VIII - Chương 9


Số từ: 2301
Thể Loại: Tiểu Thuyết Hư Cấu
Người dịch: Nguyễn thị Bạch Tuyết
NXB Văn Học
Nghe và hiểu được tiếng Bồ Đào Nha thì không có gì là khó cả. Nếu anh đã biết tiếng Tây Ban Nha thì cũng đọc được tiếng Bồ Đào Nha. Nhưng nói ư? Đó lại là chuyện khác.
Hồi tôi ở Geneva, khi một đồng nghiệp sắp đi Bồ Đào Nha nói với tôi,
Tôi sẽ xoay xở được vì tôi biết tiếng Tây Ban Nha,
tôi không tranh luận dài dòng với anh ta. Tôi chỉ đưa ra tên một mũi đất hoang vắng nơi hoàng tử Henri, nhà hàng hải huấn luyện các thuyền trưởng của mình chuẩn bị cho công cuộc chinh phục châu Phi, hỏi xem anh ta sẽ phát âm như thế nào: Sãgres. Sau khi anh ta đoán thử, tôi nói,
Đó là cách người Tây Ban Nha phát âm, còn người Bồ Đào Nha lại nói Shagrzh thành một âm nén. Nguyên tắc,
tôi khuyên anh ta,
là nuốt càng nhiều nguyên âm càng tốt và đưa vào từng ấy âm h’s.

Vì vậy, một buổi sáng khi Gretchen háo hức nói với tôi,
Nhập hội với chúng cháu đi! Chúng cháu đi thăm Silves đây,
tôi bèn bảo cô,
Nếu các bạn muốn hỏi thăm đường, hãy phát âm là Shilvzh thì hơn.

Gretchen háo hức là vì được biết ở Silves, thủ phủ xưa kia của Algarve, có một lâu đài của quân Thập tự chinh vẫn còn khá nguyên vẹn. Cô nói với tôi, nó đã được các tín đồ Hồi giáo xây dựng hồi thế kỷ thứ mười. Khi tôi hỏi cô làm sao nó trở thành pháo đài của quân Thập tự chinh, và lại ở Bồ Đào Nha, mắt cô sáng ngời với vẻ hăng hái mà tôi từng chú ý khi gặp cô lần đầu tiên ở Boston.
Tôi rất mừng được thấy điều này. Hồi Cuộc Chiến Trăm Năm tỏ ra là một đề tài không đúng như mong đợi, cô không còn bất cứ mối quan tâm chủ yếu nào về mặt trí tuệ nữa, và tôi đã hy vọng một chủ đề mới nào đó ở Tây Ban Nha sẽ thu hút sự chú ý của cô, nhưng không được. Lúc này, nghe nói đến Silves và quân Thập tự chinh, nhiệt tình của cô đã được nhen lại và có khả năng đây chính là đề tài cô sẽ tập trung nghiên cứu.
Cô nói với tôi đầy một giai đoạn lịch sử khá lạ lùng. Trong thời kỳ đầu các cuộc Thập tự chinh, một nhóm hiệp sĩ người Anh và Đức, sùng đạo nhiều hơn can đảm, đã nhẹ cả người phát hiện ra rằng họ không cần vượt biển đến tận Đất Thánh mới có thể chiến đấu với bọn dị giáo. Tình cờ ngay tại Bồ Đào Nha cũng có một số người Moor, ẩn náu trong các thành trì có thể dễ dàng tiếp cận nếu đi từ biển lên và nếu chiếm được mấy nơi này, người ta có thể kiểm soát cả một vùng đất nông nghiệp có lẽ rất màu mỡ.
Vì vậy nhóm các nhà chinh phục bất đắc dĩ kia thả neo ngay phía Nam Lisboa, nơi có một vài tòa lâu đài hiện lên phía chân trời, rồi cho đến tận lúc đã đốt phá nhà cửa và tàn sát cư dân xong, họ mới biết những người đó là tín đồ Cơ Đốc giáo. Người Moor, một trong số những người sống sót nói phều phào, sống xa hơn về phía Nam.
Vậy là đoàn người đi dọc bờ biển để đốt thêm vài thành trì nữa và phát hiện ra rằng chúng thuộc về những người Na Uy từng chinh phục người Moor từ hàng trăm năm trước.
Kẻ thù,
những người sống sót giải thích,
sống ở quá chỗ ngoặt sang Bồ Đào Nha, ở bờ biển phía Nam.

Thế là những kẻ hiếu chiến dũng cảm giong buồm xa hơn về phía Nam, rẽ vào mũi Cabo de São Vicente và đến một bờ biển nơi từ đó họ có thể nhìn thấy kẻ thù thực sự trong lâu đài Silves của quân Moor. Với ngọn lửa rực cháy trong tim, họ lao lên bờ, tàn phá vùng đất nằm giữa bãi biển và lâu đài rồi bao vây dinh lũy của quân dị giáo. Đó là một sự kiện đẫm máu kéo dài và sau nhiều tuần lễ quân Cơ Đốc giáo giành được thắng lợi. Đối với họ, cuộc Thập tự chinh đã kết thúc. Họ củng cố vị thế, chiếm đoạt các vùng đất xung quanh, và gieo rắc nỗi kinh hoàng cho hàng trăm dặm ven biển.
Dân địa phương kể,
Họ là những người Anh đầu tiên định cư ở Algarve, một lũ kẻ cướp dữ tợn đầu têu cho tất cả những kẻ sau.
Huy hiệu của Silves cho thấy tòa lâu đài cổ được hai người lính Thập tự chinh có râu và hai chiến binh Moor dữ tợn đầu quấn khăn canh gác. Dân chúng vẫn còn tranh luận xem kẻ nào đáng sợ hơn.
Chúng tôi lái xe tới Silves trên con đường cao nội địa, thỉnh thoảng lại thoáng thấy đại dương phía bên trái, và tôi vô cùng ấn tượng trước cách Gretchen hướng toàn bộ tâm trí vào những gì cô nhìn thấy:
Nếu chúng ta ở ngoài kia trên một chiến thuyền của quân Thập tự chinh... ngay bây giờ... chúng ta sẽ nhìn thấy con đường này và biết nó dẫn tới một khu định cư nào đó.
Có một lần cô yêu cầu Joe dừng chiếc pop-top lại để cô có thể khảo sát đất đai kỹ hơn.
Nếu là nông dân Anh, anh có thử trồng trọt ở đây không?
Không có gì lại không đáng để cô khảo sát; cô muốn nhớ tên những cây hoa mọc bên đường và những con chim đồng hành cùng họ. Cô trở thành một thuyền trưởng Anh tham gia cuộc Thập tự chinh tám trăm năm trước đây.
Từ trên đường cao, chỉ cần nhìn lướt qua Silves một cái là người ta đã có một bản tóm lược lịch sử, vì ở rìa phía Bắc thành phố nổi lên những bức tường nâu thẫm của một tòa lâu đài Moor nhiều tháp nhỏ, mà tận cùng phía Đông, nối liền thành một khối kiến trúc, là một nhà thờ theo phong cách Gothic, mỗi tòa nhà lại tựa vào tòa nhà khác. Tọa bên dòng suối chảy từ núi xuống, bản thân thành phố trông có vẻ sạch sẽ với những tòa nhà màu phấn theo phong cách thế kỷ mười chín xen kẽ những công trình đồ sộ bằng đá bảy tám trăm tuổi. Cũng như các thành phố khác ở Algarve, Silves vẫn còn khá nhỏ nên người ta có thể chỉ nhìn thoáng qua là bao quát được toàn cảnh.
Gretchen khởi đầu một cuộc tranh luận tưởng tượng về những gì người Cơ Đốc giáo và người Moor hẳn đã suy nghĩ trong những thế kỷ họ bận tâm vì chiến tranh. Cato lầm bầm,
Y như người Nga và người Mỹ ấy... chẳng thích hợp gì cả.
Nhưng Britta lại chỉnh anh.
Nếu anh cho rằng chủ nghĩa cộng sản là không thích hợp thì tức là anh chưa bao giờ sống sát nách họ cả.
Ý Britta là gì thì chúng tôi vẫn không ngừng tìm hiểu.
Joe phát biểu,
Thật khó tưởng tượng nổi tôn giáo lại là một sức mạnh như vậy... cả một nền văn minh gây chiến với một nền văn minh khác,
nhưng Yigal nói,
Nước các bạn có theo Ailen đâu... và họ đều là người Cơ Đốc cả.
Gretchen thắc mắc,
Các tín đồ Hồi giáo ngày nay có bận tâm đến người Do Thái nhiều như ngày xưa họ bận tâm quân Thập tự chinh không?
Cô chỉ tòa lâu đài xa xa, Yigal đáp,
Nếu hiện giờ sống ở Israel, ngày nào em cũng sẽ nghe thấy từ ‘Thập tự chinh’.


Sao?


Người Ả rập tin rằng vì họ từng chống lại được quân Thập tự chinh suốt hai trăm năm và đuổi chúng ra biển cho nên ngày nay họ cũng có thể làm vậy với chúng tôi. Trong con mắt người Ả rập ở Syria, thành trì của quân Thập tự chinh là một hình ảnh đầy hứa hẹn.

Khi đến gần thành, chúng tôi phát hiện ra một cấu trúc hoàn chỉnh - với vườn, vườn cây ăn quả, hệ thống cấp nước và lòng đường rộng rãi – nằm trên mặt thành lũy. Trông pháo đài hẳn vẫn y nguyên như thời người Moor trấn giữ, nên tất cả chúng tôi đều có thêm hiểu biết về lịch sử. Tôi nhớ lúc ấy Cato đang đứng cùng tôi dưới chân một tòa tháp từng bị quân Thập tự chinh tàn phá trong cuộc vây hãm rồi sau đó đã được xây lại.
Ông biết không,
anh nói với vẻ trầm ngâm,
tôi bắt đầu ngờ rằng ông già tôi có lý. Có lẽ tôn giáo quan trọng hơn tôi tưởng rất nhiều.
Tôi định đáp, nhưng anh đã bước vội đi xem một tòa tháp khác; anh đã nêu lên một nhận định mà không muốn bị cật vấn gì cả.
Sau khi thăm tòa thành và ngôi nhà thờ kỳ lạ nối liền với nó, chúng tôi đi tiếp khoảng bảy dặm nữa về phía Nam để tới bờ biển, tại đây Gretchen rời xe lội xuống Đại Tây Dương, cố gắng tưởng tượng cảm giác của một người lính Thập tự chinh đang lao lên bờ tấn công một vùng đất xa lạ.

Ai lội bộ trở lại thành với tôi nào?
cô hỏi mọi người, Cato tình nguyện theo vì anh cũng bị tòa thành này mê hoặc và muốn chứng kiến nó hiện ra trong tầm mắt. Thế là hai người lên đường, cuốc bộ suốt bảy dặm, vừa đi vừa xem xét cẩn thận mọi khía cạnh của cảnh vật dưới con mắt kẻ xâm lược, số còn lại rẽ vào quán bar, mua báo chí châu Âu và nghe bất cứ đĩa nhạc nào người ta bật sẵn; thỉnh thoảng, chúng tôi lại vượt qua hai bạn đi bộ và tôi nghĩ nếu có lúc nào đó Gretchen viết về quân Thập tự chinh ở Bồ Đào Nha, ít nhất cô cũng đã biết rõ địa thế.
Chúng tôi gặp lại họ trong thành và cùng nhau đi dạo một lần nữa khắp thành lũy rộng thênh thang; lúc này chúng tôi lại đặt mình vào địa vị quân Cơ Đốc giáo đã đột chiếm được pháo đài, và trong lúc chúng tôi đi tản bộ, Cato nói,
Các bạn biết không, đây chính là việc mà một nhóm người Anh và Đức sẽ làm. Xây một nhà thờ lớn ở đằng kia.
Anh thấy cách xây thêm ngôi nhà thờ thành một phần phụ của lâu đài thật khôn ngoan, tôi còn nhớ rõ như vậy.
Trên đường về cuối buổi chiều hôm ấy, Gretchen lại yêu cầu chúng tôi dừng xe để ngắm nhìn lần cuối thành phố Silves nép mình trên sườn đồi, rồi khi chúng tôi ngồi dưới những cây hạnh lâu năm Britta đề nghị Gretchen hát, vậy là cây đàn guitar được mang ra và chúng tôi đồng thanh hòa theo một vài khúc ballad đã học được. Khi mọi người tạm nghỉ, tôi nói,
Thật lạ là các bạn không biết một bài dân ca hay nhất từ xưa tới nay.
Gretchen háo hức quay sang hỏi,
Bài gì?
tôi liền đáp,
Eriskay Love Lilt.


Chưa từng nghe,
cô nói, vì vậy tôi cất tiếng hát ca khúc của vùng Ngoại Đảo Scotland; chắc hẳn ca khúc này được phổ biến hồi quân Thập tự chinh tập hợp lại để làm mưa làm gió thành trì Silves, một bài hát não nùng về biển hết sức đơn giản:
Vair me o rovan o
Vair me o rovan ee,
Vair me o-ruo-ho,
Lòng em đau đớn, thiếu vắng anh.
Trong ca khúc không có lời lẽ khoa trương, không án mạng ở ven đường hay chuyện phản trắc; đó chỉ là lời than thở bất tận của một người đàn bà ngoài đảo có người yêu ra khơi. Giai điệu được các nhà chuyên môn xếp vào hàng trong trẻo nhất từ trước tới nay, một chuỗi nối tiếp những nốt nhạc mộc mạc chan chứa cảm xúc. Chắc chắn đây là một trong những ca khúc êm ái và được nhớ lâu nhất.

Chú học được ở đâu vậy?
Gretchen hỏi.

Trong Thế chiến II. Chú đóng quân một thời gian trên một hòn đảo Scotland tên là Barra... rất nhỏ, tàu khó lòng cập bến nổi ở đó. Gần đấy còn có một hòn đảo nữa tên là Eriskay. Nhỏ bằng một phần mười thôi. Ca khúc này được người ta phát hiện ra tại hòn đảo đó nhiều năm trước.

Gretchen thử gảy giai điệu ấy, rồi phần đệm, và khi bóng đêm bắt đầu buông tỏa khắp tòa lâu đài, bởi lúc này đã sắp chín giờ tối, chúng tôi hát thử ca khúc cổ xưa:
Trái tim trong sáng dấu yêu ơi,
Khi em cô đơn, dù đêm đen hay biển dữ,
Ánh sáng tình yêu soi đường cho em bước
Tìm tới bên anh, theo lối mòn quen.
Trong khi hát chúng tôi có thể hình dung ra hình ảnh người Moor và tín đồ Cơ đốc sống dưới thung lũng này, sáng sáng đưa thuyền đánh cá ra khơi, chiều chiều trở về bến.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook 6 Người Đi Khắp Thế Gian (Trọn bộ 2 tập).