Phần II - Chương 7: Hắc mãng xà
-
Trật Tự Đen (A Sigma Force #3)
- James Rollins
- 11348 chữ
- 2020-05-09 01:08:22
Số từ: 11341
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Nhà xuất bản Văn Học
• 5 giờ 45 phút sáng
Khu bảo tồn Hluhluwe - Umfolozi
Zululand, Nam Phi
Khamisi Taylor đứng trước đầu bàn làm việc của trưởng đội gác rừng. Lưng thẳng đơ, anh chờ trong khi trưởng đội gác rừng Gerald Kellogg đọc hết phần báo cáo ban đầu về bi kịch của ngày đã qua.
Âm thanh duy nhất là tiếng cọt kẹt của chiếc quạt trần trên đầu, lắc nhẹ.
Khamisi vận bồ đồ đi mượn, ống quần lửng quá dài, chiếc áo sơ mi quá ngắn. Nhưng bộ đồ lại khô. Sau khi mất cả ngày và cả đêm trong hố nước bẩn thỉu, vai ngập sâu trong đống bùn, cánh tay đau nhức vì mỏi khi phải nâng khẩu súng trường ở tư thế sẵn sàng, anh đánh giá rất cao bộ quần áo ấm và chỗ đứng vững chắc.
Anh cũng đánh giá rất cao ánh sáng ban ngày. Qua cửa sổ phía sau văn phòng, ánh nắng bình minh nhuộm bầu trời một màu bụi hồng. Thế giới lại xuất hiện trở lại từ những bóng tối.
Anh đã sống sót. Anh vẫn còn sống.
Nhưng anh phải hoàn toàn thú nhận thế này.
Trong đầu óc anh, tiếng gầm của con ukufa vẫn còn vọng lại.
Ngay sát tầm tay anh, viên trưởng đội gác rừng, Gerald Kellogg, vuốt bộ ria rậm của mình một cách lơ đãng khi y tiếp tục đọc. Ánh sáng mặt trời buổi sáng lấp lánh trên cái đầu hói của y, tạo ra một sắc hồng bóng loáng. Cuối cùng y nhìn lên, nhìn chăm chú qua gọng kính hình bán nguyệt đeo trễ trên mũi.
— Và đây là báo cáo anh dự định để cho tôi lưu, đúng không ngài Taylor? - Đội trưởng Kellogg lấy ngón tay chỉ vào một dòng chữ trên tờ giấy vàng. - Một loài vượn ăn thịt người chưa được biết tới. Đó có phải là tất cả những anh có thể nói đã giết chết và xé xác tiến sĩ Fairfield không?
— Thưa ông tôi không nhìn rõ con vật đó. Nó trông to, lông trắng. Như tôi đã báo cáo.
— Một con sư tử cái chẳng hạn. - Kellogg nói.
— Không thưa ông… nó không phải là sư tử.
— Làm sao anh có thể chắc được như vậy? Anh nói rằng là anh không nhìn thấy nó cơ mà?
— Vâng thưa ông… ý tôi muốn nói là thế này, thưa ông… là những gì tôi trông thấy lại không khớp với bất cứ một loài thú ăn thịt nào trên thế giới.
— Vậy thì nó là cái gì?
Khamisi im lặng. Anh biết rõ tốt hơn là cần phải nhắc tới ukufa. Trong ánh sáng của một ngày bình thường như thế này, tiếng xì xào về những con quái vật chỉ làm cho người ta cười nhạo. Đồ thổ dân mê tín.
— Vậy là có một con gì đó đã cắn và lôi tiến sĩ Fairfield đi, con gì đó mà anh chưa bao giờ trông thấy rõ để nhận dạng…
Khamisi chậm rãi gật đầu
— …Vậy mà anh vẫn chạy và trốn trong hố nước à? - Gerald Kellogg vò nhàu bản báo cáo. - Anh nghĩ như thế nào về những gì phản ánh cách thức dịch vụ của chúng ta ở đây? Một trong những người gác của chúng ta để cho một người phụ nữ sáu mươi tuổi bị sát hại trong khi anh ta thì lại bỏ chạy và trốn. Cụp đuôi mà chạy chẳng cần biết chuyện gì đã xảy ra ngoài kia.
— Thưa ông như thế không phải là…công bằng.
— Công bằng à? - Giọng trưởng đội gác rừng vang ầm lên, to tới mức phòng ngoài có thể nghe thấy được, tại đó toàn bộ nhân viên đã tụ tập do tình trạng báo động. - Công bằng tới mức nào khi tôi phải liên hệ với người nhà tiến sĩ Fairfield và kể cho họ rằng mẹ họ, hoặc bà của họ đã bị tấn công và bị ăn thịt trong khi một người gác rừng của tôi… một người gác rừng có súng hẳn hoi lại bỏ chạy trốn?
— Tôi không thể làm gì hơn.
— Ngoại trừ cứu được bản thân anh… cái da?
Khamisi nghe thấy được những lời không nói ra một cách cố tình.
— Cứu được cái da đen nhẻm,
Gerald Kellogg không sợ khi đã thuê Khamisi. Gia đình trưởng_đội - gác rừng này có những mối quan hệ với chính phủ cũ người châu Phi, đã vươn lên qua nhiều cấp bậc bởi vì những mối liên hệ dây mơ rễ má này. Y vẫn thuộc về câu lạc bộ nước Oldavi, toàn người da trắng, tại đây thậm chí dù chủ nghĩa Apathai đã sụp đổ, quyền lực kinh tế vẫn còn bị chi phối. Mặc dù nhiều bộ luật mới đã được thông qua, những rào cản đã bị phá vỡ trong chính phủ, nhiều liên đoàn đã được thành lập, việc làm ăn vẫn là việc làm ăn tại Nam Phi. Gia đình nhà De Beers vẫn sở hữu những mỏ kim cương của họ. Nhà Waalenbergs vẫn sở hữu phần lớn những thứ khác.
Thay đổi sẽ rất chậm.
Địa vị của Khamisi chỉ là một bước nhỏ, một bước anh muốn giữ để mở hướng cho con cái sau này. Cho nên anh giữ giọng điềm tĩnh.
— Tôi dám chắc rằng một khi các điều tra viên đến thị sát hiện trường, họ sẽ ủng hộ kiểu hành động của tôi.
— Họ sẽ đến, thưa ngài Taylor? Tôi đã cử hơn chục người tới đó rồi, một giờ sau khi máy bay trực thăng cứu hộ tìm thấy ngài sau lúc nửa đêm lặn ngụp trong vũng bùn. Họ báo cáo cách đây mười lăm phút. Họ đã tìm thấy xác của con tê giác, hầu như đã bị giống chó rừng cắn xé nát. Không thấy dấu hiệu của con tê giác con mới đẻ như ngài báo cáo. Và điều quan trọng hơn nữa là không có dấu vết gì của tiến sĩ Fairfield.
Khamisi lắc đầu, tìm một cách nào đó để vượt qua những lời buộc tội kiểu này. Anh sực nhớ lại giây phút mình còn tỉnh táo trong hố nước. Ngày tưởng như dài không bao giờ hết, nhưng đêm thì lại còn tồi tệ hơn. Không có ánh sáng mặt trời, Khamisi đã phải chờ đợi để bị tấn công. Thay vào đó anh lại nghe thấy được tiếng yip - yip - yip của loài linh cẩu và sói rừng đi xuôi vào trong thung lũng, kèm theo tiếng gào rú giận dữ và tiếng kêu thét của những con vật bị lột da.
Sự có mặt của những người đi săn này đã làm cho Khamisi hầu như tin tưởng rằng chạy đến chỗ chiếc xe Jeep là một cách an toàn. Nếu như bọn linh cẩu và bọn sói rừng đã quay trở lại, thì có lẽ con ukufa đã bỏ đi rồi.
Ấy vậy mà anh vẫn không cử động được.
Tâm trí anh tỉnh táo để nhớ tới trận phục kích đã lấy đi tiến sĩ Fairfield.
— Chắc chắn là còn có những con đường khác. - Anh nói
— Có đấy.
Khamisi bừng tỉnh. Nếu như anh có bằng chứng…
— Đó là những vết đường đi của sư tử. - Trưởng đội gác rừng Kellogg nói. - Hai con cái. Như tôi đã nói trước đây.
— Sư tử cái à?
— Đúng vậy. Tôi tin là chúng ta có một vài bức ảnh chụp những loài thú lạ này đâu đó quanh đây. Có lẽ anh nên nghiên cứu chúng để anh có thể nhận ra chúng sau này. Với tất cả những thời gian anh có.
— Gì cơ thưa ngài?
— Anh bị quản thúc, thưa ngài Taylor.
Khamisi không thể giấu được vẻ mặt hoảng hốt. Anh biết nếu đó là một người gác khác, bất cứ một người gác da trắng nào thì người ta sẽ đối xử nhẹ hơn và người ta sẽ tin tưởng hơn. Nhưng không phải như vậy khi người đó lại có màu da của bộ lạc của mình. Anh biết tốt hơn là không tranh cãi. Vì làm vậy chỉ làm cho tình hình rối beng thêm.
— Không thanh toán thưa ngài Taylor. Cho tối khi nào cuộc điều tra kết thúc.
Một cuộc điều tra đầy đủ. Khamisi biết nó sẽ kéo dài bao lâu.
— Tôi vừa được cảnh sát khu vực thông báo rằng anh không được phép rời khu vực. Cũng có vấn đề về tội phạm cần xem xét.
Khamisi nhắm mắt lại.
Cho dù mặt trời đang lên, cơn ác mộng vẫn chưa chịu lui.
Mười phút sau, Gerald Kellogg vẫn ngồi bên bàn làm việc, văn phòng vắng tanh. Y xoa đỉnh đầu đang đây mồ hôi, giống như một quả táo bóng nhoáng. Vị chua trên môi vẫn còn đọng lại. Đêm qua lúc thức lúc ngủ, phải đi dập lửa quá nhiều. Và có hàng ngàn việc chi ly khác phải làm: Làm việc với báo chí, tham dự buổi họp mặt của gia đình nhà nghiên cứu sinh học, kể cả những đối tác của tiến sĩ Fairfield.
Kellogg lắc đầu khi nghĩ tới cái việc cuối cùng này. Tiến sĩ Paula Kane sẽ chứng minh cái gai lớn nhất trong ngày tới. Anh hiểu rõ thuật ngữ quan hệ đối tác giữa hai người đàn bà này đã vượt qua khỏi tầm nghiên cứu. Chính tiến sĩ Paula Kane là người đã gây áp lực bắt máy bay trực thăng cứu nạn đêm qua đi tìm, sau khi biết tiến sĩ Fairfield không trở về nhà sau chuyến đi trong rừng rậm.
Tỉnh dậy lúc nửa đêm, Gerald thúc giục mọi người cẩn thận. Chuyện phải thức qua đêm không phải chuyện bất thường đối với những người nghiên cứu. Chuyện lôi y ra khỏi giường là khi y phát hiện ra nơi mà tiến sĩ Fairfield đã đi tới cùng với một người gác rừng. Đi về hướng biên giới phía tây bắc. Không cách xa khu điền trại và bảo tồn tư nhân của nhà Waalenberg.
Việc tìm kiếm gần đó đòi hỏi y phải giám sát ngay lập tức.
Đó là một đêm sôi sục, phải đi nhanh chân và phải điều phối, nhưng mội việc hầu như đã qua rồi, thứ rượu ngon đã trở về chiếc lọ của nó.
Chỉ trừ một hạng mục cuối cùng cần phải xử lý.
Không còn có lý do gì để trì hoãn thêm nữa.
Y nhấc số điện thoại và quay số máy riêng. Y chờ đợi đầu dây đằng kia nhấc máy, gõ chiếc bút máy vào cuốn sổ tay.
— Cứ báo cáo đi. - Giọng nói căng thẳng khi đường dây, kết nối.
— Tôi vừa phỏng vấn anh ta xong.
— Và thế nào?
— Anh ta chẳng trông thấy gì cả… chẳng có gì rõ ràng.
— Thế có nghĩa là như thế nào?
— Có nói là nhìn thấy bóng hình thứ gì đó. Nhưng anh ta không thể xác định đó là gì.
Sau đấy là một lúc im lặng khá lâu.
Gerald cảm thấy hồi hộp.
— Báo cáo của anh ta sẽ được hiệu đính. Sư tử. Đó sẽ là kết luận. Chúng tôi sẽ đưa vào vài biện pháp tốt và kết thúc vấn đề này vào hôm khác hoặc lúc nào đó. Người này trong khi chờ đợi đã bị quản thúc.
— Tốt lắm. Anh biết việc anh phải làm.
Kellogg cãi lại.
— Hắn đã bị quản thúc. Hắn không dám làm ầm lên. Tôi đã dọa hắn đủ rồi. Tôi không nghĩ rằng…
— Chính xác là như vậy. Tôi không nghĩ gì cả. Anh có lệnh của anh. Làm nó giống như một tai nạn.
Đường dây điện thoại vang tiếng tách ngắt máy.
Kellogg đặt ống nghe xuống. Căn phòng dường như lặng tĩnh cho dù có tiếng ù ù của máy điều hòa và một chiếc quạt máy. Không gì có thể thực sự kéo lui được cái nóng hầm hập của vùng đồng cỏ đang lúc ngày càng nóng lên.
Nhưng không phải cái nóng làm cho những giọt mồ hôi chảy trên trán y.
Y có mệnh lệnh của chính mình.
Và y biết rất rõ là không tuân lệnh.
Y liếc nhìn sổ ghi chép trên bàn. Y đã lơ đãng để đó lúc nói chuyện trên điện thoại, một biểu hiện không thoải mái của người ở đầu dây đằng kia làm y cảm nhận được.
Gerald vội vàng ghi chép vài dòng, xé tờ giấy ra và xé nát trang đó thành những mảnh nhỏ. Không có bằng chứng.
Chưa bao giờ. Đó là quy tắc. Và y đã có mệnh lệnh của chính mình.
Làm việc đó giống như một tai nạn.
• 5 giờ kém 10 phút sáng.
Ở độ cao 37.000 feet trên bầu trời nước Đức.
— Sau một giờ nữa chúng ta sẽ hạ cánh, - Monk nói. - Có anh nên cô ngủ đi một chút.
Gray vươn vai. Tiếng máy rì rì của máy bay phản lực Challenger 600 đã ru anh ngủ, nhưng tâm trí của anh vẫn bám vào những sự kiện của ngày đã qua, cố gắng lắp ghép; những chi tiết của bài toán đố lại với nhau. Cuốn Kinh thánh Darwin mở ra trước mặt anh.
— Fiona thế nào? - Anh hỏi.
Monk gục đầu đi về phía chiếc ghế gần đuôi máy bay Fiona nằm co quắp như con tôm trong chăn.
— Cuối cùng cũng gục rồi. Cho cô bé xỉu bằng thuốc giảm đau. Trẻ con thường lém lắm.
Cô bé nói chuyện liên miên kể từ lúc hai người đến sân bay Copenhagen. Từ đây đã báo cho Monk bằng điện thoại, và anh đã bố trí một ô tô riêng để chở họ an toàn đến chiếc máy bay phản lực chờ sẵn, đang nạp thêm nhiên liệu. Logan bỏ qua tất cả những thủ tục ngoại giao và thị thực.
Thế nhưng Gray vẫn chưa thể thở dễ dàng mãi cho đến lúc chiếc máy bay Challenger cất cánh bay vào không trung.
— Viên đạn làm cô bé bị thương à?
Monk nhún vai và thả người vào chiếc ghế gần đó.
— Thực ra chỉ bị xước thôi. Hừ, vết xước thực ra cũng khá sâu. Mấy ngày tới sẽ rất đau đấy. Nhưng chỉ cần có thuốc sát trùng, mỡ dưỡng da và băng bó, cô bé sẽ ổn vì trong hai ngày tới sẽ lại có mưa. sẵn sàng tỉa thêm một số người đi.
Monk vỗ tay vào chiếc áo khoác, để đảm bảo rằng cái ví của mình vẫn còn nằm đó.
— Cô bé chỉ ăn cắp ví thay cho cách chào hỏi. - Gray nói. Anh giấu một nụ cười mệt mỏi. Grette Neal đã giải thích như thế với anh ngày hôm qua. Lạy Chúa, mới chỉ là ngày hôm qua ư?
Trong khi Monk cai quản Fiona, Gray đã báo cáo với Logan. Người giám đốc tạm thời này không vui khi được nghe về chuyện phiên lưu của anh ở khu đấu giá… một cuộc đấu giá mà Gray đã bị cấm tham gia. Ấy vậy, thiệt hại đã có rồi. May mắn thay, anh vẫn còn giữ được thẻ nhớ chứa đựng tất cả những ảnh chụp của .những người tham gia, kể cả ảnh của một đôi trai gái có tóc trắng như băng. Anh đã trao tất cả cho Logan, cùng với những bản fax của một số trang trong Kinh thánh và ghi chép của anh. Anh thậm chí còn đã gửi bản vẽ vết xăm hình chiếc lá ba nhánh mà anh đã phát hiện vào cái đêm bị người ta tấn công. Một đội ám sát tóc trắng không biết là ai.
Logan và Kat làm việc ở đầu kia để khẳng định xem ai đứng sau tất cả những chuyện này. Logan đã gửi đề nghị với chính quyền Copenhagen. Họ đã báo cáo là không có ai chết ở trong công viên cả. Dường như xác của kẻ bị ám sát mà họ có vết quần áo đã biến mất. Vậy nên hậu quả của chuyến bay của họ từ khu công viên giải trí Tivoli chứng tỏ không tồi tệ hơn là những vết bầm tím và những vết xước của các vị khách. Không có vết thương nào trầm trọng… ngoại trừ một xe diễu hành bị hỏng.
Anh theo dõi Monk kiểm tra túi quần bò của mình.
— Nhẫn vẫn còn đấy chứ? - Gray hỏi, lấy ngón tay chọc vào bạn mình.
— Cô bé không việc gì phải ăn trộm cái đó.
Gray cần phải cấp chứng chỉ cho Fiona. Những ngón tay thó nhanh như chớp.
— Vậy là cậu sẽ kể cho tớ về cái hộp đựng nhẫn chứ? - Gray hỏi, gập cuốn Kinh thánh Darwin lại.
— Tôi muốn làm cho cậu phải ngạc nhiên bằng chuyện này.
— Monk này, tôi không biết rằng cậu lại để ý nhiều thế.
— Im đi nào. Ý tôi là tôi muốn kể cho cậu về chuyện này lúc rảnh rỗi, không phải… không phải vì cô Coppefiield ở đằng kia làm xiếc bất thần lôi nó ra khỏi cái mũ.
Gray tựa lưng vào ghế, nhìn vào mặt Monk, khoanh hai tay lại.
— Vậy là cậu sắp sửa đưa ra câu hỏi. Tôi không biết… bà Kat Kokkalis. Bà này sẽ không bao giờ muốn điều đó.
— Tôi cũng không nghĩ như vậy. Tôi đã mua cái của nợ đó cách đây hai tháng. Tôi cũng chưa có lúc nào để hỏi bà ấy.
— Đúng ra, cậu vẫn chưa có đủ can đảm thôi.
— Hừ, cũng có thể là như vậy.
Gray vươn tới và vỗ vào đùi Monk.
— Cô ấy yêu cậu đấy Monk ạ. Khỏi phải lo nghĩ đi.
Anh cười nhăn nhở như một cậu học sinh. Đối với Monk thì đó không phải là cái hay ho gì. Thế nhưng Gray vẫn nhận ra tầm sâu của tình cảm trong mắt anh. Cùng với vẻ ghê sợ. Monk xoa cổ tay. Bất chấp sự dũng cảm của mình, người đàn ông này vẫn bị chấn động bởi chuyện phiền toái năm ngoái. Sự chú ý của Kat đã chuyển sang việc chăm sóc vết thương cho anh. Hơn bất cứ một bác sĩ nào. Vậy mà một nhịp tim đập bất an vẫn còn tồn tại.
Monk mở chiếc hộp bằng vải nhung màu đen nhỏ và nhìn vào chiếc nhẫn đính hôn bằng vàng ba kara.
— Có lẽ tớ nên lấy một hạt kim cương lớn hơn… đặc biệt là bây giờ.
— Ý cậu muốn nói gì?
Monk liếc mắt về phía anh. vẻ mặt mới thể hiện trên nét mặt. Một hy vọng run rẩy là cách tốt nhất để mô tả vẻ mặt này.
— Kat có mang rồi.
Gray ngồi dậy, ngạc nhiên.
— Cái gì cơ? Như thế nào?
— Tớ nghĩ rằng cậu biết như thế nào. - Monk nói.
— Lạy Chúa lòng thành… xin chúc mừng. - Anh bật nói vẫn đang cố hồi phục. Câu cuối cùng bật ra nghe giống một câu hỏi. - Tôi muốn nói… là hiện nay cậu đang ở với đứa bé đấy chứ.
Monk rướn lông mày lên.
— Tất nhiên - Gray nói, lắc đầu với vẻ ngớ ngẩn của mình.
— Vẫn còn sớm lắm. - Monk nói. - Kat không muốn bất cứ ai biết… cô ấy nói rằng kể cho cậu thì được.
Gray gật đầu, lấy thêm thời gian để hiểu rõ thông tin này. Anh cố hình dung Monk trong bức tranh của một người bố và ngạc nhiên thấy việc tưởng tượng của mình sao mà dễ thế.
— Lạy Chúa tôi, thật tuyệt vời.
Monk nắm chặt chiếc hộp đựng nhẫn.
— Thế còn cậu thì sao?
Gray nheo mày.
— Về phần tôi á?
— Cậu và Rachel ấy. Cô ấy đã nói gì khi cậu gọi điện thoại cho cô ấy về chuyện trốn chạy trong công viên Tivoli?
Lông mày Gray co rúm lại.
Mắt Monk mở to.
— Gray này…
— Cái gì?
— Cậu đã không gọi điện thoại cho cô ấy phải không?
— Tôi không nghĩ…
— Cô ấy ở cùng với Carabinieri. Vậy nên cậu biết cô ấy đã nghe chuyện về cuộc tấn công khủng bố có thể có tại Copenhagen. Đặc biệt là một loại bom gây tiếng động lớn trong một công viên đông người và chỗ xe diễu hành. Cô ấy phải biết là cậu đã dính dáng.
Monk nói đúng. Anh nên phải gọi điện ngay cho cô ấy.
— Grayson Pierce ơi, tớ sẽ phải làm gì với cậu đây? - Monk lắc đầu buồn bã. - Khi nào thì cậu sẽ thả cô ấy ra?
— Cậu đang nói về chuyện gì thế?
— Thôi đi. Tôi rất vui là cậu và Rachel đã thôi, nhưng chuyện này thực sự sẽ đi tới đâu?
Gray hứng lên.
— Chuyện này không dính dáng gì đến việc của cậu, nhưng đó là những gì chúng ta đã lên kế hoạch thảo luận tại đây trước khi tất cả những chuyện xấu xảy ra qua đi.
— Cũng may mà nó đổ vỡ đối với cậu.
— Cậu biết đấy, chỉ vì cậu đã có một chiếc nhẫn đính hôn hai tháng trong túi không làm cho cậu trở thành một chuyên gia ái tĩnh.
Monk giơ cả hai bàn tay lên.
— Thôi được… quay lại một chút… tớ chỉ đang nói là…
Gray không để cho anh thoát khỏi móc câu một cách dễ dàng như vậy.
— Gì cơ?
— Cậu thực sự là không muôn có một mối quan hệ nghiêm túc.
Anh nháy mắt khi nói lời tấn công trực diện như thế.
— Cậu đang nói chuyện gì vậy? Rachel và tớ đang ngả lại phía sau một chút để được việc. Tớ yêu Rachel. Cậu biết điều đó mà.
— Tó biết là cậu yêu. Tớ chưa bao giờ nói khác đi. Nhưng cậu chỉ không muốn có một mối quan hệ thực sự nghiêm túc với cô ấy. - Monk giơ ngón tay đếm ba mục. - Đó có nghĩa là một người vợ, một khoản cầm cố, và có con.
Gray chỉ lắc đầu.
— Tất cả những gì cậu đang làm với Rachel chỉ là việc thưởng thức lần hẹn gặp đầu tiên kéo dài.
Gray tìm một câu vặc lại, nhưng Monk vẫn cứ tấn công sát sạt. Anh nhớ lại nó lung tung, vụng về như thế nào mỗi lần anh và Rachel gặp nhau, một vùng đệm cần phải vượt qua trước khi sự thân mật sâu hơn có thể tái lập. Giống như lần hẹn hò nhau đầu tiên.
— Tớ đã quen cậu từ bao lâu rồi nhỉ? - Monk hỏi
Gray lảng tránh câu hỏi.
— Và trong suốt thời gian đó cậu đã có bao nhiêu cô bạn gái nghiêm túc rồi nhỉ? - Monk giơ nắm tay thành một số không to tướng. - Và nghe này, cậu đã chọn ai cho mối quan hệ nghiêm túc đầu tiên.
— Rachel tuyệt vời.
— Đúng vậy. Và tớ nghĩ rằng điều tuyệt vời là cuối cùng cậu đã cởi mở hơn. Nhưng mà anh bạn ơi, ta nói chuyện về việc dựng lên những rào cản không thể có.
— Rào cản gì cơ?
— Đấy, biển Đại Tây Dương là một rào cản. Đứng giữa cậu và một mối quan hệ nghiêm túc. - Monk chìa ba ngón tay về phía anh.
Vợ, đồ cầm cố, con cái.
— Cậu vẫn chưa sẵn sàng, - Monk nói. - Tớ có ý là tớ nhắc tới chuyện có mang của Kat và cậu đáng ra đã phải nhìn thấy khuôn mặt của mình. Xua đuổi nỗi ám ảnh ra khỏi cái đầu cậu. Và đó là con tôi.
Nhịp tim của Gray nặng nề đập trong cổ họng. Anh cảm thấy mình thở dốc. Đau nhói ở trong lòng.
Monk thở dài.
— Cậu có những vấn đề, anh bạn của tôi ạ. Có lẽ điều gì đó cậu cần phải làm đi cho xong bằng sức mạnh của cậu. Tớ không biết nữa.
Gray được cứu nguy không phải trả lời bởi một tiếng chuông trên hệ thống liên lạc nội bộ của máy bay.
Viên phi công báo cáo.
Chúng ta đã bay khoảng ba mươi phút. Chúng ta sẽ bắt đầu giảm độ cao.
Gray liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Mặt trời đã lên ở hướng Đông.
Có lẽ tớ sẽ cố dành thêm chút thời gian, - Gray làu bàu nói phả vào mặt kính cửa sổ. - Đợi khi chúng ta hạ cánh.
Nghe được đấy.
Gray quay mặt lại phía Monk, anh mở miệng định đáp lời theo cách thức đối lại những lời của Monk, nhưng anh trở lại với thực tế.
— Tớ quả thực đã yêu Rachel.
Monk chỉnh lại ghế ngồi và vươn tới phía anh nói gằn giọng.
— Tớ biết mà. Đó chính là thứ mà làm cho sự nghiệp khó khăn như vậy.
• 5 giờ 45 phút sáng
Ở khu bảo tồn Htuhluive - Umfoỉozi
Khamisi Taylor đang nhấm nháp tách chè trong một phòng đợi nhỏ. Mặc dầu đã được ngoáy kỹ pha với mật để làm ngọt, anh chẳng cảm thấy vị ngọt đó.
— Không có cơ hội nào để Marcia còn sống nữa ư? - Paula Kane hỏi.
Khamisi lắc đầu. Anh đã không trốn tránh thực tế. Nó không phải là lý do anh đã tới đây sau khi bị trưởng đồn gác rừng giáng xuống cấp. Anh chỉ muốn rút lui vào căn nhà một phòng ngủ của anh ở rìa khu bảo tồn, nơi mà có một loạt các dãy nhà cho những người gác phải trực thuê. Khamisi tự hỏi anh sẽ có thể ở lại trong ngôi nhà này bao lâu nếu như việc quản thúc sẽ biến thành một lệnh sa thải.
Thế nhưng anh đã không quay trở lại ngay căn nhà. Thay vào đó anh ta lái xe nửa đường ngang qua khu công viên, đến một cụm nhà tạm trú, một dãy nhà nhỏ nơi mà các nhà nghiên cứu ở khu công viên sống trong thời gian những đồng tiền nghiên cứu đề tài của họ vẫn còn.
Khamisi đã qua dãy nhà hai tầng kiểu thuộc địa sơn màu trắng này nhiều lần, có những cây bàng tỏa bóng rộng, một khu vườn nhỏ, và một sân chơi nhỏ nơi có đàn gà thường lang thang. Hai cư dân ở đây dường như không bao giờ hết tiền đề tài. Trong thực tế, lần trước Khamisi đã ở đây là lần tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ mười của những người phụ nữ làm việc trong công viên này. Trong cộng đồng khoa học, họ đã trở thành một bộ phận tại Hluhluwe - Umfolozi như là năm con thú lớn đeo vương miện.
Nhưng giờ đây họ chỉ còn có một.
Tiến sĩ Paula Kane ngồi trên một chiếc đi - văng nhỏ, xinh ngang bên chiếc bàn thấp từ phía Khamisi. Nước mắt đầy trong khóe mắt bà, nhưng má thì vẫn còn khô.
— Ổn mà. - Bà nói. Ánh mắt bà đang lướt trên bức tường treo ảnh, một bức ảnh toàn cảnh của một cuộc đòi hạnh phúc. Anh biết rằng hai người này đã bên nhau kể từ khi tốt nghiệp trường ở Oxford nhiều năm trước đây. - Tôi không có nhiều hy vọng đâu.
Bà là một người phụ nữ nhỏ bé, dáng hình mảnh mai, có mái tóc sậm màu muối tiêu, cắt ngắn ngang vai. Mặc dầu anh biết bà đã vào những năm cuối của tuổi năm mươi, nhưng bà trông trẻ hơn chục tuổi. Bà vẫn luôn giữ một vẻ đẹp cứng rắn, thể hiện một niềm tin tưởng, luôn vượt qua bất cứ kiểu trang điểm nào. Nhưng sáng nay, bà trông héo hon, như một bóng ma của chính mình, những vẻ đầy sức sống đã biến mất. Trông cứ như là bà đi ngủ mà vẫn mặc nguyên cả quần ka ki và chiếc áo sơ mi trắng.
Khamisi không nói lời nào để xoa dịu nỗi đau đang cắn xé từng nét trên con người bà, chỉ nói một lòi cảm thông.
— Tôi xin lỗi chị.
Ánh mắt của Paula quay lại với anh.
— Tôi biết là cậu đã làm mọi thứ mà cậu có thể làm. Tôi cũng nghe thấy tiếng ầm ầm ngoài đó. Một người phụ nữ da trắng chết, nhưng một người đàn ông da đen lại sống. Chuyện đó sẽ không tồn tại với một số loại người nhất định ở đây.
Khamisi biết là bà đang nhắc đến viên trưởng đồn gác rừng. Paula và Marcia đã cụng đầu với người này nhiều lần rồi. Bà cũng như những người khác biết được mối quan hệ dây mơ dễ má và địa vị hội viên của viên gác rừng. Trong khi đảng Apathai phân biệt chủng tộc có thể đã bị đập tan ở trong các thành phố và thị trấn, ngoài nơi rừng rậm này, thì huyền thoại về người Thợ săn Da trắng Vĩ đại vẫn còn chế ngự.
— Cái chết của chị ấy không phải lỗi của cậu. - Paula nói, đọc lên được điều gì đó trên khuôn mặt anh.
Anh quay mặt đi. Anh cảm nhận được sự thông cảm của bà ta, nhưng cùng lúc những lời buộc tội của tay gác rừng cũng đã gợi lên những sai sót của riêng anh. về lý, anh biết anh đã làm tất cả những gì anh có thể để bảo vệ tiến sĩ Fairfield. Nhưng anh đã chạy ra khỏi rừng. Còn bà thì không. Đó là những thực tế.
Khamisi đứng trơ ra đó. Anh không muốn vào sâu thêm nữa. Anh đã đến đây để tỏ sự kính trọng và để kể với tiến sĩ Kane trực tiếp về những gì đã trải qua. Anh đã làm được việc này.
— Tôi nên đi thôi. - Anh nói.
Paula đứng đấy và tiễn anh đến chỗ cửa có rèm. Bà chạm vào người anh giữ anh lại trước khi anh đi.
— Theo ý cậu thì đó là cái gì? - Bà hỏi.
Anh quay mặt lại phía bà.
— Cái gì đã giết chết chị ấy? - Paula hỏi.
Khamisi nhìn ra ngoài ánh nắng mặt trời, quá trong sáng để nói chuyện về những con quỷ. Người ta cũng đã cấm anh thảo luận về chuyện này rồi. Việc của anh là đi đúng tuyến.
Anh liếc nhìn xuống Paula và kể cho bà sự thật.
— Đó không phải là sư tử.
— Vậy thì cái gì?
— Tôi sắp tìm ra.
Anh lao qua cánh cửa có rèm và bước xuống bậc thang. Chiếc ô tô nhỏ đã gỉ của anh ngồi bêu nắng ngoài trời. Anh lướt qua sân đến xe, trèo vào ô tô, và quay hướng về nhà.
Sáng hôm đó, đã lần thứ một trăm, nỗi khủng khiếp của ngày trước đấy được diễn đạt cởi mở. Anh chỉ có nghe tiếng rú của động cơ trên nền vang vọng của con ukufa đang đi săn mồi gào thét. Không phải sư tử. Anh sẽ không bao giờ tin được điều đó.
Anh đến dãy nhà sàn, nhà làm tạm và không có máy điều hòa. Những căn nhà này gồm có khu ở của công nhân làm việc ở đây trong công viên. Anh phanh xe tung bụi đỏ mù ngay cạnh cửa sân trước.
Rã rời, anh sẽ nghỉ ngơi vài tiếng đồng hồ.
Rồi thì anh sẽ đi tìm sự thật.
Anh đã biết anh muốn bắt đầu cuộc điều tra của mình ở đâu.
Nhưng cái đó phải đợi đã.
Lúc anh đi đến gần hàng rào sân trước, Khasimi nhận thấy cánh cửa hé mở. Anh nhớ là mình luôn cài cửa trước khi đi làm mỗi ngày. Vậy thì khi đêm qua có tin báo về chuyện mất tích, chắc hẳn có người đã đến đây để kiểm tra xem anh có nhà hay không.
Vẫn thế, sự sắc bén của giác quan Khasimi chưa bao giờ cùn… ngay cả từ khi anh nghe thấy tiếng kêu đầu tiên trong rừng rậm. Trong thực tế anh còn nghi rằng giác quan của anh không biết đã từng nghỉ ngơi bao giờ chưa.
Anh lẻn trượt qua cổng. Anh nhận thấy cánh cửa trước dường như chắc chắn. Anh phát hiện ra thư bưu chính gửi cho anh thò ra từ hộp thư, chưa ai động tới. Anh bước lên bậc thang, từng bước một.
Anh trèo thang, chỉ ước ao có một thanh lan can để vịn.
Tấm ván sàn kêu kót két. Âm thanh đến từ những tấm ván ngay dưới chân anh… nhưng cũng đến từ bên trong ngôi nhà của anh.
Tất cả những giác quan của Khasimi thúc giục anh bỏ chạy.
Không lặp lại. Lần này không được.
Anh đã lên đến hiên, đứng sang một bên và thử lay chốt cửa.
Không khóa.
Anh lắc chốt cửa ra và đẩy cửa mở. Gần phía sau nhà lại một thanh gỗ ván sàn kọt kẹt cọ vào nhau.
Ai đấy? - Anh gọi to.
• 8 giờ 52 phút sáng
Himalayas
— Lại đây mà xem này.
Painter chợt tỉnh giấc, thấy tỉnh táo ngay. Cơn nhức đầu như dao đâm vào khoảng giữa hai mắt. Anh lăn ra khỏi giường, vẫn mặc nguyên quần áo. Anh vẫn chưa nhận ra rằng anh đã thiếp đi.
Anh và Lisa đã quay lại phòng họ cách đó hai tiếng, có lính gác đi kèm. Anna cần phải giải quyết một số vấn đề và thu xếp bố trí một số hạng mục mà Painter đã yêu cầu.
— Tôi bẵng đi bao lâu nhỉ? - Anh hỏi, cơn nhức đầu từ từ lụi đi.
— Tôi không biết là anh ngủ.
Lisa vắt chân chữ ngũ bên bàn trước lò sưởi. Cô để mấy tờ giấy trên đỉnh lò.
— Không thể quá mười lăm… hai mươi phút. Tôi muốn anh xem cái này.
Painter đứng lên. Căn phòng bé tẹo để hít một hơi, rồi anh lại ngồi xuống. Không hay rồi. Anh xoay ngang sang phía Lisa và ngả xuống bên cô.
Anh nhận thấy chiếc máy ảnh của cô trên một tờ giấy. Lisa đã đề nghị những kẻ bắt giữ cô phải trả lại chiếc máy Nikon coi như hành động hợp tác đầu tiên.
Cô đẩy một tờ giấy về phía anh.
— Xem này.
Lisa đã vẽ một hàng những hình biểu tượng ngang tờ giấy. Painter nhận ra ngay những chữ Run mà Hòa thượng Khemsar vẽ nguệch ngoạc trên tường. Chắc hẳn cô vừa vẽ lại từ chiếc máy ảnh số. Painter thấy mỗi biểu tượng có chữ tương ứng ở dưới.
— Đây là mã thay thế đơn giản. Mỗi một nét chữ Run là một chữ cái. Đã thử nghiệm và tính sai số rồi.
— Schwarze Sonne, - Anh đọc to,
— Mặt trời Đen. Tên của dự án ở đây.
— Vậy là vị Hòa thượng Khemsar biết tất cả chuyện này.
— Painter lắc đầu. - Vị sư già có những mối quan hệ ở đây.
— Và đơn giản nó đã làm cho ông kinh hãi. - Lisa lấy lại tờ giấy. - Chứng điên chắc hẳn đã thức dậy những vết đau cũ. Làm những vết đau sống động lại.
— Hoặc có thể vị Hòa thượng đang hợp tác, coi giữ thiền viện làm trạm gác cho pháo đài này.
— Nếu thế thì hãy xem kiểu hợp tác đó mang lại lợi ích gì cho ông ta. - Lisa nói thẳng vào vấn đề.
— Đấy có phải là một ví dụ về phần thưởng chúng ta sẽ được hưởng vì sự hợp tác này không?
— Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Đó là cách duy .nhất đế sống. Để cần thiết.
— Và sau tất cả những cái đó? Khi chúng ta không còn cần thiết nữa?
— Họ sẽ giết chúng ta. - Painter không đưa ra những ảo tưởng. - Hợp tác của chúng ta chỉ có thể cho chúng ta thêm thời gian.
Painter nhận thấy cô không hề nao núng với thực tế mà lại có thêm sức mạnh từ tình huống. Một quyết tâm nổi cứng trên vai cô.
— Thế ta sẽ làm gì trước? - Cô hỏi
— Hiểu rõ bước đầu tiên trong bất cứ cuộc xung đột nào.
— Và đó là?
— Hiểu biết kẻ thù.
— Tôi nghĩ tôi biết quá nhiều về bản chất mụ Anna và đội quân của mụ.
— Không. Tôi muốn nói là việc phát hiện ra ai là kẻ đứng đằng sau vụ đánh bom ở đây. Kẻ phá hoại… và có kẻ nào khác đã thuê mướn. Có chuyện gì đấy lớn hơn đang diễn ra ở đây. Một vài hành động phá hoại… làm loạn xạ hệ kiểm soát an toàn của Cái chuông, mấy vụ ốm đau đầu tiên… họ làm ra thế để lôi kéo chúng ta. Phun ra chút khói. Dụ chúng ta đến đây bằng tin đồn đại về những bệnh quái đản.
— Nhưng tại sao họ làm thế?
— Để bảo đảm rằng nhóm của Anna bị phát hiện và bị đóng cửa. Cô không thấy lạ là Cái chuông, tâm điểm của công nghệ này, là thứ duy nhất bị phá hủy sau khi chúng ta đến đây à? Điều ấy có thể gợi lên điều gì?
— Khi họ muốn đóng cửa Dự án của Anna, họ không muốn tâm điểm của công nghệ này rơi vào tay bất cứ kẻ nào khác.
Painter gật đầu.
— Và có thể còn có chuyện thảm khốc hơn. Tất cả những thứ này có thể là đánh lạc hướng. Cái trò lộn sòng ném đá giấu tay. Xem đây này, khi trò lừa đảo thật được giấu biến đi. Nhưng ai là ảo thuật gia bí mật đang dang cánh? Mục đích của hắn là gì, dự định gì? Đó là điều chúng ta phải tìm ra.
— Thế còn thiết bị điện tử mà anh sẽ trưng dụng của Anna?
— Có lẽ, đấy là cách giúp chúng ta lần theo dấu vết con chuột ở đây. Nếu chúng ta bẫy được tên phá hoại này, chúng ta có thể có được vài câu trả lời, tìm ra xem ai đang thực sự giật dây ở đây.
Một tiếng gõ cửa làm cả hai giật mình.
Painter đứng dậy lúc thanh chốt cửa được tháo ra và cánh cửa bật mở.
Anna xộc vào cùng Gunther bên cạnh mụ. Tên lính gác này đã rửa mặt cạo râu kể từ lần cuối Painter gặp hắn. Dấu hiệu của người này cho thấy không còn tên gác nào khác theo hắn vào phòng. Hắn thậm chí không cầm theo súng.
— Tôi nghĩ rằng các vị có thể cùng chúng tôi ăn sáng. - Anna nói. - Lúc ta ăn sáng xong, thiết bị mà các vị đề đạt sẽ đến đây.
— Tất cả các thiết bị sao? Làm cách nào? Lấy từ đâu?
— Kathmandu. Chúng tôi đã giấu ở một bãi đậu trực thăng phía bên kia sườn núi.
— Thật à? Và các người chưa bao giờ bị phát hiện?
Anna nhún vai.
— Đơn giản là xếp các chuyến bay của chúng tôi cùng hàng tá chuyên du ngoạn ngắm cảnh của khách du lịch và những người leo núi. Viên phi công sẽ trở lại trong vòng một giờ.
Painter gật đầu. Anh lên kế hoạch làm sao sử dụng cho tốt nhất một tiếng đồng hồ đó.
Vận dụng trí khôn.
Bài toán nào cũng có lòi giải. ít nhất thì anh đã hy vọng vậy.
Họ ra khỏi phòng. Hành lang bên ngoài đông người bất thường. Tiếng nói chuyện trao đổi râm ran. Ai cũng có vẻ bận rộn, hoặc cáu bẳn, hoặc hằn học liếc nhìn họ… cứ như thể Painter và Lisa mức độ nào đó bị đổ lỗi cho vụ phá hoại ở đây. Nhưng không ai đến quá gần họ. Bước chân nặng nề của Gunther dẹp đường đi. Kẻ cầm tù họ trở thành kẻ bảo vệ họ.
Cuối cùng họ đến phòng làm việc của Anna.
Một cái bàn dài đặt trước lò sưởi. Những khúc củi đã chất đầy. Xúc - xích, bánh mì đen, nồi xúp nóng, cháo, pho - mát, dâu tây, mận và dưa hấu.
— Sắp có cả một tiểu đoàn đến ăn sáng cùng chúng ta sao?
— Tiếp nhiên liệu liên tục là quan trọng nhất trong khí hậu lạnh, quan trọng cho cả nhà và cho cả trung tâm.
Anna nói, thể hiện người Đức tốt bụng.
Họ ngồi xuống ghế. Mời nhau thức ăn. Một gia đình lớn hạnh phúc.
— Nếu mà có bất cứ hy vọng chữa chạy nào, - Lisa nói. - Chúng tôi cũng phải biết thêm nữa về Cái chuông của các vị. Lịch sử của nó… máy vận hành thế nào.
Anna, mặt sưng sỉa suốt từ lúc đi đến đây, giờ mới bừng sáng. Nhà nghiên cứu không khoái thảo luận về những phát hiện của họ?
— Nó bắt đầu như một thí nghiệm máy phát năng lượng. - Mụ bắt đầu nói. - Một động cơ mới. Cái chuông có tên như vây là do hình dáng cái bầu của nó giống cái chuông, đó là một bình khổng lồ bằng gốm, dung tích một trăm ga - lông, láng chì. Bên trong có hai xi - lanh thép lồng vào nhau mà hai xi - lanh này quay ngược chiều nhau.
Anna lấy hai ban tay của mình để mô tả.
— Để bôi trơn vài chất lỏng trong Cái chuông là kim loại lỏng giống thủy ngân. Cái thứ mà được gọi là chất Xerum 525.
Painter nhớ lại cái tên.
— Đó là chất chị nói rằng không làm lại được phải không?
Anna gật đầu.
— Chúng tôi đã cố gắng mấy chục năm nay rồi, vãn hồi - chất kim loại lỏng. Hợp chất đó chối từ thử nghiệm. Chúng tôi biết nó gồm có chất thorium và ô - xi già beryllium, nhưng chỉ thế thôi. Và chúng tôi biết chắc chắn rằng Xerum 525 là phụ phẩm của công trình nghiên cứu năng lượng điểm không tuyệt đối của Phát xít. Nó đã được điều chế trong một phòng thí nghiệm khác, phòng thí nghiệm bị phá hủy ngay sau chiến tranh.
— Và các vị vẫn chưa tìm được cách điều chế thêm? - Painter hỏi.
Anna lắc đầu.
— Nhưng thực sự thì Cái chuông làm ra cái gì mới được?
Lisa hỏi.
— Như tôi đã nói rồi, đơn thuần là một thí nghiệm. Chủ yếu là một cố gắng chế ngự được năng lượng vô tận của điểm không. Mặc dầu có lần các nhà nghiên cứu của Đức quốc xã đã dùng nó, người ta thấy có những tác động lạ lùng. Cái chuông phát ra ánh sáng xanh nhạt. Các thiết bị điện trong một vòng bán kính lớn đều bị đoản mạch. Có người chết. Trong một loạt những thí nghiệm sau đó, họ có điều chỉnh thiết bị và lắp thêm vật che chắn. Các thí nghiệm được thực hiện dưới lòng của một mỏ quặng bỏ hoang. Không có vụ người chết thêm, nhưng dân làng cách đó một kilômét theo báo cáo là bị mất ngủ, hoa mắt chóng mặt và co thắt các cơ. Cái chuông đã phóng ra chất gì đó. Người ta ngày càng quan tâm hơn.
— Như một thứ vũ khí tiềm năng? - Painter đoán.
— Tôi không thể nói được. Phần lớn hồ sơ đã bị trưởng nhóm nghiên cứu tiêu hủy. Song chúng tôi biết nhóm nghiên cứu gốc đã phơi nhiễm tất cả các loại sinh vật vào Cái chuông: địa y, nấm mốc, trứng, thịt, sữa. Toàn bộ các loài động vật nữa. Loài có xương sống và loài không xương sống. Gián, ốc sên, tắc kè, cóc, chuột nhắt, chuột cống.
— Còn trên cùng cái chuỗi thực phẩm đó thì sao? - Painter hỏi. - Con người ấy.
— Tôi e là cũng có. - Anna gật đầu. - Đạo đức thường hay gây thương tổn cho tiến bộ.
— Vậy chuyện gì đã xảy ra trong các đợt thí nghiệm?
Lisa hỏi, cô mất hết hứng thú với đĩa thức ăn. Không phải lạc khẩu vị với vấn đề đề tài mà là hứng thú làm người ta mở to đôi mắt.
Anna dường như cảm thấy mối quan tâm chung, mụ quay sang chú ý đến Lisa.
— Lại lần nữa những tác động không thể lý giải được. Chất diệp lục trong thực vật bị biến mất, làm cho cây cỏ trắng. Chỉ trong vài giờ cây cỏ mục rữa thành một thứ bùn nhão nhờn. Ở động vật, máu đóng cục trong các mạch máu. Chất kết tinh sẽ xuất hiện trong các mô, phá hủy các tế bào từ các mô đó ra.
— Để tôi đoán nhé. - Painter nói. - Chỉ có loài gián là không bị ảnh hưởng.
Lisa cau mày nhìn anh, sau đó quay sang Anna.
— Chị có biết cái gì đã gây ra những tác động này không?
— Chúng tôi chỉ có thể phỏng đoán. Thậm chí ngay cả bây giờ. Chúng tôi tin rằng Cái chuông khi nó quay, nó tạo ra một cơn lốc từ trường cực mạnh. Sự có mặt của chất Xerum 525, một phụ phẩm của công trình trước đây nghiên cứu điểm không, khi phơi nhiễm vào lốc từ trường này, tạo ra một tinh hoa của những năng lượng lượng tử.
Painter tổng kết tất cả trong đầu mình. - Vậy là Xerura 525 là nguồn nhiên liệu và Cái chuông là đầu máy.
Anna gật đầu.
— Biến Cái chuông thành máy xay sinh tố. - Giọng một người mới làu nhàu.
Mọi con mắt đổ dồn về phía Gunther. Hắn đang nhồm nhoàm đầy mồm xúc xích. Đây là lần đâu tiên hắn tỏ vẻ quan tâm đến cuộc hội thoại.
— Một lời mô tả thô thiển nhưng chính xác. - Anna đồng tình. - Nếu anh tưởng tượng bản chất thông dụng của điếm không giống như một cái bát nhào trộn kem làm bánh. Cái chuông xoay tròn nhúng vào đó và hút năng lượng lượng tử lên vẩy vào môi trường của chúng ta, vẩy theo kiểu quay của các hạt nguyên tử kỳ lạ. Những thí nghiệm đầu tiên là những cố gắng điều khiển tốc độ của máy nhào trộn này và kiểm soát phương pháp vẩy.
— Để làm cho đõ lộn xộn.
— Và cùng với đó làm giảm tác động phụ. Và họ đã thành công. Những tác động bất lợi đã bị kiềm tỏa và đã có thành công đáng ghi nhận.
Painter biết rằng họ đang vào tâm điểm của vấn đề.
Anna vươn người lên phía trước.
— Thay vì làm thoái hóa các mô sinh học, các nhà nghiên cứu Đức quốc xã bắt đầu nhận thấy có sự tăng cường. Rêu mốc phát triển nhanh. Địa y có hướng phát triển thành địa y khổng lồ. Chuột nhắt phản xạ nhanh hơn, và chuột cống tỏ ra thông minh hơn. Tính nhất quán của kết quả không thể chỉ quy cho những đột biến ngẫu nhiên. Và họ thấy rằng động vật càng ở cấp cao hơn thì càng hưởng lợi hơn từ việc bị phơi nhiễm.
— Vậy là chủ thể thí nghiệm con người đi tiếp sau đó. - Painter nói.
— Ta hãy giữ một tầm nhìn có bối cảnh lịch sử, thưa ngài Crowe. Đức quốc xã tin rằng họ sẽ vùng dậy tiến hóa sang chủng tộc siêu đẳng mới. Và đây là một công cụ để làm được việc đó trong một thế hệ. Đạo đức không có lợi lộc gì. Việc bắt buộc phải làm còn lớn hơn.
— Để tạo ra một chủng tộc thiên chủ. Để thống trị toàn thế giới.
— Vậy là Đức quốc xã đã tin như vậy. Để đạt được đích cuối cùng ấy, họ đã đầu tư nhiều công sức vào thúc đẩy nghiên cứu Cái chuông. Nhưng trước khi họ hoàn thành công việc thì họ hết thời gian. Nước Đức sụp đổ. Cái chuông được mang đi sơ tán để nghiên cứu có thể được tiếp tục bí mật thực hiện. Đây là hy vọng lớn cuối cùng của Đế chế thứ Ba, Đức quốc xã. Một cơ hội cho chủng tộc Aryan nảy sinh đời mới. Để vươn dậy và thống trị thế giới.
— Và Himmler đã chọn chốn này? - Painter nói. - Sâu thẳm trong dãy Himalayas. Điên rồ thật. - Anh lắc đầu.
— Thường thì đã có rất nhiều lần, chính điên rồ hơn là thiên tài đã đẩy thế giới tiến lên. Ai khác nữa nếu không phải là những kẻ điên đi quá xa, vươn tới những điều bất khả? Và khi làm như vậy họ chứng minh những điều bất khả lại là khả thi.
— Và có lúc nó chỉ đơn thuần sáng tạo ra những phương tiện diệt chủng hữu hiệu nhất.
Anna thở dài ngao ngán.
Lisa đưa câu chuyện trở lại vấn đề:
— Phần nghiên cứu trên người như thế nào?
Cô giữ giọng lãnh đạm.
Anna nhận ra người cùng bàn ăn với mình có vẻ dân chuyên nghiệp hơn.
— Thí nghiệm ở người trưởng thành, tác động vẫn có hại. Đặc biệt khi đặt ở mức cao. Song phần nghiên cứu không dừng ở đó, khi một bào thai bị phơi nhiễm trong tử cung, thì cứ sáu đứa trẻ sinh ra trong thí nghiệm phơi nhiễm đó, có một đứa thể hiện khá hơn đáng kể. Biến đổi gien ở bào thai cho ra những đứa trẻ có hệ cơ phát triển. Những phần khác cũng tăng cường khá hơn. Mắt tinh hơn, phối hợp tay và mắt tốt hơn và có chỉ số thông minh IQ cao kỳ lạ.
— Siêu hài nhi. - Painter nói.
— Nhưng rất buồn là những đứa bé đó hiếm có đứa nào sống quá hai tuổi. - Anna nói. - Trên thực tế chúng bắt đầu thoái hóa và xanh xao. Tinh thể hình thành trong các mô. Các ngón tay ngón chân bị hoại tử và rụng.
— Thú vị thật. - Lisa nói. - Nghe giống những tác động phụ như loạt thí nghiệm đầu tiên.
Painter liếc nhìn cô. Có phải cô ấy nói rằng thú vị? Ánh mắt của Lisa dán vào Anna đầy phấn khích. Làm sao cô ấy lại có thể lãnh đạm đến thế được nhỉ? Rồi anh để ý thấy đầu gối trái của Lisa rung lên xuống dưới gầm bàn. Anh chạm tay và giữ cái đầu gối lại. Cô run rẩy dưới tay anh. vẻ bề ngoài, nét mặt cô vẫn giữ vẻ bàng quan. Painter hiểu rằng tất cả vẻ hứng thú của cô chỉ là giả vờ. Cô đang kìm nén sự giận dữ và kinh hoàng, cho phép anh chơi cái trò cớm hay cớm dở. Thái độ hợp tác của cô cho phép anh thẩm vấn thêm bằng một vài câu hỏi thẳng băng, tất cả là để có được những câu trả lời mà anh đang cần.
Painter bóp mạnh vào đầu gối cô thể hiện anh công nhận những cố gắng của cô.
Lisa tiếp tục đóng kịch.
— Chị có nói là một bé thể hiện khá hơn trong cuộc đời ngắn ngủi. Thế còn năm cháu kia thì sao?
— Chúng vẫn được sinh ra. Đột biến gien chí tử. Mẹ chết. Tỉ lệ tử vong cao.
— Thế ai là mẹ chúng? - Painter hỏi, bật ra vẻ phẫn nộ cho cả hai người phụ nữ. - Họ không hề tình nguyện, tôi đồ rằng như thế.
— Đừng phán xét quá gắt gao như thế, thưa ngài Crowe. Ngài có biết mức độ tử vong ở trẻ sơ sinh tại đất nước của ngài không? Nó còn tồi tệ hơn một số nước thế giới thứ ba. Những cái chết đó phỏng có ích gì?
Ôi, trời đất ơi, mụ này không thể nghiêm túc được hay sao. Một sự so sánh nực cười.
— Phát xít có mệnh lệnh của họ. - Anna nói. - ít ra thì họ cũng nhất quán.
Painter tìm kiếm vài lời để quạt lại mụ, nhưng sự tức giận bó lấy lưỡi anh.
Thay vào đó Lisa lên giọng. Cô đặt tay mình chồng lên bàn tay anh đang đặt trên đầu gối cô, siết chặt.
— Tôi đồ rằng các nhà khoa học Phát xít này đã tìm cách nào đó đế hoàn thiện Cái chuông, để loại bỏ hoàn toàn các tác động phụ.
— Tất nhiên. Nhưng cuối cuộc chiến, không đạt được tiến bộ nhiều. Chỉ có một báo cáo dạng giai thoại rằng đã hoàn toàn thành công. Một đứa trẻ cứ cho là hoàn hảo đi. Trước khi có chuyện này, tất cả trẻ em sinh ra dưới Cái chuông đều mang một dị tật nhẹ nào đó. Các mảng da mất màu do huyết sắc tố, các cơ quan mất cân đối, màu mắt khác lập dị. - Anna liếc nhìn Gunther, rồi quay lại. - Nhưng đứa trẻ này lại tỏ ra không có tì vết nào. Thậm chí phân tích gien thô qua thử nghiệm cũng không thấy lỗi nào. Nhưng mà kỹ thuật dùng để đạt kết quả này thì lại không ai biết. Ông trưởng ban nghiên cứu đã bí mật thực hiện thí nghiệm cuối cùng này. Khi ông nội tôi đến để sơ tán Cái chuông, ông trưởng ban nghiên cứu đã phản đối và phá hủy tất cả những ghi chép cá nhân trong phòng thí nghiệm. Đứa bé đã chết sau đó.
— Vì tác động phụ à?
— Không phải. Cô con gái của ông trưởng ban nghiên cứu đã trẫm mình quyên sinh cùng đứa trẻ.
— Tại sao lại thế?
Anna lắc đầu
— Ông tôi đã từ chối nói chuyện đó. Như tôi đã nói rồi, câu chuyện chỉ là giai thoại thôi mà.
— Tên của ông trưởng ban nghiên cứu là gì? - Painter hỏi.
— Tôi không nhớ đâu. Tôi có thể tra lại, nếu anh thích.
Painter nhún vai. Giá mà anh được truy cập vào các máy vi tính của đội Sigma. Anh cảm thấy còn nhiều điểu hơn nữa cho câu chuyện của ông nội mụ Anna.
— Và sau khi sơ tán? - Lisa hỏi. - ở đây vẫn tiếp tục nghiên cứu à?
— Đúng. Mặc dầu tách biệt, chúng tôi vẫn giữ nhịp điệu với cộng đồng khoa học đang tung hoành bên ngoài. Sau chiến tranh, các nhà khoa học Đức quốc xã bay đi tứ tung; nhiều người vào các dự án đen tối trên khắp thế giới. Châu Âu, Liên Xô, Nam Phi. Hợp chủng quốc Hòa Kỳ. Họ là tai mắt của chúng tôi ở nước ngoài, lọc số liệu cho chúng tôi. Một số họ vẫn tin tưởng vào sự nghiệp. Một số người bị tống tiền vì quá khứ của họ.
— Và các vị vẫn bám theo thời cuộc.
Một cái gật đầu.
— Trong vòng hai thập kỷ sau đó, có những bước nhảy vọt. Trẻ siêu nhân được sinh ra sống lâu hơn. Chúng được nuôi dưỡng như những ông hoàng ở đây. Được gắn danh hiệu Ritter des Sonnekõnige. Kỵ sĩ của Hoàng đế Mặt trời. Để ghi nhớ chúng sinh ra từ Dự án Mặt trời Đen.
— Sao mà lắm bọn Wagnerifan vậy?
Painter nhạo báng.
— Có lẽ. Ông nội tôi thích truyền thống. Nhưng tôi cho anh biết rằng tất cả những chủ thể thí nghiệm ở đây, tại Granitscholob này, đều là tình nguyện viên hết.
— Nhưng đây có phải là lựa chọn đạo đức không? Hay là vì các vị không có người Do Thái nào ở Himalayas?
Anna cau mày, thậm chí chẳng thèm có một lời bình phẩm nhận xét của anh. Mụ tiếp tục nói:
— Trong khi tiến bộ là chắc chắn, tình trạng suy sụp tiếp tục gây hại cho Sonnekõnige. Triệu chứng vẫn xuất hiện khoảng hai năm, song triệu chứng nhẹ hơn. Chuyện gì sẽ xảy ra khi suy thoái ác tính trở thành một thứ suy thoái kinh niên. Cùng với tuổi thọ tăng lên, một triệu chứng mới xuất hiện: thần kinh suy sụp. Hoang tưởng ác tính, tâm thần phân liệt, rối loạn tinh thần.
Lisa nói to:
— Những triệu chứng cuối… nghe giống như những gì xảy ra cho các tăng lữ tại thiền viện.
Anna gật đầu:
— Tất cả vấn đề là ở chỗ cường độ và lứa tuổi khi bị phơi nhiễm. Trẻ em bị phơi nhiễm trong bụng mẹ ở mức độ có kiểm soát dưới bức xạ lượng tử của Cái chuông tỏ ra khá hơn nhiều, tiếp sau đó chúng bị suy thoái kinh niên cả đời. Trong khi người lớn, như Painter và tôi, bị phơi nhiễm loại bức xạ không có kiểm soát ở mức trung bình, thì bị dạng suy thoái ác tính hơn, suy sụp nhanh hơn. Nhưng các vị sư, bị phơi nhiễm phóng xạ ở mức cao thì tiến triển ngay lập tức thành trạng thái suy thoái thần kinh.
— Thế còn nhóm Sonnekõnige? - Painter nói.
— Giống như chúng tôi, không có phương thuốc cứu chữa căn bệnh của họ. Trong khi Cái chuông hứa hẹn giúp ích cho chúng tôi, thì nhóm Sonnekõnige lại miễn dịch với Cái chuông. Dường như là bị phơi nhiễm lúc còn trẻ làm cho họ kháng lại được với bất cứ kiểu vận hành nào của Cái chuông - dù hay dù dở.
— Vậy là họ phát điên hết? - Painter hình dung những siêu nhân đầy thịnh nộ có mặt khắp nơi trong lâu đài.
— Tình hình như vậy đã đe dọa an ninh của chúng tôi. Việc thử nghiệm trên con người thực tế đã phải dừng lại.
Painter không thể giấu được ngạc nhiên.
— Chị từ bỏ công cuộc nghiên cứu à?
— Không hẳn vậy. Thử nghiệm trên người đã tỏ ra là biện pháp thí nghiệm phi hiệu quả. Mất quá lâu để biết được kết quả. Đã dùng các mẫu mới. Giống chuột nhắt lai chuyển gien, mô phôi thai cấy trong ống nghiệm, các tế bào gốc. Cùng với bản đồ gien người, việc thử DNA đã trở thành một phương pháp nhanh nhất để đánh giá tiến độ. Tốc độ của chúng tôi đã tăng lên. Tôi cho rằng nếu chúng tôi bắt đầu lại dự án Sonnekốnige, hôm nay chúng tôi đã có nhiều kết quả tốt hơn.
— Vậy thì tại sao các vị lại không cố thử làm xem?
Anna nhún vai.
— Chúng tôi vẫn thấy chứng mất trí trong các con chuột nhắt thí nghiệm. Đó là điều đáng lo. Nhưng phần lớn, chúng tôi bỏ nghiên cứu lâm sàng trên người vì những mối quan tâm của chúng tôi trong thập niên qua đã chuyển nhiều sang lâm sàng. Chúng tôi không tự coi mình là cánh chim báo bão về một chủng tộc làm ông chủ nữa. Thực tế chúng tôi không còn là Đức quốc xã nữa. Chúng tôi tin rằng công việc của chúng tôi mang lại lợi ích cho cả loài người, một khi công trình hoàn hảo.
— Vậy sao không cho ra đi? - Lisa hỏi.
— Và bị luật pháp của các dân tộc khác trói buộc và sư ngu dốt nữa chứ? Khoa học không phải là một tiến trình dân chủ. Những rào cản đạo đức chuyên quyền chỉ có thể làm chậm tiến độ của chúng tôi đi mười lần. Điều đó không thể chấp nhận được.
Painter phải cố trấn tĩnh không để tỏ thái độ khinh bỉ. Dường như là có một thứ triết học Phát xít vẫn còn đang phát triển ở đây.
— Thế những đứa con của mặt trời, hội Sonnekõnige thì sao? - Lisa hỏi.
— Bi kịch nhất là chúng. Rất nhiều đứa đã chết vì suy thoái, nhiều đứa khác bị giết nhân đạo khi tâm trí của chúng hỏng hết cả. Ấy nhưng vẫn còn một nhúm sống sót. Như tên Klaus chẳng hạn, kẻ mà ngài vừa gặp đấy.
Painter hình dung lại tên lính gác khổng lồ lúc mới gặp. Anh nhớ cái chi bị liệt và khuôn mặt căng thẳng của hắn, những dấu hiệu của thoái hóa. Sự chú ý của Painter chuyển sang Gunther. Tên này bắt gặp cái nhìn của anh, khuôn mặt hắn khó hiểu. Một mắt thì xanh lơ, mắt kia thì xám ngoét. Lại là một tên Sonnekonige.
— Gunther là người cuối cùng sinh ra ở đây.
Anna chỉ qua vai hướng về phía kẻ to con.
Những nếp nhăn hằn sâu hơn, song Gunther vươn tới và xắn ống tay áo của mình lên lộ ra cẳng tay mình. Hắn chìa ra một hình xăm màu đen.
— Biểu tượng của Sonnekõnige, những đứa con của mặt trời. - Anna nói. - Một dấu hiệu của danh dự, trách nhiệm và nhiệm vụ.
Gunther kéo tay áo xuống, giấu biểu tượng đi.
Painter thoáng nhớ lại lúc trên xe trượt tuyết đêm qua, lời nói cạnh nói khóe của một tên lính gác khác ám chỉ Gunther. Cái từ hắn dùng là gì nhỉ? Leprakõnige. Vua Hủi. Đơn giản là người ta ít tôn trọng những kỵ sĩ trước đây của vua mặt trời. Gunther là người cuối cùng của loại này, đang từ từ thoái hóa vào lãng quên. Ai sẽ khóc than cho đám ma hắn đây?
Ánh mắt Anna lưu lại nơi Gunther một lát trước khi tập trung chú ý lại đến họ.
Có lẽ sẽ có một người khóc than chịu tang.
Lisa nói to. Cô vẫn nắm tay Painter.
— Có một thứ mà chị phải nắm bắt rõ. Cái chuông. Nó đang gây ra những biến chuyển này như thế nào? Chị có nói là những biến chuyển đó quá nhất quán để những cá thê đột biến vì trường hợp ngẫu nhiên.
Anna gật đầu.
— Thực ra nghiên cứu của chúng tôi không chỉ giới hạn ở tác động của Cái chuông. Phần lớn nghiên cứu tập trung vào phương thức hoạt động của nó.
— Các vị đã đạt được nhiều tiến triển không? - Painter hỏi.
— Tất nhiên. Trong thực tế, chúng tôi dám chắc rằng chúng tôi đã những nguyên lý cơ bản của tính năng hoạt động.
Painter chớp chớp mắt ngạc nhiên:
— Thật thế sao?
Lông mày Anna cong lên.
— Tôi nghĩ là hiển nhiên rồi. - Mụ liếc nhìn giữa hai người Painter và Lisa. - Cái chuông kiểm soát Sự tiến hóa.
• 7 giờ 35 phút sáng
Khu bảo tồn Hluhluive - Umfolozi
— Ai đấy? - Khamisi nhắc lại, đứng nguyên giữa ngưỡng cửa nhà mình. Có người ẩn náu bên trong, phía sau phòng ngủ.
Hay là con thú gì chăng.
Các chú khỉ thường hay đột nhập vào nhà, đôi khi thú lớn cũng làm vậy.
Ấy nhưng anh không bước vào. Anh căng mắt ra nhìn, song tất cả cánh rèm đều đã kéo che. Sau khi phóng xe đến đây trong ánh sáng mặt trời nhập nhoạng, bóng nhòa của căn nhà anh vẫn tôi như trong rừng rậm.
Đứng ở hiên nhà, Khamisiíthò tay qua cửa để rờ công tắc đèn. Các, ngón tay anh run run. Anh tìm thấy công tắc và bật đèn lên. Một cái bóng đèn đơn bật lên chiếu sáng căn phòng trước đồ đạc sơ sài và cái bếp gá thấp phía dưới. Nhưng ánh sáng chẳng chỉ được cho anh biết ai hay cái gì đang đợi anh trong buồng ngủ phía sau.
Anh nghe như có tiếng sột soạt phía sau.
— Ai đấy?
Một nhát kim đau nhói bên cổ anh cắt ngang lời anh nói. Giật mình, anh ngã về phía trước lộn vào căn phòng. Tay anh vồ đập vào chỗ bị cắn. Ngón tay cảm thấy cái gì như lông gà cắm ở đó.
Anh lôi nó ra và nhìn kỹ, nghẹn thở vì không hiểu nổi.
Một mũi tiêu.
Anh vẫn hay dùng tiêu để bắn thuốc ngủ vào các con thú lân.
Nhưng cái mũi tiêu này thì khác.
Nó rời ra từ những ngón tay anh.
Thời khắc mung lung không hiểu chuyện gì là lúc đủ để chất độc chạy đến não của anh. Thế giới lật nghiêng nghiêng. Khamisi cố gượng lấy lại thăng bằng nhưng không được.
Sàn gỗ trông như lao sầm vào mặt anh.
Anh cố gượng mình, song vẫn đổ sụp mạnh xuống, đầu va cốp xuống sàn. Hoa cà hoa cải tung tóe trong bóng tối. Đầu óc anh lao đao. Từ góc nhìn được, anh thấy có một sợi dây thừng trên các thanh ván. Anh xoáy nhìn kỹ hơn. Không phải dây thừng.
Con rắn. Dài khoảng mười feet.
Anh nhận ra nó ngay.
Loài hắc mãng xà.
Nó đã chết, bị chặt làm đôi. Một con dao rựa nằm bên cạnh đó. Con dao rựa của anh.
Lạnh cứng làm tê bại chân tay anh khi sự thật phũ phàng làm anh chột dạ.
Mũi tiêu tẩm thuốc độc.
Mũi tiêu này không giống những mũi tiêu mà anh dùng ngoài thực địa. Mũi tiêu này có hai đầu kim. Giống như mũi nanh.
Anh dán mắt vào con rắn chết.
Có bố trí mất rồi.
Chết vì rắn cắn.
Từ phòng ngủ phía sau, ván sàn kêu kèn kẹt. Anh chỉ còn đủ sức quay đầu nhìn. Một bóng người đứng ở chỗ cửa ra vào, được ánh đèn chiếu vào, nhìn anh chăm chú, không biểu cảm.
Không
Không có lý.
Tại sao lại thế?
Anh sẽ không có câu trả lời.
Bóng tối phủ cuộn lấy anh, lôi anh đi.