước mong tha thứ đấy, nhưng lại biết rằng tha thứ cũng là vô vọng, - vì anh không thể và cũng không dám tha thứ.
Cuối cùng Montanelli đứng dậy, làm dấu thánh giá, và quay gót rời ban thờ. Ruồi trâu thu mình hẳn vào bóng tối, run lên vì sợ rằng mình đã bị lộ, sợ rằng chính tiếng đập của trái tim mình lại đã chẳng tố cáo mình? Nhưng rồi anh thở ra một hơi dài nhẹ bẫng: Montanelli đã lướt qua, đi sát ngay bên cạnh anh đến nỗi tà áo choàng tím cọ cả vào má anh, - ông đã đi qua mà không trông thấy anh.
Không trông thấy anh... Ôi, anh đã làm gì thế nhỉ? Đấy là cơ may cuối cùng của anh, - một thời cơ quý giá duy nhất, vậy mà anh lại để nó trôi đi mất. anh đứng bật dậy, bước ra chỗ sáng.
- Padre!
Thanh âm lời nói của chính anh vang lên rồi lắng xa dần dọc theo những vòm mái nhà thờ khiến anh bị tràn ngập trong một nỗi kinh hoàng hết sức kỳ lạ.
Anh lại quyết thu mình vào bóng tối. Montanelli đứng bên cột, bất động mà nghe ngóng với cặp mắt mở to chứa đầy khủng khiếp của chết chóc. Im lặng đã kéo dài bao lâu Ruồi trâu không thể xác định được, nó có thể là một khoảnh khắc, mà cũng có thể là vĩnh hằng vô tận. Nhưng rồi anh bừng tỉnh lại bởi một cú sốc đột ngột. Montanelli đang lảo đảo như muốn ngã, rồi đôi môi ông mấp máy, mới đầu không thành tiếng.
Mãi sau một tiếng thều thào mới bật ra:
- Arthur! Phải, nước sâu lắm...
Ruồi trâu bước lên.
- Đức Hồng y tha lỗi! Con tưởng là một vị giáo sĩ nào của nhà thờ này.
- À, ông khách hành hương đấy ư?
Montanelli đã trấn tĩnh lại được ngay, tuy rằng thấy ánh ngọc xanh không thôi lóng lánh nơi tay ông. Ruồi trâu vẫn có thể biết là ông ta vẫn đang run rẩy.
- Có cần gì không, ông bạn của tôi? Trời đã khuya, mà đêm đến nhà thờ đóng cửa rồi.
- Có gì không phải xin Đức Hồng y tha lỗi cho. Chả là thấy cửa còn mở nên con vào để cầu nguyện. Rồi khi thấy người đang suy tư, con tưởng là một vị giáo sĩ nào nên chờ xin được ban phép lành cho sự này.
Ruồi trâu giơ lên chiếc thánh giá bằng thiếc nhỏ xíu mà sáng nay anh đã mua của Domenichino. Montanelli cầm lấy thánh giá từ tay anh, trở vào nội điện đặt lên ban thờ một lát.
Ông nói:
- Hỡi con, con nhận lấy, và vì Chúa nhân từ và giàu lòng xót thương con, hãy cứ yên tâm. Con hãy đến Roma và xin với Đức thánh Cha là thừa tác viên của Đức Chúa Trời ban phước lành cho con. Nguyện cho con được bằng an!
Ruồi trâu cuối đầu nhận lễ phép lành rồi từ từ quay ra.
Nhưng bỗng Montanelli gọi:
Đứng lại đã!
.
Ông đang đứng vịn một tay vào hàng rào nội điện, nói với theo:
- Khi nào chịu Mình Thánh thiêng liêng ở Roma, ông bạn hãy cầu nguyện cho một kẻ đang rất đỗi đau thương, một kẻ mà linh hồn đang trĩu nặng bàn tay của Chúa.
Tiếng nói hầu như chứa đầy nước mắt của ông làm cho quyết tâm của Ruồi trâu xao xuyến. Chỉ suýt nữa là anh đã tự phản bội mình. Nhưng hình ảnh đám xiếc rong lại hiện ra trong trí anh, và giống như Giôna[32], anh đã cho việc mình phát nổi giận là đúng.
[32] Jonah (tiếng Anh): Cũng là Jonas, theo Kinh Thánh là người bị Chúa Trời phạt nằm trong bụng cá voi ba ngày ba đêm, nhưng đã tuân lời dạy của Chúa Trời nên được tha, mặc dù đã giận dỗi kéo dài đối với Người. Được coi là nhà tiên tri; có Sách Jonah thuộc bộ Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo.
- Con là ai mà Người phải đoái nghe những lời nguyện cầu của con? Con chỉ là kẻ bị tật phong[33] và là kẻ bị ruồng bỏ, thế thôi! Phải chi con làm được như Đức Hồng y có thể hiến dâng một của lễ lên ngai của Chúa mà của lễ ấy là một cuộc sống thánh thiện, một linh hồn không bợn chút nhuốc nhơ thầm kín...
[33] Tức bị bệnh hủi.
Montanelli liền quay ngoắt đi. Ông nói:
- Ta chỉ có một của lễ để hiến dâng là trái tim tan nát này mà thôi.
Vài ngày sau Ruồi trâu lên xe ngựa trạm từ Pistoja mà trở về Florence. Anh đến thẳng nhà Gemma nhưng chị đi vắng. Anh viết giấy để lại, hẹn sáng hôm sau anh sẽ đến, rồi trở về nhà, thầm mong phòng làm việc của minh không bị Zita xâm nhập như lần trước. Nếu đêm nay anh lại phải nghe một lô những lời trách móc ghen tuông của cô ta thì thần kinh anh sẽ bị tác động hệt như tiếng giũa răng ken két của bác sĩ nha khoa mất thôi.
Người ở gái ra mở cửa.
- Chào Bianca. Hôm nay bà Reni có đến đây không?
Cô ta trố mắt nhìn anh:
- Bà Reni? Bà ấy đã về rồi ư, thưa ông?
Anh cau mày, đứng sững lại trên tấm chùi chân trước cửa, và hỏi lại:
- Cô nói thế là sao?
- Ngay sau khi ông lên đường, bà ấy đã ra đi hết sức đột ngột và đã bỏ lại tất tần tật mọi thứ đồ đạc. Bà cũng chẳng hề bảo là bà đi đâu cả.
- Ngay sau khi tôi lên đường? Sao, cách đây những hai... hai tuần rồi ư?
- Thưa ông, vâng, ngay ngày hôm ấy. Đồ đạc của bà vẫn còn ngổn ngang cả ra. Bà con láng giềng ai cũng đều bàn tán chuyện này.
Anh quay gót từ bậc cửa, không nói một lời, rồi vội băng qua một ngõ hẻm để đi ngay đến ngôi nhà Zita đã thuê. Trong các buồng phòng, đồ đạc chẳng suy suyển tẹo nào; mọi quà tặng của anh biếu cô cũng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Tìm không ra một bức thư hay một mẩu giấy nhỏ nào để lại.
Chợt Bianca thò đầu vào cửa nói:
- Xin ông tha lỗi, có một bà cụ đến...
Anh hầm hầm quay phắt lại:
- Cô muốn gì ở đây? Theo dõi tôi suốt hả?
- Có một bà cụ xin được gặp ông.
- Bà ta cần gì? Bảo bà ta là tôi không... không tiếp bà ta được. Tôi đang bận.
- Thưa ông, từ khi ông đi, hầu như chiều nào bà ta cũng đến và cứ hỏi bao giờ ông về.
- Hỏi xem bà... bà ta có chuyện gì. Thôi, khỏi cần, có lẽ tôi phải tự ra vậy.
Bà cụ đang ngồi đời ở cửa phòng ngoài. Cụ ăn mặc rất tiều tụy, da mặt sẫm nâu lại nhăn nheo như một quả táo tàu[25] khô, đầu quấn một chiếc khăn sặc sỡ. Thấy anh đến, bà đứng dậy nhìn anh với cặp mắt đen tinh nhanh.
[34] Nguyên văn là medlar (tiếng Anh): Quả sơn trà.
Sau khi xét nét nhìn anh từ đầu đến chân, bà bảo:
- Vậy ra đây là vị quý ông khập khiễng đấy! Tôi đến để chuyển lời Zita Reni nhắn lại ông.
Ruồi trâu mở cửa phòng làm việc, giữ cánh cửa cho bà cụ vào mà bước theo sau, rồi đóng cửa lại để Bianca khỏi nghe chuyện.
- Mời cụ ngồi. Bây... bây giờ cụ cho biết cụ là ai?
- Tôi là ai, không việc gì đến ông. Tôi đến để bảo cho ông biết rằng Zita Reni đã bỏ đi cùng với con trai tôi rồi.
- Cùng với... con trai... của cụ?
- Thưa ông, vâng! Ông đã có được người tình như cô ta mà không biết đường giữ, để những người đàn ông khác cướp mất, thì đó là lỗi ở ông, không thể trách móc vào đâu được. Trong mạch máu con trai tôi là máu chứ không phải sữa với nước lã đâu. Nó là dòng dõi tộc người Romany[1].
[35] Romany folk (tiếng Anh): Tộc người txigan, tự tôn mình là dòng dõi dân tộc xuất xứ từ Roma (tức La Mã).
- À, vậy ra cụ là người txigan! Thế là Zita đã trở về với bà con dòng giống của mình rồi?
Bà cụ nhìn anh, vừa ngạc nhiên vừa tỏ vẻ khinh bỉ: cõ nhẽ những người Thiên Chúa giáo này chẳng ra giống người nữa, văng vào mặt mà cũng chẳng biết giận.
- Ông là cái thá gì mà cô ta cứ phải ở lại với ông? Đàn bà con gái chúng tôi phần lớn do trẻ người non dạ, hoặc có đứa thì được các ông cho bộn tiền, mà phải tạm gả mình cho các ông. Nhưng máu mủ La Mã lại trở về với dòng giống La Mã thôi.
Ruồi trâu vẫn giữ nét mặt lạnh lùng và điềm tĩnh như không.
- Cô ta ra đi với cả bộ tộc txigan hay là chỉ về ở với con trai cụ thôi?
Bà cụ phá ra cười.
- Ông lại định đuổi theo để hòng lôi cổ cô ta trở lại chăng? Quá muộn rồi, ông ơi! Chuyện ấy ông phải suy tính từ trước chứ!
- Không, tôi chỉ muốn biết sự thể ra sao thôi, nếu cụ muốn cho tôi biết.
Bà cụ nhún vai. Một người đã tỏ ra nhu nhược đến nước ấy thì còn hoài hơi sỉ vả làm gì nữa cho phí công.
- Vâng, thì sự thể là ngay cái hôm ông bỏ rơi Zita, cô ta đã gặp con trai tôi ngoài đường và đã bắt chuyện với con tôi bằng tiếng Romany. Mặc dù cô ấy ăn mặc đỏm dáng, nhưng con tôi vẫn nhận ra ngay là người đồng tộc. thấy cô ta có gương mặt xinh xắn, nó liền yêu ngay, yêu mê mệt như kiểu các người đàn ông của chúng tôi vậy, và đưa cô về lều trại[27] của chúng tôi. Cô ấy kể cho chúng tôi nghe mọi nỗi khổ tâm, rồi cứ ngồi hết khóc lóc lại sụt sùi, khiến chúng tôi ai nấy trong lòng đều xót xa cho cô bé đáng thương ấy. Chúng tôi cố sức dỗ dành an ủi, cuối cùng cô ta cởi bỏ hết bộ đồ diêm dúa, mặc lên các loại trang phục mà các cô gái của chúng tôi thường mặc, rồi thuận tình lấy con trai tôi, nhận làm vợ nó và nhận nó làm chồng. Con trai tôi sẽ chẳng bao giờ nói:
Tôi không yêu cô
với lại
Tôi bận việc khác
đâu. Khi còn trẻ, đàn bà nào mà chả muốn có một người đàn ông. Vậy mà ông, con gái đẹp như thế, ôm cả lấy cổ ông mà ông cũng chẳng biết đường hôn, thì ông là cái loại đàn ông gì?
[36]Our camp (tiếng Anh): Người txigan thường sống du cư, nơi nào thích hợp thì cùng nhau dựng lều, cắm trại, rồi lại đi nơi khác.
Ruồi trâu ngắt lời:
- Cụ có bảo là mang lời nhắn của cô ấy đến cho tôi kia mà.
- Có. Bộ tộc đã nhổ lều trại lên đường, còn tôi nán lại đi sau chính là để chuyển lời cô ấy nhắn lại ông. Cô ấy nhờ tôi bảo rằng cô ấy chán ngấy cái giống người bới bèo ra bọ, máu chảy lờ đờ[28] của các ông rồi, và rằng cô ấy đã trở về với dân tộc mình, và để được sống tự do rồi. Cô ấy bảo:
Nói với ông ta rằng tôi là một người đàn bà, tôi yêu ông ta nên tôi không thể ở lại làm vợ hờ[29] cho ông ta mãi được
. Cô gái ấy bỏ ông mà đi là phải rồi. Con gái nhờ chút nhan sắc may ra kiếm được ít tiền, thì cũng chẳng tai hại gì, - nếu không nhan sắc nó để làm gì? Thế nhưng con gái tộc Romany chẳng tội gì đi yêu người đàn ông thuộc dòng giống các ông đâu.
[37] She has had enoungh of your folk and their hair - splitting and their sluggish blood (tiếng Anh): Nguyên văn là
hay chẻ đôi sợi tóc, máu chảy lười lĩnh
, ý chê là hay chú ý cái lặt vặt và thiếu nhiệt tình.
[38] Nguyên văn là harlot (tiếng Anh), đúng nghĩa là
đĩ, điếm
.
Ruồi trâu đứng dậy, anh bảo:
- Tất cả lời nhắn chỉ có thế thôi, phải không ạ? Vậy nhờ cụ nói giùm với cô ấy là tôi thấy cô ấy làn như thế là đúng, và tôi mong cô ấy được hạnh phúc. Tất cả những gì tôi cần nói chỉ có vậy. Xin chào cụ!
Anh hoàn toàn đứng im phăng phắc cho mãi tới khi cổng vườn đã đóng lại sau lưng bà cụ. Rồi anh ngồi xuống ghế, úp mặt vào hai tay.
Lại một cái tát nữa vào giữa mặt! Lẽ nào người ta không để lại cho anh một mụn giẻ rách tự hào, một mẩu tự trọng bé nhỏ nào hay sao? Chắc chắn là bao nhiêu đau khổ một con người có thể chịu đựng thì anh đã chịu cả rồi. Ngay cả trái tim anh cũng đã bị dấn trong bùn, và bị dày xéo dưới chân những khách qua đường. Linh hồn anh không còn chỗ nào là không có dấu đốt cháy thui bởi sự khinh rẻ của người này hoặc vết sắt nung đỏ từ sự nhạo báng của người khác. Và bây giờ, đến cả cô gái txigan này, một cô gái anh đã nhặt được bên lề đường, cũng đã có chiếc roi da trong tay!
Tiếng rền rĩ của con Shaitan vang lên ngoài cửa khiến Ruồi trâu phải đứng dậy mở cửa cho nó vào. Chú chó nhảy chồm lên người ông chủ và vẫn biểu lộ vui sướng như điên như cuồng lên như mọi khi, nhưng chẳng mấy chốc nó hiểu là đã có chuyện gì không ổn, nó bèn nằm xuống tấm thảm cạnh chân anh, dúi cái mũi lạnh lẽo của nó vào bàn tay thờ ơ của chủ.
Một giờ sau, Gemma đã đến trước cửa ngoài. Chị gõ cửa nhưng không thấy có ai ra. Bianca nghe chừng ông chủ chẳng muốn ăn uống gì, đã lỉnh sang chơi với cô nấu bếp bên hàng xóm rồi. Cô ta bỏ ngỏ cửa, và một ngọn đèn vẫn sáng ở hành lang, Gemma chờ một lúc rồi cả quyết bước vào để xem có tìm được Ruồi trâu không, vì chị cần bàn với anh về một thông báo quan trọng từ phía Bailey. Chị gõ cửa phòng làm việc và thấy tiếng Ruồi trâu nói vọng ra:
- Bianca, cô đi được rồi đấy. Tôi không cần gì cả đâu.
Gemma nhẹ nhàng mở cửa. Trong phòng tối như bưng, nhưng ngọn đèn ngoài hành lang đã hắt một vệt sáng dài vào ngang phòng sau khi chị bước vào, và chị thấy Ruồi trâu đang ngồi một mình, đầu cúi gục xuống tận ngực, con chó ngủ khì dưới chân anh.
Chị lên tiếng:
- Tôi đây mà.
Anh bật dậy:
- Gemma... Gemma! Ôi, tôi đang cần đến Gemma biết chừng nào!
Chị chưa kịp nói gì, anh đã quỳ xuống sàn dưới chân chị và vùi mặt vào những nếp gấp nơi xiêm áo chị. Toàn thân anh rung lên trong một cơn run rẩy co giật, trông đáng thương hơn cả nước mắt...
Chị đứng lặng người. Chị không thể làm gì được để giúp đỡ anh, không làm gì được cả! Điều đó mới thật là xót xa hơn hết! Chị xứ phải đứng bên anh, thụ động nhìn nỗi đau khổ của anh, - mà lẽ ra chị phải thà chết đi để anh khỏi đau khổ nữa kia! Phải chi chị chỉ cần mạnh dạn cúi xuống, vòng tay ôm lấy anh, ghì chặt anh vào lòng và che chở cho anh, dù là bằng chính thân thể mình, để chắn cho anh khỏi bị mọi tai ương và ngang trái mới! Lúc ấy chắc chắn anh sẽ lại là Arthur của chị, và lúc đó bình minh sẽ sáng dần lên, xua tan hết bóng tối.
Ôi! Không, không đâu! Làm sao anh ấy có thể quên được bao giờ? Chẳng phải là chị, - chính chị với bàn tay phải của chị, đã đẩy anh ấy xuống địa ngục đó sao!
Và chị đã để cho khoảnh khắc ấy trôi qua. Anh đã vội vã đứng dậy, ngồi xuống cạnh bàn, một tay che lấy mắt, răng cắn chặt như muốn nghiến đứt môi.
Ngay đó anh nhìn lên, điềm nhiên bảo:
- E rằng tôi đã làm bà hoảng hồn.
Chị chìa cả hai tay ra cho anh:
- Anh quý mến, chẳng lẽ tình bạn hiện giờ của chúng ta còn chưa đủ để anh tin cậy tôi được ít nhiều hay sao? Chuyện gì thế, anh?
- Đó chỉ là nỗi khổ tâm riêng của tôi, tôi thấy bà chẳng có gì phải lo lắng.
Hai tay chị nắm chặt lấy bàn tay anh để giữ cho bàn tay ấy khỏi run rẩy co giật, chị nói tiếp:
- Anh hãy nghe tôi một chút nhé. Tôi đã không hề cố nhúng tay vào chuyện gì tôi không có quyền động chạm tới. Nhưng cho đến nay anh đã tự ý thổ lộ biết bao nỗi lòng thầm kín với tôi, vậy liệu anh có cho tôi biết thêm chút ít nữa, - cứ coi tôi như một người em gái của anh được không? Anh cứ giữ tấm mặt nạ che trên mặt nếu nó có thể là một nguồn an ủi cho anh, nhưng hãy đừng che mặt nạ lên tâm hồn mình, và hãy thương lấy bản thân mình.
Anh càng cuối gục đầu. Anh nói:
- Đối với tôi, bà phải kiên nhẫn đấy. E rằng tôi chỉ là một người anh thuộc loại chẳng xứng đáng gì mà thôi. Nhưng phải chăng bà hiểu được cho một điều... là tuần qua tôi đã suýt phát điên. Tôi tưởng chừng trở lại quãng đời ở Nam Mỹ. Quỷ dữ như đã nhập vào người tôi và...
Anh nghẹn lời.
Sau cùng chị thủ thỉ:
- Liệu tôi có thể chia sẻ với anh phần đau lòng nào không?
Anh gục đầu vào cánh tay chị.
Bàn tay của Chúa thật nặng nề!
.