Chương 3


Số từ: 4754
Nguồn: dtv-ebook
Steven
Steven Miller chơi Piano với một xúc cảm mãnh liệt, phấn khích, biết trước rằng bọn trẻ của ông sẽ đến bất kỳ lúc nào.
Cây đàn Piano được đặt trong một góc thụt nhỏ nằm ngoài phòng sinh hoạt chung của căn nhà gỗ cạnh bãi biển mà giờ đây ông gọi là nhà. Phía sau ông là những thứ đại diện cho lịch sử cá nhân của ông. Không có gì nhiều. Không kể đến cây đàn Piano, Kim có thể đóng gói toàn bộ đồ dùng cá nhân của ông vào trong một chiếc hộp duy nhất, và chỉ mất không tới nửa giờ để đặt mọi thứ vào trong đó. Có một ảnh chụp nhanh của ông với cha mẹ khi ông còn nhỏ, một bức ảnh khác ông đang chơi Piano khi là thiếu niên. Chúng được đóng khung giữa hai bằng cấp mà ông đạt được, một từ Chapel Hill (Uviversity of North Carolina at Chapel Hill - một trường đại học công lập của bang NC) và cái khác từ Đại học Boston, và phía bên dưới là một giấy chứng nhận đánh giá của Juilliard sau khi ông giảng dạy trong mười lăm năm. Gần cửa sổ có ba bảng kế hoạch được đóng khung phác thảo lịch biểu diễn của ông. Dù vậy, quan trọng nhất là nửa tá ảnh của Jonah và Ronnie, một số được treo trên tường hoặc đóng khung và đặt trên nóc đàn piano, và bất cứ khi nào ông nhìn vào đó, ông được nhắc nhở rằng, bất chấp ý định tốt đẹp nhất của ông, không điều gì xảy đến theo cách ông hằng mong đợi.
Ánh mặt trời chiều muộn chiếu nghiêng qua cửa sổ, khiến cho bên trong ngôi nhà trở nên ngột ngạt, và Steven có thể cảm thấy những hạt mồ hôi bắt đầu hình thành. May mắn là cơn đau trong dạ dày của ông đã giảm bớt từ lúc sáng, nhưng ông đã lo lắng trong nhiều ngày, nên ông biết nó sẽ trở lại. Ông đã luôn có một bao tử yếu; trong độ tuổi đôi mươi, ông có một chỗ loét, và phải nhập viện vì viêm túi thừa trong ruột già; khi ở độ tuổi ba mươi, ông có chỗ ruột thừa bị cắt bỏ sau khi vỡ tung trong lúc Kim đang mang thai Jonah. Ông đã nhai Rolaid (một loại thuốc kháng acide) như nhai kẹo, ông dùng Nexium (thuốc trị đau dạ dày) trong nhiều năm, và dù cho ông biết là ông có thể ăn uống tốt hơn và tập luyện nhiều hơn, ông nghi ngờ cả hai thứ thuốc sẽ giúp ích được gì. Vấn đề về dạ dày theo đuổi gia đình ông.
Cái chết của cha ông cách đây sáu năm đã làm thay đổi cuộc đời ông, và từ đám tang, ông cảm thấy như thể ông ở trong giai đoạn chuẩn bị. Theo một giả định, ông tin rằng ông phải chuẩn bị. Năm năm trước, ông đã rời khỏi vị trí của ông ở Juilliard, và một năm sau đó, ông quyết định thử vận may trong việc trở thành tay hòa tấu Piano. Cách đây ba năm, ông và Kim quyết định li hôn; chưa đầy mười hai tháng sau đó, những cuộc hẹn lưu diễn bắt đầu cạn kiệt dần, cho đến khi chúng hoàn toàn chấm dứt. Năm ngoái, ông đã trở về đây, về lại thị trấn nơi ông lớn lên, một nơi ông không bao giờ hình dung sẽ gặp lại. Giờ đây ông đã dự định trải qua mùa hè với những đứa trẻ của ông, và ngay khi Ronnie và Jonah trở về New York, dù ông cố mường tượng những gì mùa thu sẽ mang đến, ông chỉ biết rằng những chiếc lá sẽ vàng trước khi chuyển sang đỏ, và rằng, trong những buổi sáng, hơi thở của ông sẽ lộ ra một chút hổn hển. Ông ao ước lúc đó sẽ không còn phải cố gắng dự báo tương lai nữa.
Điều này không làm ông bận tâm. Ông biết việc dự báo là vô nghĩa, và hơn nữa, ông đã có thể hiểu biết đôi chút về quá khứ. Gần đây, tất cả những gì ông có thể cam đoan, là ông hoàn toàn bình thường trong một thế giới ưa thích những điều khác thường. Và nhận thức đó đã bỏ ông lại trong cảm giác thất vọng mơ hồ về cuộc đời mà ông đã sống. Nhưng ông có thể làm gì được? Không như Kim, thường thoải mái và thích ngao du, ông luôn trầm lặng hơn và bị trộn lẫn trong đám đông. Mặc dù ông chắc chắn có tài năng về âm nhạc và sáng tác, ông thiếu tính uy quyền và khả năng tự đề cao hoặc bất cứ thứ gì khiến cho một người biểu diễn được nổi bật trong đám đông. Có những lúc, thậm chí ông còn cho rằng ông là một người quan sát thế giới nhiều hơn là một thành phần của nó, và trong những khoảnh khắc trung thực đầy đau đớn, ông thỉnh thoảng tin rằng, ông là một thất bại trong toàn bộ những gì được coi là quan trọng. Ông đã bốn mươi tám tuổi. Hôn nhân của ông đã kết thúc, con gái ông xa lánh ông, và con trai ông sẽ lớn lên mà không có ông. Nghĩ lại, ông biết ông chẳng có ai để đổ lỗi trừ chính ông, và vượt trên mọi thứ, đây là những gì ông muốn biết: Liệu có còn khả năng cho một người giống như ông nhận biết về sự hiện diện của Thiên Chúa không?
Cách đây mười năm, ông không bao giờ hình dung đến việc băn khoăn về một điều như thế. Thậm chí chỉ hai năm trước đây. Nhưng khi đã nửa đời người, đôi lúc ông suy nghĩ, soi xét lại chính mình. Mặc dù, không hiểu sao, đã có lần ông tin rằng câu trả lời nằm trong âm nhạc mà ông sáng tạo, lúc này đây, ông cho rằng ông đã lầm lẫn. Càng suy nghĩ về điều đó ông càng nhận ra, với ông, âm nhạc luôn mang xu hướng xa lìa thực tế hơn là một phương cách để sống một cuộc đời sâu sắc hơn. Ông được nếm trải đam mê và nỗi phấn chấn khi chơi nhạc của Tchaikovsky, hoặc cảm nhận ý thức về tài năng khi ông viết bản Sonata của chính mình. Nhưng giờ đây, ông biết rằng, việc chôn vùi bản thân trong âm nhạc không hơn gì một kẻ ích kỷ với khao khát chạy trốn.
Bây giờ ông tin rằng câu trả lời thật sự nằm ở đâu đó trong mối quan hệ yêu thương mà ông dành cho những đứa trẻ của ông. Trong nỗi đau đớn ông đã trải qua khi thức giấc trong căn nhà thinh lặng và biết rằng chúng không ở đây. Nhưng dù như thế, ông biết còn có một thứ gì đó khác nữa.
Và, không hiểu tại sao, ông hy vọng những đứa trẻ của ông sẽ giúp ông tìm thấy điều đó.
Vài phút sau, Steve nhận ra ánh mặt trời đang phản chiếu trên kính chắn gió của chiếc Wagon phủ đầy bụi vừa dừng lại bên ngoài. Ông và Kim đã mua nó cách đây nhiều năm trong một cuộc đi chơi cuối tuần đến Costco và chạy trốn khỏi gia đình. Ông thoáng băn khoăn, không biết bà có nhớ thay dầu máy trước khi lái xuống đây hoặc kể từ khi ông bỏ đi hay không. Chắc chắn là không, ông quyết định. Kim không bao giờ tốt với những công việc đó, đó là lý do vì sao ông luôn phải quan tâm đến chúng.
Nhưng phần đời đó của ông đã trôi qua mất rồi.
Steve vươn dậy khỏi chỗ ngồi, và bươn bả, ông bước ra ngoài hiên trước, Jonah đã ra khỏi xe và đang lao đến bên ông. Mái tóc của cậu bé rối bời, cặp mắt kiếng bị xô lệch, tay chân khẳng khiu như những cây viết chì. Steve cảm thấy cổ họng nghẹn đắng, một lần nữa nhớ lại, trong ba năm qua, ông đã nhớ cậu bé nhiều như thế nào.
"Cha!"
"Jonah!" Steve la lên đáp lại khi ông băng qua bãi cát nén rải đá làm thành sân. Khi Jonah lao vào đôi tay ông, tất cả những gì ông có thể làm là cố gắng đứng vững.
"Con lớn quá chừng." Ông nói.
"Và cha nhỏ đi." Jonah nói. "Lúc này cha gầy nhom."
Steve ôm con trai ông thật chặt trước khi đặt cậu bé xuống. "Cha rất vui vì con đã đến."
"Con cũng vậy. Mẹ và Ronnie cứ cãi nhau suốt."
"Điều đó không vui."
"Cũng ổn mà. Con toàn lờ đi, ngoại trừ, khi con lôi kéo họ."
"Vậy à." Steve đáp.
Jonah chỉnh lại cặp mắt kiếng trên sống mũi cho ngay ngắn. "Sao mẹ không để tụi con đi bằng máy bay vậy?"
"Con không hỏi mẹ sao?"
"Không."
" Lẽ ra con nên hỏi."
"Điều đó không quan trọng. Con chỉ đang lo lắng thôi."
Steve cười. Ông quên mất con trai ông lắm chuyện như thế nào.
"Này, đây là nhà của Cha sao?"
"Phải."
"Nơi này tuyệt vời."
Steve tự hỏi không biết Jonah có đùa không. Ngôi nhà có thể là bất cứ gì trừ tuyệt vời. Căn nhà gỗ là một loại cơ ngơi cũ kỹ nhất ở bãi biển Wrightsville, bị kẹp giữa hai căn nhà đồ sộ đã có sự tăng giá trong vòng mười năm gần đây, khiến cho nó thậm chí trông càng có vẻ nhỏ bé hơn. Nước sơn đã bong tróc, mái đã mất đi nhiều miếng ngói, và hiên trước đã mục nát; chẳng có gì ngạc nhiên cho ông nếu một cơn bão nhẹ kế tiếp thổi bay nó đi, và không nghi ngờ gì, điều đó sẽ làm vui lòng những người hàng xóm. Từ khi ông chuyển đến ở, chẳng gia đình nào thèm nói chuyện với ông.
"Con nghĩ thế sao?" Ông hỏi.
"Gì chứ? Bãi biển ở ngay đây. Cha có thể muốn điều gì khác sao?" Cậu bé hướng về phía biển. "Con có thể ra đó xem xét nó không?"
"Chắc chắn rồi. Nhưng cẩn thận đấy. Và hãy ở loanh quanh phía sau ngôi nhà thôi. Đừng lang thang xa quá nhé."
"Thỏa thuận."
Steve quan sát cậu bé chạy đi trước khi quay nhìn Kim đang tiến đến. Ronnie cũng đã ra khỏi xe nhưng vẫn còn chần chừ gần đó.
"Chào Kim." Ông nói.
"Steve." Bà nghiêng người để trao cho ông một cái ôm ngắn. "Anh ổn không?" Bà hỏi. "Trông anh gầy quá."
"Anh không sao."
Phía sau bà, Steve nhận ra Ronnie đang chầm chậm tiến về phía họ. Ông bị ấn tượng bởi cô bé thay đổi quá nhiều so với bức hình gần nhất mà Kim đã e-mail cho ông. Đâu rồi cô gái rặt Mỹ mà ông nhớ, và thay vào đó là một phụ nữ trẻ với sọc tím trên mái tóc dài màu nâu, móng tay sơn đen và y phục tối tăm. Bất chấp những dấu hiệu rõ ràng của cuộc nổi loạn tuổi thiếu niên, ông nghĩ, cô bé giống mẹ biết bao nhiêu. Cũng tốt. Ông cho rằng cô vẫn đáng yêu như trước.
Ông tằng hắng. "Chào, con yêu. Thật tuyệt được gặp con."
Khi Ronnie không trả lời, Kim cau có với cô. "Đừng vô lễ. Cha con đang nói chuyện với con. Nói gì đi chứ."
Ronnie vòng tay lại. "Được rồi. Điều này thì sao? Con sẽ không chơi Piano với cha đâu."
"Ronnie!" Steve có thể nghe được sự giận dữ của Kim.
"Gì nào?" Cô hất đầu. "Con nghĩ rằng con nên nói ra điều đó ngay từ đầu."
Trước khi Kim có thể trả lời, ông lắc đầu. Điều cuối cùng ông muốn là một cuộc cãi cọ. "Không sao đâu, Kim."
"Phải đấy. Mẹ. Điều đó ổn mà." Ronnie nói, chộp ngay lấy thời cơ. "Con cần duỗi chân một chút. Con sẽ đi dạo."
Khi cô dậm mạnh chân đi khỏi, Steve quan sát Kim đấu tranh với thôi thúc gọi cô trở lại. Dù vậy, cuối cùng, bà không nói gì.
"Chuyến đi có dài lắm không?" Ông hỏi, cố xoa dịu tâm trạng của bà.
"Anh không thể hình dung được đâu."
Ông cười, nghĩ về điều đó trong một thoáng, thật dễ dàng để hình dung họ vẫn còn kết hôn, cả hai vẫn còn trong cùng một đội, cả hai vẫn còn yêu nhau.
Ngoại trừ, dĩ nhiên, họ không còn như thế nữa.
Sau khi tháo dỡ những cái túi, Steve đến bếp, ông lấy những viên đá hình vuông từ cái khay kiểu cũ và đổ chúng vào một cặp ly không xứng đôi có sẵn trong căn nhà.
Phía sau ông, ông nghe thấy Kim đi vào bếp. Ông với lấy một bình đựng trà ngọt, đổ vào hai chiếc ly, và trao một chiếc cho bà. Phía ngoài xa, Jonah luân phiên đuổi theo, và bị đuổi lại bởi những con sóng cũng như những con mòng biển vỗ cánh trên đầu.
"Có vẻ Jonah đã tìm thấy trò vui." Ông nói.
Kim bước một bước đến bên cửa sổ. "Nó bị kích động với việc đến đây hàng tuần rồi." Bà do dự. "Nó nhớ anh."
"Anh cũng nhớ nó."
"Em biết." Bà nói, hớp một ngụm nước trà trước khi nhìn quanh bếp. "Vậy, đây là nhà, huh? Nó thật... có cá tính."
"Nói đến cá tính, anh cho rằng em đã nhận ra mái nhà thủng lỗ chỗ và không có máy điều hòa không khí."
Kim cười nhẹ, hiểu ý.
"Anh biết nó không có gì nhiều. Nhưng nó thật yên tĩnh và anh có thể ngắm mặt trời lên."
"Và nhà thờ để anh ở đây miễn phí?"
Steve gật đầu. "Nó thuộc về Carson Johnson. Ông ấy là một nghệ sĩ địa phương, và khi ông ấy qua đời, ông ấy để lại căn nhà cho nhà thờ. Mục sư Harris để anh ở đây cho đến khi chúng sẵn sàng để bán."
"Vậy, thật giống như trở về quê nhà nhỉ? Ý em là nơi cha mẹ anh thường sinh sống, xem nào? Ba khối nhà từ đây, đúng không?"
Thật ra là bảy, gần đúng. "Đúng vậy." Ông nhún vai.
"Bây giờ nó quá đông đúc. Nơi này thật sự thay đổi kể từ lần cuối em đến đây."
"Mọi thứ đều thay đổi." Ông nói. Ông ngả người dựa vào quầy bếp, bắt chéo chân. "Vậy, khi nào thì đến ngày trọng đại?" Ông hỏi, thay đổi chủ đề, "Cho em và Brian?"
"Steve... về điều đó..."
"Không sao đâu." Ông nói, giơ tay lên. "Anh vui khi thấy em tìm được ai đó."
Kim nhìn chằm chằm vào ông, rõ ràng đang tự hỏi, liệu có nên chấp thuận lời lẽ của ông theo giá trị bề mặt hay lấn sâu vào lĩnh vực nhạy cảm.
"Vào tháng Một." Cuối cùng bà nói. "Và em muốn anh biết rằng, với bọn trẻ... Brian không yêu cầu trở thành ai đó mà anh ấy không phải. Anh ấy giống anh."
"Anh chắc là anh như thế." Ông nói, lấy một hớp nước trà. Ông đặt chiếc ly trở lại. "Bọn trẻ cảm nhận về anh ấy như thế nào?"
"Jonah có vẻ thích anh ấy, nhưng Jonah cũng thích mọi người."
"Còn Ronnie?"
"Con bé đối xử với anh ấy cũng y như đối xử với anh."
Ông cười trước khi nhận ra biểu hiện lo lắng của bà. "Con bé thật sự làm như thế nào?"
"Em không biết." Bà thở dài. "Và em không nghĩ con bé cũng vậy. Nó đang trong thời kỳ tối tăm, ủ rũ. Nó lờ đi lệnh cấm túc, và phân nửa thời gian em không thể moi được gì khác hơn câu "sao cũng được" khi em cố gắng để nói chuyện với nó. Em đã thử bỏ qua những thứ tiêu biểu của tuổi thiếu niên, vì em nhớ đến những gì giống như vậy... nhưng..." Bà lắc đầu. "Anh đã thấy cách nó ăn mặc rồi, đúng không? Và tóc tai của nó, và thứ Mascara tồi tệ đó?"
"Mmm"
"Và sao?"
"Nó có thể còn tệ hơn."
Kim mở miệng định nói gì đó, nhưng khi thấy không lời nào được thốt ra, Steve biết ông đã đúng. Bất kể giai đoạn mà cô bé đang trải qua, bất kể nỗi lo sợ của Kim, Ronnie vẫn sẽ là Ronnie.
"Em cũng đoán vậy." Bà thừa nhận, trước khi lắc đầu. "Không, em biết anh nói đúng. Chỉ là thời gian gần đây quá khó với con bé. Có những lúc nó vẫn ngọt ngào như trước đây. Như với Jonah. Dù cho chúng cãi nhau như chó với mèo, con bé vẫn đưa nó đến công viên mỗi cuối tuần. Và khi thằng bé có rắc rối với môn toán, con bé đã dạy kèm nó mỗi tối. Điều đó thật lạ lùng, vì con bé chỉ vừa vặn qua được những môn học. Và em đã không kể với anh điều này, nhưng em bắt nó phải thi SATs vào tháng hai. Con bé nhớ mọi câu hỏi đơn. Anh có biết phải thông minh thế nào mới có thể nhớ được mọi câu hỏi đơn không?"
(SATs: Scholastic Assessment Test hay Scholastic Aptitude Test là một kỳ thi chuẩn hóa để bổ sung cho điểm trung bình ở trung học cho xét tuyển vào đại học ở Mỹ, có thể đăng ký thi vào bất cứ thời điểm nào thuận tiện, và điểm thi được tất cả các trường đaih học trên toàn nước Mỹ chấp nhận. Các thí sinh thi ba môn: Reading, Writing và toán, mỗi môn tối đa 800 điểm, và với 1500 điểm là tạm OK rồi, nhưng nếu muốn có học bổng thì phải đạt 2000 - theo kinh nghiệm cá nhân của Sẻ thì nó khó gần chết, và không làm sao mà nhớ hết được các câu hỏi.)
Khi Steve cười, Kim nhăn mặt. "Điều đó không có gì vui hết."
"Nó có vui đôi chút đấy chứ."
"Anh không phải đối phó với con bé trong ba năm gần đây."
Ông ngưng cười, kềm chế lại. "Em nói đúng, anh xin lỗi." Ông vươn tới chiếc ly lần nữa. "Quan tòa xem xét thế nào về chuyện ăn cắp vặt của nó?"
"Như những gì em đã nói với anh trên điện thoại." Bà nói với một biểu hiện cam chịu. "Nếu nó không gây thêm bất kỳ rắc rối nào nữa, điều đó sẽ được xóa trong hồ sơ của nó. Nếu nó lặp lại, dù vậy..." Bà ngập ngừng.
"Em đã lo lắng về điều này." Ông nêu ra.
Kim quay đi. "Không phải lần đầu đâu, những rắc rối ấy." Bà thú nhận. "Nó thừa nhận đã lấy trộm chiếc vòng tay hồi năm ngoái, nhưng lần này, nó nói nó mua một đống thứ tại hiệu thuốc và không thể cầm được tất cả, vì thế nó nhét thỏi son môi vào trong túi. Nó trả tiền cho mọi thứ khác, và khi anh xem bản video, nó có vẻ là một nhầm lẫn chân thực, nhưng..."
"Nhưng em không chắc chắn?"
Khi Kim không trả lời, Steve lắc đầu. "Con bé sẽ không có hồ sơ lưu trữ trong chương trình America's Most Wanted đâu. Con bé chỉ nhầm lẫn thôi. Và nó luôn có một trái tim nhân hậu."
(American's Most Wanted: Chương trình truyền hình thông báo về những tội phạm, được phát sóng vào giờ vàng mỗi thứ bảy của Mỹ để mọi người biết mà đề phòng.)
"Điều đó không có nghĩa là bây giờ nó đang nói thật."
"Và cũng không có nghĩa là con bé nói dối."
" Anh tin con bé thế sao?" Vẻ mặt của bà trộn lẫn giữa hy vọng và ngờ vực.
Ông xem xét qua trực giác của ông về những tình tiết, giống như ông đã làm hàng tá lần kể từ khi Kim nói với ông lần đầu tiên. "Phải." Ông nói. "Anh tin con bé."
"Tại sao?"
"Vì nó là một đứa trẻ tốt."
"Làm sao anh biết được chứ?" Bà gạn hỏi. Lần đầu tiên, giọng bà nghe có vẻ giận dữ. "Lần cuối cùng anh ở bên con bé, nó vừa học xong cấp hai." Bà quay khỏi ông, khoanh tay lại khi bà đăm đắm nhìn ra ngoài cửa sổ. Giọng bà cay đắng khi bà tiếp tục. "Anh luôn có thể trở về, anh biết mà. Anh có thể giảng dạy ở New York lại. Anh không cần phải lưu diễn vòng quanh đất nước, anh không phải chuyển đến đây... Anh có thể dự phần vào cuộc đời của bọn trẻ."
Lời nói của bà làm ông đau nhói, và ông biết bà đúng. Nhưng điều đó không đơn giản như thế, vì lý do cả hai đều hiểu, dù vậy, cả hai đều không chịu thừa nhận chúng.
Khoảng lặng căng thẳng trôi qua khi cuối cùng Steve cũng làm thông cổ họng của ông. "Anh chỉ đang cố nói rằng Ronnie sẽ tìm thấy điều đúng đắn từ những sai lầm. Cũng như việc con bé nhất quyết đòi độc lập, anh vẫn tin con bé luôn là người tương tự như trước đây. Theo cách thật sự quan trọng, con bé không thay đổi.
Trước khi Kim có thể tìm ra cách thức đáp lại ý kiến của ông, Jonah lao vào xuyên qua cửa trước, đôi má đỏ ửng.
"Cha! Con tìm thấy một xưởng chế tạo rất tuyệt! Đi nào! Con muốn chỉ cho cha thấy!"
Kim nhướng một bên mày.
"Nó ở ngay sau nhà." Steve nói. "Em có muốn xem qua một chút không?"
"Nó tuyệt lắm. Mẹ."
Kim đảo mắt từ Steve đến Jonah và trở lại lần nữa. "Không sao đâu. Điều đó ổn mà." Bà nói. "Nghe có vẻ giống như thứ dành cho cha và con trai nhiều hơn. Và hơn nữa, em thật sự phải đi rồi."
"Đi ư?" Jonah hỏi.
Steve biết điều này khó khăn đối với Kim như thế nào, nên ông trả lời thay cho bà. "Mẹ con còn một chuyến trở về dài. Hơn nữa, cha muốn đưa con đến lễ hội đêm nay. Chúng ta có thể làm điều đó thay vì thế chứ?"
Steve quan sát đôi vai của Jonah chùng xuống một chút.
"Con nghĩ điều đó cũng ổn."
Sau khi Jonah nói lời từ biệt mẹ - Ronnie vẫn ở nơi nào đó trong tầm nhìn, và, theo Kim, sẽ không có khả năng quay về sớm - Steve và Jonah tản bộ đến kho xưởng, đó là một nhà phụ nghiêng ngả, mái lợp tole theo cùng với ngôi nhà.
Trong ba tháng gần đây, Steve đã trải qua phần lớn các buổi chiều ở nơi này, bị vây quanh bởi đủ loại đồ tạp nhạp và những mảnh kính màu nho nhỏ mà lúc này Jonah đang khám phá. Tại trung tâm của gian xưởng đặt một bàn làm việc lớn với sự khởi đầu của một ô cửa sổ kính màu, nhưng Jonah dường như cực kỳ thích thú với những món nhồi rơm kỳ lạ đặt trên kệ cao, chuyên môn của người chủ nhà trước đây. Thật khó để không bị mê hoặc bởi những con vật nửa sóc nửa cá vược hoặc đầu thú có túi ghép trên thân thể một con gà.
"Những thứ này là gì vậy?" Jonah hỏi.
"Nó được cho là nghệ thuật."
"Con tưởng nghệ thuật là những thứ giống như sơn vẽ và chạm khắc."
"Đúng vậy. Nhưng đôi khi nghệ thuật cũng là thứ khác nữa."
Jonah nhăn mũi, nhìn chằm chằm vào thứ nửa thỏ nửa rắn. "Nhìn nó chẳng có gì giống nghệ thuật hết."
Khi Steve cười, Jonah chỉ vào ô cửa sổ kính màu trên bàn làm việc. "Cái này cũng của ông ấy ư?" Cậu bé hỏi.
"Thật ra, nó là của cha. Cha đang chế tạo nó cho nhà nguyện dưới phố. Ngôi nhà nguyện đã bị thiêu rụi năm ngoái, và ô cửa sổ kính màu nguyên thủy đã bị phá hủy trong đám cháy."
"Con không biết cha có thể chế tác cửa sổ."
"Tin hay không, người nghệ sĩ từng sống ở đây đã dạy cha làm nó như thế nào."
"Người đã làm ra những con thú kỳ dị ấy à?"
"Cùng người đó."
"Và cha quen biết ông ấy?"
Steve kết hợp với con trai ông tại bàn. "Khi cha là một đứa trẻ, cha đã lén đến đây trong lúc được cho là phải học Thánh Kinh. Ông ấy chế tác những ô cửa sổ kính màu cho phần lớn những nhà thờ quanh vùng. Nhìn bức vẽ trên tường xem." Steve chỉ một bức hình nhỏ Chúa Ki Tô thăng thiên đính trên kệ, dễ dàng bị bỏ qua trong những thứ hỗn độn. "Hy vọng rằng, nó sẽ giống y như thế khi hoàn tất."
"Tuyệt vời." Jonah nói, và Steve cười. Đó rõ ràng là từ ưa thích mới của Jonah, và ông tự hỏi không biết ông sẽ nghe bao nhiêu lần trong mùa hè này.
"Con có muốn giúp không?"
"Con có thể sao?"
"Cha trông mong vào điều đó." Steve trao cho cậu bé một cú đẩy thân thiện. "Cha cần một trợ tá tốt."
"Có khó không cha?"
"Cha cũng tầm tuổi con khi cha bắt đầu, vì vậy cha chắc chắn con có thể xoay sở được."
Jonah thận trọng nhặt lên một mảnh kính và xem xét, giơ nó lên phía ánh sáng, vẻ mặt trang nghiêm. "Con cũng khá chắc chắn là con có thể xoay sở được."
Steve cười. "Con vẫn còn đi nhà thờ chứ?" Ông hỏi.
"Vâng. Nhưng không giống như khi chúng ta cùng đi. Đó là nơi Brian thích đến. Nhưng Ronnie thường không đi cùng. Chị ấy tự nhốt mình trong phòng và từ chối ra ngoài, nhưng ngay khi mọi người đi khỏi, chị ấy đến quán café Starbucks để rong chơi với bạn bè. Điều đó khiến Mẹ giận dữ."
"Đó là điều xảy ra khi một đứa trẻ đến tuổi thiếu niên. Chúng thử lòng cha mẹ ấy mà."
Jonah đặt mảnh kính trở lại bàn. "Con sẽ không làm thế." Cậu bé nói. "Con sẽ luôn ngoan. Nhưng con không thích ngôi nhà thờ mới nhiều lắm. Nó chán ngắt. Vì vậy có lẽ con sẽ không đi đến đó đâu."
"Khá công bằng." Ông ngừng lời. "Cha nghe nói con đang chơi bóng đá mùa thu này."
"Con không chơi tốt lắm."
"Sao vậy? Nó vui mà, đúng không?"
"Không, khi những đứa trẻ khác biến cha thành trò đùa."
"Chúng biến con thành trò đùa sao?"
"Không sao đâu. Điều đó không làm con bận tâm."
"Vậy à." Steve nói.
Jonah kéo lê bước chân, thứ gì đó rõ ràng đang làm cậu bé bận tâm. "Ronnie không đọc bất kỳ lá thư nào cha gởi cho chị ấy, Cha à. Và chị ấy cũng không còn chơi Piano nữa."
"Cha biết." Steve trả lời.
"Mẹ nói đó là vì chị ấy bị PMS." (Premenstrual syndrome: hội chứng tiền kinh nguyệt.)
Steve gần như lặng người, nhưng nhanh chóng tự trấn tĩnh. "Con có biết thứ đó có nghĩa là gì không?"
Jonah đẩy mắt kiếng lên. "Con không con là trẻ con nữa. Điều đó có nghĩa là hội chứng say mê đàn ông." (Pissed-at-Men Syndrome)
Steve cười, làm rối tóc của Jonah.
"Làm thế nào để tìm ra chị con đây?"
"Cha nghĩ cha đã thấy cô bé đi về hướng lễ hội."
"Chúng ta có thể cưỡi đu quay không?"
"Bất cứ thứ gì con muốn."
"Tuyệt vời."
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Bản Tình Ca Cuối Cùng.