V - Chương 3


Số từ: 3135
Thể Loại: Tiểu Thuyết Hư Cấu
Người dịch: Nguyễn thị Bạch Tuyết
NXB Văn Học
Thật may mắn, ông bà Melnikoff tìm được một trường tư có quá ít nam sinh đến nỗi không thể đưa ra sân một đội bóng bầu dục và vì thế chỉ chuyên về bóng đá. Bruce là cầu thủ trẻ nhất đội và xét về nhiều mặt là người giỏi nhất. Ở tuổi mười bốn, vốn là một thiếu niên nhỏ nhắn với phản xạ của chiếc lò xo nén, cậu đã giúp trường mình đánh bại các đội bóng từ những trường lớn hơn nhiều và nhờ vậy nhanh chóng hòa mình vào cuộc sống ở trường cũng như ở tổ quốc mới. Khi một tờ báo Detroit đăng ảnh cậu trong vai trò tiền đạo xuất sắc nhất bang - hầu như trong bang chẳng có trường nào chơi bóng đá - thì cũng là một kiểu thừa nhận. Bruce Clifton vững bước trên con đường trở thành người Mỹ.
Nhà trường có tác động kỳ lạ lên cậu. Hầu hết bạn học của cậu không phải người Do Thái, và lần đầu tiên trong đời cậu bắt đầu hiểu ra làm một người Do Thái có ý nghĩa như thế nào, vì như cậu nói với anh bạn người Grosse Pointe không phải Do Thái ở cùng phòng,
Ở Haifa ai cũng là người Do Thái. Cậu không bao giờ nghĩ rằng có thể còn bất cứ dân tộc nào khác – tất nhiên trừ người Ả rập, mà họ thì cũng Do Thái như chúng tớ thôi. Mâu thuẫn giữa Ả rập và Do Thái mang tính chính trị nhiều hơn là sắc tộc.

Nhưng việc là ngôi sao bóng đá không tránh cho cậu khỏi cái thành kiến thông thường trong một trường tư thục Mỹ. Cậu được biết nhà trường cũng có chỉ tiêu và cậu thật may mắn vì ông ngoại cậu có ảnh hưởng nên cậu, Bruce, mới được nhận vào một trong những ngôi trường vốn là niềm mơ ước của người Do Thái. Cậu cũng được báo trước rằng trên thực tế một số trường đại học có thể cậu muốn ghi danh cũng có chỉ tiêu.
Họ không ghi trong sách giới thiệu, cậu hiểu không,
một người bạn Do Thái khác giải thích,
mà đơn giản là họ không nhận quá nhiều người Do Thái, tớ cho là họ không thể.


Với tớ việc đó không thành vấn đề.
Bruce bật cười.
Trong trường đại học mà tớ sẽ đăng ký, cha tớ là chủ nhiệm khoa và mọi người đều là dân Do Thái.

Nhưng còn có những vấn đề khác, những vấn đề không thể tránh. Khi trường tổ chức vũ hội, sinh viên Do Thái mời bạn nhảy Do Thái và có phần quanh quẩn với nhau. Ngoài ra, Bruce khó mà giữ mồm giữ miệng khi động đến những vấn đề liên quan đến sự xuất sắc của trường. Cậu hay nói,
Tại trường Reali ở Haifa, chúng tớ học những thứ vớ vẩn này từ hồi mười tuổi.
Cậu bình luận thường xuyên đến nỗi giáo viên cũng được nghe phong thanh về những lời khoe khoang khoác lác nực cười của cậu và phải nhắc nhở, vậy là ngay sau đó cậu viết thư về Haifa xin đề cương bài giảng cậu học khi lên mười và chứng minh mình đã nói đúng. Trường Israel vượt xa trường Mỹ ít nhất là ba năm, nhưng đến lúc này thì ông Melnikoff phải kéo cháu mình ra một chỗ bảo,
Một người đàn ông biết suy xét không bao giờ khoe khoang về hai điều. Người vợ đầu đáng yêu như thế nào và ngôi trường trước đó tốt như thế nào. Hãy ngậm miệng lại.

Vì vậy sau đó Bruce chuyển sang bàn luận về sinh hoạt quân sự ở Israel và kể con gái Israel lớn hơn nữ sinh ở trường này một chút đã là lính như thế nào và cậu đã tham gia huấn luyện cùng một đơn vị quân đội và từng phụ trách việc liên lạc của họ ra sao.

Tớ nghĩ cậu ấy hút cần sa,
một cầu thủ bóng đá phát biểu sau khi nghe cậu kể say sưa về ba ngày trong sa mạc Negev, nhưng trong khi đó Bruce lại nói với ông ngoại,
Cháu thấy đám con trai Mỹ ấy non nớt kinh khủng so với những cậu nhóc cháu biết ở Haifa. Ông biết sự khác nhau ấy chứ? Bọn chúng chẳng làm được gì cả. Bọn chúng là trẻ con thành phố. Cứ cho chúng ra khỏi thành phố mười dặm xem, chúng sẽ lạc luôn!
Tuy nhiên, Bruce thấy mình càng ngày càng mang đậm tính cách Mỹ hơn, và cậu không quá buồn rầu trước thay đổi đó. Ông ngoại cậu đưa cậu tới bãi chạy thử của hãng Pontiac, và dù chưa đủ tuổi có bằng lái cậu cũng được phép thử những kiểu xe mới, lao ầm ầm với tốc độ tám mươi dặm một giờ trên những con đường cao tốc giả. Ông cậu nói với các đối tác kinh doanh,
Rõ ràng thằng bé đã quyết định sống ở đây cho đến cuối đời. Thế là phải, vì nó thuộc về nơi này.

Nhưng Bruce còn lâu mới quyết định. Hè nào cậu cũng bay về Israel, và ngay khi nhìn thấy dãy đồi Galilee chan hòa ánh nắng hay khi theo những người bạn lớn hơn diễn tập ở sa mạc Negev, cậu lại cảm thấy mình bị lôi cuốn một cách mạnh mẽ về phía quốc gia Do Thái. Hai cô em gái cũng thu hút cậu về với Israel; cậu thích cách hai cô bé thích nghi với cuộc sống, thích sự không kiêu kỳ hay màu mè của chúng. Thanh niên Israel không quá khác biệt so với thanh niên trên khắp thế giới, nhưng thiếu nữ Israel có vẻ gì đó khá mới mẻ và cậu nhận thấy mình thích những người này hơn mẫu người tương ứng ở Mỹ.

Con chưa gặp cô gái Mỹ hạng nhất nào đấy thôi,
mẹ cậu tranh luận.
Cứ chờ cho đến khi con lên đại học và xem những gì đang đợi con tại trường Vassar và Smith.


Năm nay con sẽ xem xét vấn đề đó khi quay trở lại,
cậu nói với mẹ vào cuối hè 1965, nhưng năm tiếp theo cũng không có gì mang tính quyết định hơn năm trước. Cậu vẫn chưa tìm được cô gái Mỹ nào mình thích; vẫn làm bạn bè phát chán khi nói với họ trường học ở Haifa tốt hơn nhiều như thế nào; và cậu vẫn làm họ bất bình bằng những câu chuyện về các cuộc diễn tập quân sự trên sa mạc. Điều duy nhất thay đổi là ông ngoại cậu cho lắp đặt tại nhà riêng của họ ở Grosse Pointe một trạm radio tuyệt vời với cột ăng ten có thể kéo vào, và khi đám bạn học thấy Bruce thông thạo thiết bị này như thế nào, và cậu quen biết những người trực tổng đài khắp thế giới như thế nào, họ bắt đầu tự hỏi liệu có thể nào cậu đã nói thật về những kinh nghiệm trong quân đội.
Rồi đến chuyến tham quan Thành phố Đỏ của cậu, và mọi thứ đều thay đổi. Ở Haifa, lũ trẻ hay hát một bài thường khiến cha mẹ chúng khiếp sợ. Bài hát tên là
Bản ballad về Thành phố Đỏ
kể về cuộc thám hiểm Negev lúc nửa đêm. Lần đầu tiên bà Doris Zmora nghe cậu con trai Yigal khe khẽ hát bài này, thì thầm những lời:

Ta là một người đàn ông.
Ta sẽ đến Thành phố Đỏ.
Ta dũng cảm tiến về hướng Đông...

Bà kêu lên,
Yigal! Con không bao giờ được hát bài ấy một lần nào nữa. Không bao giờ!

Cậu bật cười trước nỗi sợ của bà, và hai ngày sau lại bị bắt gặp đang hát bài hát kích động ấy. Lần này, mẹ cậu mời cha cậu tới, tiến sĩ Zmora nói,
Mẹ con nói đúng. Đừng để bài hát ấy ăn sâu vào máu.


Tại sao lại không ạ?


Vì nó dẫn tới cái chết. Cái chết vô nghĩa. Và bất cứ cái chết vô nghĩa nào cũng là điều khủng khiếp.


Con không sợ.


Không đáng sợ với người chết... chỉ với người bị bỏ lại thôi.

Nhưng, cũng như nhiều thanh niên Israel khác trên khắp đất nước này, Yigal vẫn hát cho mình nghe bài đó, và một buổi sáng mùa hè năm 1966, cậu đang đợi trong sân nhà ở Haifa thì một chiếc xe hơi màu đen chở hai thanh niên chầm chậm chạy qua, một người nghiêm trang gật đầu với Yigal khi chiếc xe đi tiếp. Tránh gây nghi ngờ, Yigal chậm rãi kết thúc công việc đang làm, vào nhà, vơ lấy áo khoác và lang thang xuống phố. Cô em gái Shoshana đang trên đường về nhà thì gặp anh trai và để ý đến chiếc áo khoác, cảm thấy thật kỳ lạ khi cậu mang nó theo vào một ngày nóng bức như vậy. Cô bé quay lại nhìn theo và thấy anh mình nhảy lên một chiếc ô tô màu đen hình như đang đứng đợi cậu, nhưng về đến nhà cô không nói gì cả. Tuy nhiên, khi Yigal không xuất hiện tại bàn ăn tối thì sự thật mới vụt hiện lên trong tâm trí cô như ánh sáng lóe lên trong bóng tối.

Anh ấy đi đến Thành phố Đỏ!
Cô kêu lên.
Con biết mà!
Trong giọng nói của cô bé rộn lên một niềm hân hoan khiến cha mẹ cô hoảng sợ, vì họ biết cô đã đoán đúng.
Trong lúc đó, Yigal và các bạn đang tiến đến gần thành phố lịch sử Beersheba nằm ở rìa phía Bắc sa mạc Negev. Không giảm tốc độ, họ băng qua khu chợ lạc đà của thành phố họp thứ Năm hàng tuần và bắt đầu tiến vào sa mạc lổn nhổn đá chắn giữa họ và mục tiêu.
Khi đã đi khá sâu trong sa mạc Negev, họ rẽ vào một con đường nằm ở hướng Đông đã được một người trong nhóm thăm dò hồi hè năm ngoái, và một lúc sau, đúng như họ lường trước, con đường kết thúc, vì vậy họ đi tắt qua sa mạc, lái xe không đèn và chỉ nói chuyện thì thầm. Phía Bắc có một con đường khá tốt, gần như dẫn đến tận nơi họ muốn tới, nhưng những nhà phiêu lưu giống như họ đã rút ra bài học xương máu là không nên đi con đường ấy vì nó dẫn đến cái chết.
Cuối cùng họ dừng lại giữa đường, xuống xe và bắt đầu phăng phăng tiến về hướng Đông, vậy là chẳng bao lâu sau họ đã rời khỏi Israel bước vào khu vực Wadi Arabah thuộc Jordanie, một lòng chảo rộng lớn hoang vu chạy xuôi phía Nam đến vùng vịnh. Họ rảo bước trên vùng đất trống trải, vì sẽ rất dễ bị tấn công nếu hỏa lực của kẻ địch chộp được họ ở đó, và họ kịp thời mất hút vào nơi an toàn giữa những quả đồi thấp quanh co.
Giờ đây, họ phải phụ thuộc vào tính chính xác của bản đồ, vì một lần rẽ nhầm cũng có thể ném họ hoặc vào tay kẻ thù và cầm chắc cái chết hoặc rơi vào một đường cụt nào đó không thể dẫn họ tới Thành phố Đỏ. Bản đồ của họ rất chính xác, và khoảng hai giờ sáng họ nhận ra một số đặc điểm giúp họ yên tâm là đã đi đúng đường đến thành phố.
Lúc này họ đề ra nguyên tắc tuyệt đối im lặng, hai cậu thanh niên lớn hơn chĩa súng lục về phía trước trong lúc bò qua đám cỏ. Họ tiếp tục tiến như vậy khoảng một giờ thì đến trước một con dốc đứng gồ ghề đá nhắp nhô, mỗi tảng đá đều có thể là nơi ẩn nấp của một tên lính Ả rập. Chính trên con dốc này, mỗi lần thanh niên Do Thái bất ngờ chạm trán lính tuần, phần lớn đều mất mạng, vì cả hai bên đều hiểu bất cứ kẻ xâm nhập nào tìm cách tới Thành phố Đỏ sẽ bị bắn ngay khi bị phát hiện, và ngược lại họ cũng sẽ nổ súng vào bất kỳ người lính nào định ngăn cản. Trong hai năm qua, mười sáu thanh niên Israel đã bị sát hại khi chơi cái trò kinh khủng này; hơn ba trăm người đã vượt qua vùng đất nguy hiểm này, thì thầm trong lúc bò lên phía trước:

Ta là một người đàn ông.
Ta sẽ đến Thành phố Đỏ.
Ta dũng cảm tiến về hướng Đông...

Sau một hồi leo dốc mệt mỏi, bộ ba đặc biệt lên được một khoảnh đất nhỏ bằng phẳng, và trong ánh trăng mờ mờ họ có thể nhìn thấy nó trải dài về phía trước vài thước Anh, kết thúc tại nơi có vẻ như là một vách đá dốc đứng đổ xuống thung lũng phía dưới. Chàng trai dẫn đầu dùng khẩu súng ra hiệu cách anh định dẫn họ băng qua khoảnh đất đó, và hai người còn lại lặng lẽ nối đuôi bám theo.
Luồn lách như rắn vượt sa mạc, họ bò trong bóng tối mờ mờ, đến sát mép vực thì tất cả đều nín thở, vì phía dưới họ hiện ra một trong những cảnh tượng kỳ vĩ nhất thế giới - thành phố Hoa hồng Đỏ Petra cổ kính, các tháp canh và nơi đi dạo sáng lên trong đêm tối như những vì sao rực rỡ bất tử.

Chao ôi!
Yigal thở hổn hển.
Họ nằm đó khoảng mười lăm phút, say sưa chiêm ngưỡng vẻ huy hoàng của thành phố được tạc lên mặt vách đá hàng bao nhiêu năm trước khi Đức Chúa chào đời này. Thủ phủ màu Đỏ từng có thời là nơi trú ngụ của nửa triệu người ấy giờ đây bị bỏ hoang, nhưng những bóng ma của nó vẫn còn lảng vảng, vì trong ánh trăng mờ nhạt ba thanh niên Do Thái có thể thấy những ngôi đèn rộng lớn, kho chứa bạc lạ mắt, trụ sở chính quyền và mọi thứ khác thuộc về quyền lực mà từng có thời những người xây nên thành phố này được hưởng. Nó không giống bất kỳ thành phố nào khác trên trái đất vì không tòa nhà nào đứng vững được... một mình. Tất cả đều được tạc trong đá thẳng đứng, vì vậy phía sau mỗi công trình vẫn là đá chưa khai thác. Đó là một thành phố vĩnh viễn ở trong quá trình hình thành, không bao giờ được hoàn thành. Thời Thánh Paul, nó kiểm soát toàn bộ vùng đất kéo đến tận Damascus ở phía Bắc, nhưng thành phố này đã bị diệt vong vì thiếu nước. Không khí trở nên khô đến nỗi không tòa nhà nào bị xói mòn; chúng vẫn đứng vững như hai nghìn năm trước, sừng sững trong đêm với vẻ uy nghi hùng vĩ.

Mình đã nhìn thấy Thành phố Đỏ,
một trong ba chàng trai nói, và những lời đó đã biến anh ta thành một người Do Thái khác hẳn. Nhiều người ca ngợi việc thực hiện hành trình nguy hiểm tới Petra nhưng chỉ một số ít dám liều, vì nếu bị phát hiện tại bất cứ địa điểm nào trên đường, họ sẽ bị chó tấn công và sẽ bị săn đuổi, bị bắn chết.

Mình đã tới Thành phố Đỏ,
Yigal thì thầm trong bóng tối, nhưng đúng lúc đó hai người lính Ả rập tuần tra trên đỉnh dốc để đề phòng những cuộc xâm nhập như vậy tiến lại. Họ đến mỗi lúc một gần hơn, tiến theo hướng sẽ khiến họ buộc phải giẫm lên đám người Do Thái đang nằm túm tụm. Yigal hoảng sợ thấy hai người bạn đã lăm lăm tay súng sẵn sàng nhả đạn, nhưng đến phút cuối mấy người Ả rập lại quay sang nhìn thành phố phía dưới.

Chẳng có gì ở đây cả,
một người nói, và họ đi tiếp. Đợi cho đến khi họ đi khuất khỏi tầm tai nghe, anh bạn dẫn đầu vẫy vẫy súng trong ánh sáng lờ mờ và họ bắt đầu trở lại con dốc, vượt qua Wadi Arabah và tìm thấy chiếc xe trong sa mạc Negev.
Trên đường lái xe về hướng Bắc, không ai tỏ ra hân hoan vì mỗi người đều hiểu họ đã tới gần cái chết như thế nào. Họ không cho mình là những anh hùng đã thực hiện cuộc hành trình của chàng Odyssey, mà họ nghĩ mình là người Do Thái bị những kẻ thù công khai o ép từ khắp mọi phía và cảm thấy sự thôi thúc không cưỡng nỗi buộc họ phải đến thăm một cấm thành mà đối với họ đã trở thành một biểu tượng có ý nghĩa lớn lao đến nỗi không thể diễn tả bằng lời.
Vào lúc Yigal về đến nhà thì gia đình cậu, sau cuộc tranh luận sôi nổi, đã thống nhất không ai được đả động đến sự vắng mặt của cậu. Chiếc xe thả cậu xuống trước cửa nhà lúc ba giờ chiều và cậu ung dung đi vào. Mẹ cậu chào đón cậu như bình thường, còn hai cô em gái cố làm ra vẻ thờ ơ. Trong bữa tối cha cậu chỉ nói đến trường đại học, nhưng khi Yigal đã lên giường và đang thiu thiu ngủ thì chợt nghe thấy tiếng cửa mở. Đó là Ruth, đứa em thứ, và cô thì thầm,
Nó như thế nào hả anh?


Nó ở đó,
cậu đáp, và cô bé thắm thiết hôn má anh.
Mùa đông năm đó, khi cậu lại là Bruce Clifton tại ngôi trường ở Detroit, một số người bạn bạo gan hơn trong lớp cậu bắt đầu thử hút ma túy. Họ tỏ ra rất bí ẩn về chuyện đó và rủ Bruce nhập hội.
Thú lắm!
bọn họ đảm bảo với cậu.
Chà, cậu nhìn thấy những ảo ảnh mà trước kia cậu chưa bao giờ thấy. Còn sex nữa chứ! Tránh sang bên, Errol Flynn[47], vì đã có ta đây rồi!
Khi cậu cho biết cậu không muốn tham gia trò dại dột ấy, họ hỏi,
Cậu nhát gan thế sao?

Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook 6 Người Đi Khắp Thế Gian (Trọn bộ 2 tập).