Phần 09 - Chương 06: Vàng – Một loại tiền tệ bị giam lỏng
-
Chiến Tranh Tiền Tệ
- Song Hongbing
- 4486 chữ
- 2020-02-02 03:00:39
Chiến Tranh Tiền Tệ
Tác giả: Song Hongbing
Dịch giả: Hồ Ngọc Minh
Bản thân vàng mang trong mình rất nhiều yếu tố bất ổn. Việc chính phủ của một số quốc gia lớn vẫn luôn tìm cách lung lạc giá vàng chính là một trong những yếu tố ấy. Nếu như quan tâm đến chinh sách của chính phủ đối với vàng trong suốt 20 năm qua, bạn sẽ nhận ra ràng, khi giá vàng cao đến mức 800 đô-la/ounce (năm 1980), chẳng có chính phủ nào bán vàng ra. Việc bán vàng ra khi đó có thể nói là rất hợp thời, lại còn có thể ổn định giá vàng. Nhưng chính phủ lại bạn vàng ra khi giá vàng xuống thấp nhất (năm 1999). Chính phủ Anh đã làm như vậy và đó chính là một trong những yếu tố khiến cho giá vàng trở nên bất ổn(11).
Robert A. Mundell, năm 1999.
Yếu tố làm bất ổn giá vàng mà Robert A. Mundell nói đến năm 1999 chính là một bộ phận quan trọng của màn kịch tài chính tinh vi do các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế dàn dựng kể từ năm 1980. Nhưng việc thao túng giá vàng lại là một kế hoạch tài tình được dàn xếp nghiêm ngặt với thủ pháp cao siêu khiến người ta khó phát hiện ra. Việc khống chế thành công giá vàng trong khoảng thời gian hơn 20 năm vẫn là chuyện thật khó tin trong lịch sử nhân loại.
Điều khó hiểu nhất chính là tuyên bố của ngân hàng Anh quốc vào ngày 7 tháng 5 năm 1999. Ngân hàng này đột ngột thông báo sẽ bán đứt một nữa số vàng dự trữ (chừng 415 tấn). Đây là lần ngân hàng Anh bán tháo vàng với quy mô lớn nhất kể từ khi cuộc chiến tranh giữa đế quốc Anh và Napoleon nổ ra. Thông tin động trời này đã khiến cho giá vàng quốc tế đã rớt xuống ngưỡng 280 đô-la/ounce.
Mọi người không khỏi hoài nghi: rốt cuộc thì ngân hàng Anh muốn gì? Đầu tư ư? Không đúng, bởi nếu đầu tư thì họ phải bán ra với giá 800 đô-la/ounce từ năm 1980 rồi thu gom công trái Mỹ kỳ hạn 30 năm với mức lãi suất lên đến 13% vào thời đó để kiếm lãi. Nhưng ngân hàng Anh lại phá bĩnh khi bán tháo vàng ra với giá thấp nhất trong lịch sử là 280 đô-la/ounce vào năm 1999, rồi đi đầu tư công trái Mỹ với lãi suất khi đó chưa đến 5%. Việc Mundell không thể hiểu được nguyên nhân vì sao cũng không phải là chuyện lạ.
Phải chăng ngân hàng quốc tế không biết gì về làm ăn? Đương nhiên là không phải. Trong suốt gần 300 năm kể từ khi thành lập vào năm 1694, Ngân hàng Anh đã xưng hùng xưng bá trên thị trường tài chính, đã trải qua mọi biến cố thăng trầm, thậm chí, đối với họ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chỉ đáng là một cậu học trò nhỏ. Vì thế, nếu nói trắng ngân hàng Anh ngờ nghệch trong kinh doanh thì thật là nực cười.
Vậy tại sao Ngân hàng Anh lại hành xử một cách ngược đời như vậy? Chỉ có một lí do duy nhất: nỗi lo sợ. Họ không sợ giá vàng tiếp tục giảm xuống khiến cho nguồn dự trữ vàng mất hiệu lực mà lại sợ giá vàng tiếp tục tăng giá? Bởi trong sổ sách giấy tờ của ngân hàng thì vàng đã không cánh mà bay. Số vàng cần phải thu vào để ghi chép trong sổ sách kia có thể mãi mãi không thu hồi lại được.
Ferdinand Lips – một nhà tài phiệt ngân hàng Thuỵ Sĩ – đã từng nói rằng, nếu như người dân Anh biết được ngân hàng trung ương của họ xử trí một cách điên khùng và khinh suất như thế nào đối với nguồn tài sản chân chính (vàng) mà họ cố công tích luỹ trong suốt mấy trăm năm thì dưới đoạn đầu đài sẽ có khối hộp sọ nằm lổn nhổn. Nói một cách chính xác hơn, nếu người dân thế giới biết được các ngân hàng trung ương đã thao túng giá vàng như thế nào thì tội lỗi lớn nhất trong lịch sử loài người sẽ được phơi bày ra ánh sáng.
Vậy thì số vàng của ngân hàng Anh đã bốc hơi đi đâu? Hoá ra, số vàng này đã bị các nhà ngân hàng Anh mang đi cho các đồng nghiệp buôn vàng nén (Bullion Bankers) thuê mướn mất rồi.
Ngọn ngành của sự việc là thế này: đầu những năm 90, trục London – phố Wall hạ gục nền kinh tế Nhật, khống chế được tiến trình thống nhất tiền tệ châu Âu. Tuy tỏ ra hớn hở đắc chí nhưng các đại gia ngân hàng vẫn không thể nào lơ là mất cảnh giác với vàng. Nên nhớ rằng, đối với giới tài chính của trục London – phố Wall thì đồng tiền châu Âu và đồng yên Nhật chỉ là một cái mụn nhỏ mà thôi, trong khi vàng mới là khối u ác tính. Nếu một khi vàng trở nên có giá thì mọi hệ thống tiền tệ pháp định sẽ phải thần phục nó. Tuy không còn được coi là tiền tệ của thế giới, nhưng trước sau vàng vẫn là trở ngại lớn nhất đối với các nhà ngân hàng trong việc tước đoạt tài sản của người dân thế giới thông qua nạn lạm phát tiền tệ. Tuy bị
giam lỏng
nhưng vàng vẫn được coi là một thứ. tài sản quý với sức hấp dẫn mãnh liệt. Chỉ cần có chút biến động trong xã hội là người ta lập tức đổ xô đi mua vàng. Nếu muốn loại bỏ vàng thì các nhà ngân hàng quốc tế phải tìm cách
giam lỏng
vàng vĩnh viễn.
Nếu muốn thực hiện việc này, các nhà ngân hàng cần phải làm sao để cả thế giới thấy được rằng vàng là một thứ tài sản vô dụng và không có khả năng bảo vệ tiền bạc của người dân và cũng không thể trở thành một chỉ tiêu ổn định, thậm chí không có sức thu hút sự quan tâm của các nhà đầu cơ Vì vậy giá trị của vàng cần phải được khống chế nghiêm ngặt.
Năm 1968, rút kinh nghiệm xương máu từ thảm bại của
Quỹ hỗ trợ vàng
, các nhà ngân hàng quốc tế quyết không dùng vàng thực để làm thứ đối chọi với nhu cầu thị trường khổng lồ. Năm 1980, sau khi nâng mức lãi suất lên đến 20% và tạm thời khống chế được giá vàng đồng thời khôi phục được lòng tin của dân chúng vào đồng đô-la, các nhà ngân hàng bắt đầu sử dụng một loại vũ khí mới là công cụ tài chính phái sinh.
Binh pháp có câu
công tâm vi thượng, công thành vi hạ
(đánh vào lòng người mới là thượng sách, còn đánh thành chỉ là hạ sách mà thôi). Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế khá hiểu rõ chân lý này. Vàng cũng tốt, đô-la Mỹ cũng xong, mà cổ phiếu, công trái, bất động sản cũng đều chấp nhận được. Nhưng dù có dính dáng đến bất cứ thứ nào trong đó thì cũng có nghĩa là ta đang đùa giỡn với niềm tin! Mâ sản phẩm tài chính phái sinh chính là vũ khí niềm tin siêu cấp. Năm 1987, sau khi thử nghiệm thành công vụ nổ
bom hạt nhân tài chính phái sinh
trong cơn đại hoạ của thị trường chứng khoán, loại vũ khí này đã được đem ra sử dụng. Năm 1990, thứ vũ khí hiệu năng này lại được sử dụng một lần nữa trên thị trường chứng khoán Tokyo mà mức độ sức sát thương của nó khiến cho các nhà ngân hàng quốc tế hân hoan ra mặt. Tuy nhiên, cách thức này chỉ có hiệu quả trong một khoảng thời gian ngắn. Vì vàng được coi là mối đe doạ lớn đối với các nhà ngân hàng, để tạo ra sự đe doạ mang tính lâu dài đối với vàng, người ta cần phải sử dụng nhiều loại vũ khí đánh vào lòng tin của dân chúng.
Việc ngân hàng trung ương tư hữu khống chế để đem lượng vàng dự trữ quốc gia cho thuê là một trong những loại vũ khí hữu hiệu. Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế bắt đầu tung ra một chiêu thức mới: cho các nhà ngân hàng thuê lại nguồn vàng đang lưu giữ trong kho của ngân hàng trung ương với lãi suất cho dù chỉ 1% bởi nếu không làm vậy thì lượng vàng đó cứ
ngủ yên
trong kho mà chẳng hề sinh lợi, lại còn tốn công lau bụi bám vào, tốn chi phi bảo quản. Quả nhiên, cách thức này đã nhanh chóng trở thành phong trào rầm rộ ở châu Âu.
Vậy thì các khách hàng thuê lại vàng của họ là những ai? Đó chính là các đại gia ngân hàng như công ty J.P. Morgan chẳng hạn. Dựa vào uy tín
tốt lành
của mình, họ
vay
vàng lừ tay các ngân hàng trung ương với lãi suất siêu rẻ 1%, rồi bán ra trên thị trường vàng, nhận một khoản hoa hồng rồi sau đó mua công trái Mỹ với lãi suất 5%. Như vậy, họ ăn chắc khoản lãi suất chênh lệch 4% và thủ đoạn này được gọi là
Giao dịch vàng hưởng lãi suất chênh lệch (Gold Carry Trade). Cứ như vậy, việc ngân hàng trung ương bán vàng rẻ mạt đã tạo ra sự ép buộc với giá vàng và giúp các nhà ngân hàng hưởng một khoản chênh lệch béo bở đồng thời còn kích thích được nhu cầu của dân chúng đối với công trái Mỹ. Như vậy, một mũi tên của các nhà ngân hàng đã trúng tới mấy đích.
Tuy nhiên, việc làm này vẫn hàm chứa một nguy cơ rủi ro. Phần lớn số vàng mà các nhà ngân hàng vay được từ ngân hàng trung ương là hợp đồng ngắn hạn, thường có hiệu lực trong khoảng 6 tháng, nhưng đối tượng đầu tư rất có thể là công trái dài hạn, và khi đến kỳ hạn, các ngân hàng trung ương đơn phương yêu cầu khách hàng hoàn trả lại số vàng đã vay. Lúc này, nếu giá vàng liên tục tăng cao thì tình cảnh của các nhà ngân hàng đi vay sẽ cực kỳ nguy hiểm.
Để phòng ngừa rủi ro này, các thiên tài phố Wall đã tập trung chú ý vào ngành sản xuất vàng. Họ không ngừng nhồi nhét vào đầu các nhà sản xuất vàng tư tưởng mang tính
tất yếu lịch sử
rằng, về lâu dài, giá vàng khai thác được sẽ giảm xuống, chỉ bằng cách chốt giá bán trong tương lai ngay thời điểm hiện tại thì họ mới có thể tránh được rủi ro. Ngoài ra, các nhà ngân hàng quốc tế còn có thể cung cấp một khoản vay lãi suất thấp khoảng 4% và cung cấp kinh phí cho ngành sản xuất vàng (khảo sát và khai phá). Mức lãi suất này khiến người ta khó có thể từ chối, hơn nữa, khi thấy giá vàng quốc tế biến đổi hàng năm, thay vì đợi đến sau này bán vàng hạ giá thì thà ngay bây giờ đem vàng còn nằm trong lòng đất bán ra với một giá tốt vẫn hơn. Điều này gọi là
hợp đồng viễn kỳ vàng
(bán vàng trước khi khai thác, Gold Forward Sale) Vậy là các nhà tài phiệt ngân hàng đã có trong tay một sản lượng vàng của tương lai và dùng chính số vàng này làm thế chấp cho việc hoàn trả nợ vay vàng của ngân hàng Trung ương. Hơn nữa, vì ngân hàng Trung ương và các nhà ngân hàng vay vàng vốn dĩ là người trong một nhà, cho nên
hợp đồng cho thuê
gần như có thể kéo dài vô thời hạn (Loan Roll Over). Như vậy, các nhà tài phiệt ngân hàng vay vàng đã được bảo hiểm kép.
Sau một thời gian ngắn thực hiện ý tưởng này, các thiên tài phố Wall lại bắt đầu tung ra thị trường một loạt sản phẩm tài chính phái sinh mới như Hợp đồng giao hàng chậm (Spot Defered Sales), hợp đồng viễn kỳ điều kiện (Contingent Forward), hợp đồng viễn kỳ biến lượng (Variable Volume Forward), Đối xung Delta (Delta Hedging), và các loài hợp đồng quyền kỳ hạn khác.
Dưới sự trợ giúp của các ngân hàng đầu tư, ngành công nghiệp sản xuất vàng bắt đầu tham gia tích cực vào các hoạt động đầu cơ tài chính chưa từng thấy trước đó. Ngành sản xuất vàng của các nước bắt đầu ồ ạt đem lượng vàng dự trữ dưới lòng đất quy tính thành sản lượng hiện hữu để tiến hành
bán trước
. Ngành sản xuất vàng của Úc thậm chí còn đem sản lượng vàng trong 7 năm tới bán ra ngoài. Tổng số hợp đồng sản phẩm tài chính phái sinh mà Ashanti – công ty sản xuất vàng quan trọng của Ghana, Tây Phi – đã mua dưới sự
tham mưu
của Goldman Sachs và 16 nhà ngân hàng đã lên đến 2500 bản, đến tháng 6 năm 1999, tài sản thể hiện trên sổ sách của công ty này đã đại mức 290 triệu đô-la Mỹ. Các nhà bình luận chỉ ra rằng, các công ty sản xuất vàng đang dùng kim loại quý này để đầu cơ mạo hiểm.
Trong trào lưu
cách mạng đối xung
đang dâng lên trong ngành sản xuất vàng, công ty vàng Barrick có thể được xem là một ví dụ điển hình về quy mô hoạt động. Quy mô đối xung của Barrisk đã vượt qua phạm trù hợp lý của việc khống chế rủi ro, vì thế cũng chẳng có gì sai nếu nói sách lược của công ty này là một canh bạc lớn về tài chính. Trong hành động mua khống vàng một chiều với số lượng lớn, Barrick đã tạo ra sự ép giá mang tính cạnh tranh giữa các đơn vị cùng ngành, và kết quả tất yếu là thị trường không còn cơ hội để tồn tại. Trong báo cáo thường niên của mình, Barrick đã thổi phồng sách lượng đối xung phức tạp nhằm khiến cho họ có thể bán vàng ra với giá cao hơn thị trường.
Thực ra, một phần trong số vàng mà Barrick bán được trên thị trường là vàng
vay
với lãi suất thấp từ các ngân hàng trung ương. Khoản thu nhập có được từ việc bán tháo lượng vàng
vay
này trên thị trường được dùng để mua công trái Mỹ. Khoản chênh lệch lãi suất từ việc mua bán này chính là kết quả diệu kỳ được sinh ra từ cái gọi là
công cụ đối xung phức tạp
– một trò bịp bợm tài chính điển hình.
Tuy nhiên, giá vàng không ngừng tuột dốc, và điều này phù hợp với lợi ích của các bên tham gia. Khi giá vàng tuột dốc, do đã chốt giá bán ra, các đơn vị sản xuất vàng đã biến báo giá vàng trên giấy tờ sổ sách và khẳng định rằng vàng sẽ còn tăng giá. Vậy là, ngành sản xuất vàng trở thành kẻ đồng loã trong việc làm cho giá vàng sụt giảm một cách kỳ quái. Thực ra, thứ mà ngành sản xuất vàng có được chỉ là thứ lợi lộc nhất thời, còn cái mất đi lại là lợi ích lâu dài.
Rush More – Chủ tịch uỷ ban hành động chống lũng đoạn vàng (Gold Anti-trust Action Committee) đã gọi Barrick là
Gold Cartel
. Thành viên chính của tập đoàn này bao gồm: công ty J.P. Morgan, ngân hàng Anh, Deutsche Bank, ngân hàng Hoa Kỳ, Công ty Goldman Sachs, ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), Bộ tài chính Mỹ và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Trong khi giá vàng được đẩy lên cao không ngừng do nhu cầu thị trường tăng mạnh thì ngân hàng trung ương lại đột kích vào tuyến thứ nhất bằng việc công khai bán tháo một lượng lớn vàng, mãi cho đến khi các nhà đầu tư cảm thấy khiếp sợ mới thôi.
Trong phiên điều trần tại uỷ ban ngân hàng hạ nghị viện tháng 7 năm 1998, Greenspan đã lên tiếng nói rằng:
Vàng là một loại hàng hoá có rất nhiều sản phẩm tài chính phái sinh được tiến hành giao dịch ngoài thị trường. Nhà đầu tư không thể khống chế lượng cung ứng vàng, nếu như giá vàng tăng thì các ngân hàng trung ương sẽ
cho thuê
vàng dự trữ bất cứ lúc nào
. Hay nói cách khác, Greenspan đã công khai thừa nhận, nếu cần thiết, giá vàng hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của các nhà ngân hàng trung ương.
Tháng 3 năm 1999, chiến tranh Kosovo bùng phát, tình hình đã có sự thay đổi. Cuộc tập kích của khối NATO chưa thể đạt hiệu quả sớm như mong muốn của các nhà hoạch định chiến lược, trong khi đó, giá vàng không ngừng leo thang. Một khi giá vàng liên tục tăng và bị mất kiểm soát thì các nhà ngân hàng tất yếu phải gom vàng với giá cao trên thị trường để hoàn trả lại cho các ngân hàng trung ương. Nếu trên thị trường không có nhiều hàng hoá hoặc ngành sản xuất vàng lấy sản lượng vàng chưa khai thác dưới lòng đất làm thế chấp lâm vào cảnh phá sản, hoặc trữ lượng vàng dưới đất không đủ, thì không chỉ nhà ngân hàng quốc tế phải gánh chịu tổn thất nặng nề mà khoản dự trữ vàng của các nhà ngân hàng trung ương cũng sẽ thiếu hụt trầm trọng. Nếu như sự việc bại lộ thì ắt sẽ có kẻ phải bước lên đoạn dầu đài. Trong tình huống khẩn cấp như vậy, ngày 7 tháng 5 năm 1999, ngân hàng Anh đã phải ra tay.
Trong tình cảnh này, tháng 9 năm 1999, các nhà tài phiệt ngân hàng trung ương châu Âu đã ký
thoả thuận Washington
nhằm hạn chế tổng lượng vàng bán ra hoặc cho thuê trong vòng năm năm tới của các nước. Tin tức truyền đi, lãi suất vàng
cho thuê
đã nhảy vọt từ 1% lên đến 9% trong vòng mấy tiếng đồng hồ, khiến cho các nhà sản xuất làm khống vàng và sản phẩm tài chính phái sinh của các nhà đầu cơ đều bị tổn thất thảm hại.
Thị trường vàng sôi động trong gần 20 năm cuối cùng cũng đã chấm dứt thời hoàng kim của mình và mở ra một tương lai ảm đạm cho thị trường hàng hoá.
Năm 1999 đánh dấu một bước ngoặc chiến lược quan trọng trên chiến trường vàng. Thời điểm này được ví như cuộc chiến tranh bảo vệ Volgagrad trong thế chiến thứ hai vậy Kể từ đây, các nhà ngân hàng vẫn chưa thể giành được thế chủ động trên chiến trường vàng. Hệ thống tiền tệ pháp định lấy đồng đô-la Mỹ làm biểu tượng đã phải lùi bước trước sự tấn công mạnh mẽ của vàng.
Ngoài việc khống chế giá vàng, các nhà ngân hàng quốc tế còn đặt nền móng cho cuộc chiến trường thứ hai – cuộc chiến dư luận và cuộc chiến học thuật. Thành công lớn nhất của các nhà ngân hàng quốc tế chính là việc
tẩy não
một cách hệ thống đối với giới kinh tế học, dẫn dắt giới học thuật bước vào trò lường gạt dân thường. Trong khi phần lớn các nhà kinh tế học hiện đại đặt ra câu hỏi đầy nghi vấn về công dụng của vàng thì các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế lại cảm thấy hí hửng điều đó có nghĩa là mọi việc vẫn còn đang nằm trong tầm khống chế của họ.
Vậy chế độ tiền tệ pháp định có gì không tốt? Không phải là chúng ta đã sống dưới chế độ tiền tệ pháp định này suốt 30 năm rồi đó sao? Kinh tế không phải là đang phát triển như thường đó sao?
Câu trả lời của John Exeter – nguyên Phó Chủ tịch ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và phó chủ tịch tập đoàn Hoa Kỳ là:
Với một hệ thống như vậy, chẳng có quốc gia nào cần phải chi trả tiền bảo đảm giá trị tiền gửi cho một quốc gia khác. Bởi họ không chịu sự trói buộc của quy luật hối đoái (tiền vàng). Chúng la có thể dùng tiền giấy để mua dầu, bất kể với số lượng tiền in là bao nhiêu. Các nhà kinh tế học đã xem thường khát vọng của nhân dân đối với một loại tiền tệ có thể dùng làm tài sản tích trữ. Trên thực tế, họ đã từ chối thừa nhận vàng là tiền tệ mà nhận định một cách võ đoán rằng vàng chỉ là một loại hàng hoá phổ biến giống như chì hay kẽm và chẳng có vị trí gì trong hệ thống tiền tệ. Thậm chí họ còn đề nghị Bộ tài chính ngừng tiếp tục tích trữ vàng đồng thời từng bước bán tháo vàng ra thị trường. Sau khi xử lý xong vàng, họ bắt đầu tuỳ ý xác định giá trị của tiền giấy. Họ đã không cho chúng la biết làm thế nào mà thứ giấy nợ
IOU
luôn tăng trưởng với tốc độ thần kỳ lại có thể thực hiện được chức năng bảo đảm giá trị tiền tệ. Hầu như họ hoàn toàn không ý thức được rằng việc dùng loại tiền giấy có tốc độ phát triển sẽ có ngày tạo nên gánh nặng nợ nần.
Keynes và Friedman chỉ là phiên bản của John Law trong thế kỷ 20. Họ đã xem thường luật hoán đổi từ tiền giấy sang vàng và cố ý sử dụng bộ óc của các nhà kinh tế học hoặc các chính trị gia cho việc in ấn tiền giấy. Họ cho rằng, điều này có thể đi ngược với quy luật tự nhiên, tạo nên của cải theo cách bịa đặt dối trá, triệt tiêu chu kỳ thương mại, đảm bảo toàn dân luôn có việc làm và xã hội mãi mãi phồn thịnh. Điều này cũng có nghĩa rằng một số nhà kinh tế học nào đó đã đặt ra chính sách theo khuynh hướng chính trị riêng mà không cần mạo hiểm tiền bạc của bản thân. Họ sử dùng trí tuệ kiểu John Law thời đó, nghĩa là uyên bác, tuỳ ý quyết định chính sách tiền tệ, tài chính, thu thuế, thương mại, giá cả, thu nhập, và thậm chí còn nói cho chúng ta biết rằng những điều này là tốt nhất cho chúng ta. Như vậy họ đã điều khiển nền kinh tế vi mô của chúng ta.
Đại đa số các nhà kinh tế học hiện nay đều là những người được các học trò của Keynes
bồi dưỡng
và
huấn luyện
, bao gồm cả những người đã giành được giải thưởng Nobel như Paul A. Samuelson – tác giả của cuốn giáo trình
Kinh tế học
nổi tiếng. Trong giáo trình của ông đầy rẫy những công thức số học và các loại biểu đồ. Nhưng khi đọc đến quan điểm của ông đối với vàng, người ta mới phát hiện ra rằng, cách nhìn của ông ta hầu như chẳng có giá trị lịch sử nào mà tỏ ra hết sức nông cạn. Ông là một trường hợp điển hình của giới học thuật thế kỷ 20 – những người coi thường việc nghiên cứu lịch sử của vàng, hoặc là vì một số lý do nào đó mà chọn cách cố ý xem thường(12).
Trong một bài bình luận nổi tiếng về vàng sau năm 1968, Samuelson đã nói thế này:
Cuối cùng, vàng đã bị tiền tệ hoá hoàn toàn. Giá trị của nó hoàn toàn do quan hệ cung cầu quyết định, cũng chẳng khác gì đồng, lúa mạch, bạc hay muối cả. Nếu như đã mua vàng với giá 55 đô-la Mỹ/ounce và bán ra với giá 68 đô-la Mỹ/ounce, một tù trưởng của vùng Trung Đông nhất định sẽ kiếm được bộn tiền. Nhưng nếu như mua vào với giá 55 đô-la Mỹ mà bán tháo ra với giá 38,5 đô la thậm chí là 33 đô-la Mỹ/ounce thì đảm bảo rằng ông ta sẽ thua đến mức chẳng còn áo mà mặc
.
Samuelson tin rằng, một khi vàng bị hất văng khỏi hệ thống tiền tệ thì nhu cầu đối với vàng chỉ hạn chế trong mấy loại nhu cầu công nghiệp rất nhỏ như ngành trang sức. Cho nên, ngày 15 tháng 8 năm 1971, sau khi Nixon đóng cửa vàng, hiệp ước Bretton Woods không còn hiệu lực thì vàng đã không còn là tiền tệ nữa, và cũng chẳng còn ai cần đến vàng nữa. Đến năm 1973, vị giáo sư này cho rằng, mức 75 đô-la Mỹ/ounce vàng năm 1972 nhất định sẽ không duy trì được lâu cuối cùng giá vàng có thể sẽ rớt xuống mức dưới 35 đô-la Mỹ/ounce. Điều khiến vị giáo sư này ngọng miệng chính là bảy năm sau, giá vàng đã tăng vọt lên đến 850 đô-la Mỹ/ounce.
May là Samuelson không giữ chức giám đốc Quỹ đối xung của phố Wall, nếu không thì thứ mà ông ta mất đã không chỉ là quần áo trên người.
------
Chú thích:
(11) Ferdinand Lips, Cuộc chiến vàng: Trận chiến chống lại tiền tệ từ cách nhìn của người Thuỵ Sĩ (Gold War, The Battle Against Sound Money as Seen From a Swiss Perspective) – New York: The Foundation for the Advancement of Monetary Education 2001, tr. 125.
(12) Ferdinand Lips, Cuộc chiến vàng: Trận chiến chống lại tiền tệ từ cách nhìn của người Thuỵ Sĩ (Gold War, The Battle Against Sound Money as Seen From a Swiss Perspective) – New York: The Foundation for the Advancement of Monetary Education 2001, tr. 86, 87.