PHẦN VIII.85
-
Chim Cổ Đỏ
- Jo Nesbo
- 2239 chữ
- 2020-05-09 03:20:24
Số từ: 2224
Dịch giả: Nguyễn Quang Huy
C.ty Nhã Nam phát hành
Nhà xuất bản Hà Nội
PHẦN 8: KHẢI HUYỀN
85.
Vienna.
Ngày 4 tháng 5 năm 2000
Harry tự cho phép mình tận hưởng cảm giác lớp da mát lạnh sau gáy và bên hai cánh tay trên ghế ngồi chiếc máy bay hãng hàng không Tyrolean Air trong ba giây. Rồi quay lại với những suy nghĩ.
Dưới cánh máy bay, vùng thôn quê nằm đó như một miếng vải chắp vá liền mạch có hai màu vàng xanh, với con sông Danube lấp lánh ánh mặt trời như một vết thương màu nâu đang rỉ nước. Cô chiêu đãi viên hàng không vừa thông báo rằng họ chuẩn bị hạ cánh xuống Schwechat, nên Harry chuẩn bị tâm lý.
Harry chưa bao giờ sung sướng khi đi máy bay, nhưng mấy năm gần đây anh bắt đầu thấy khiếp đảm thật sự. Ellen có lần đã hỏi anh đang sợ hãi cái gì.
Rơi máy bay và chết, còn cái quái gì nữa?
anh đáp. Cô đã bảo anh rằng xác suất chết trong máy bay khi thỉnh thoảng mới bay là 1/30.000.000. Anh cảm ơn cô về thông tin này và nói anh không còn sợ hãi nữa.
Harry hít sâu rồi thở ra khi lắng nghe những âm thanh thay đổi của động cơ. Tại sao khi bạn già đi, nỗi sợ chết lại càng tồi tệ hơn? Sao không thể là ngược lại? Signe Juul đã bảy mươi chín tuổi rồi. Có lẽ bà ấy đã sợ chết khiếp. Một người bảo vệ tại pháo đài Akershus đã tìm thấy bà ấy. Trong phiên gác của mình, họ nhận được cuộc điện thoại của một triệu phú nổi tiếng mất ngủ tại Aker Brygge, thông báo rằng một trong số các đèn pha trên bức tường phía Nam bị tắt. Viên sĩ quan trực cử một bảo vệ ra ngoài xem xét. Hai tiếng sau đó Harry đã thẩm vấn cậu ta. Cậu ta khai rằng khi đến gần đèn pha, cậu ta đã thấy một người phụ nữ không còn sự sống nằm vắt ngang, che hết ánh sáng. Ban đầu cậu ta tưởng bà ấy say rượu, nhưng khi đến gần hơn và thấy trang phục kiểu cổ điển và mái tóc bạc, cậu ta nhận ra bà ấy là một phụ nữ lớn tuổi. Ý nghĩ tiếp theo của cậu ta là bà ấy ngã bệnh, nhưng rồi cậu phát hiện ra hai bàn tay bà ấy bị trói quặt sau lưng. Chỉ đến khi đến gần, cậu ta mới thấy cái lỗ toang hoác trên áo khoác bà ấy.
Tôi thấy xương sống của bà ấy bị giập nát!
cậu ta nói với Harry.
Chết tiệt, tôi nhìn thấy cột sống của bà ấy.
Rồi cậu ta bảo với anh mình đã chống tay vào tường đá mà nôn thốc nôn tháo ra. Chỉ về sau khi cảnh sát tới mang thi thể đi, nhờ ánh đèn lại chiếu sáng bức tường, cậu ta mới nhận ra cái vật nhớp nhớp trên bàn tay mình là gì. Cậu ta xòe tay ra cho Harry xem, như thể điều đó quan trọng lắm.
Đơn vị Điều tra Hiện trường đã đến, Weber bước qua chỗ Harry trong khi quan sát Signe Juul bằng đôi mắt ngái ngủ.
Ông nói rằng Chúa Trời không phải là vị quan tòa khát máu, mà chính là thằng cha ở bên dưới mặt đất này.
Nhân chứng duy nhất là một người bảo vệ làm ca đêm chịu trách nhiệm giám sát các nhà kho. Anh ta đã thấy một chiếc xe đi xuống đường Akershusstranda trên đường đi về hướng Đông vào lúc 2 giờ 45 phút. Nhưng vì đèn của tài xế bật sáng hết công suất, nên anh ta bị lóa mắt không nhìn rõ được hình dáng hay màu của xe.
Cảm giác như thể viên phi công đang tăng tốc. Harry hình dung họ đang cố gắng tăng độ cao vì cơ trưởng bất chợt nhìn thấy dãy Alp ngay phía trước buồng lái. Rồi anh lại cảm thấy như không khí dưới cánh chiếc Tyrolean Air đã biến mất, Harry thấy ruột gan như lộn lên. Phút tiếp theo anh rên rỉ thành tiếng khi các hành khách nẩy tưng tưng như quả bóng cao su. Viên cơ trưởng kết nối hệ thống liên lạc và nói về sự nhiễu loạn bằng tiếng Anh và tiếng Đức.
Aune đã nói rõ rằng nếu ai đó không có khả năng cảm thấy sợ hãi thì họ sẽ không sống sót nổi lấy một ngày. Harry nắm chặt tay ghế và cố gắng tìm kiếm niềm an ủi trong suy nghĩ đó.
Thực ra chính Aune là người đem lại động lực cho Harry bắt ngay chuyến bay đầu tiên có được đến Vienna. Một khi ông ta đã có các dữ kiện bày ra trước mặt, ông ta đã nói ngay rằng thời gian là điều quan trọng bậc nhất.
Nếu chúng ta đang phải đối phó với một kẻ sát nhân hàng loạt, thì hắn đang ở ngưỡng mất kiểm soát!
Aune nói.
Không giống như kẻ sát nhân hàng loạt cổ điển, tìm kiếm sự giải tỏa tình dục nhưng lần nào cũng thất vọng nên tăng tần suất giết chóc chỉ vì thất vọng, kẻ sát nhân này rõ ràng không có động cơ về tình dục. Hắn có một kế hoạch bệnh hoạn nào đó phải hoàn thành, và tính cho đến giờ hắn rất cẩn trọng và hành động rất sáng suốt. Thực tế rằng các vụ giết người rất gần nhau, và hắn đã cố công nhấn mạnh tính biểu tượng trong các hành động của mình - như với vụ hành hình tại pháo đài Akershus - cho thấy rằng hoặc hắn cảm thấy mình không thể bị đánh bại, hoặc hắn đang mất kiểm soát, có thể đang hình thành chứng rối loạn tâm thần.
Hoặc có lẽ hắn vẫn đang hoàn toàn nắm quyền kiểm soát!
Halvorsen nói.
Hắn chưa hề mắc sai lầm. Chúng ta vẫn không có được đầu mối nào cả.
Chết tiệt, Halvorsen hoàn toàn đúng. Chẳng có đầu mối nào cả.
Mosken đã giải thích được hành tung của ông ta. Ông ta nhận điện thoại tại Drammen khi Halvorsen gọi đến vào buổi sáng để kiểm tra, vì mấy cảnh sát theo dõi không bắt được tăm hơi nào của ông ta tại Oslo. Dĩ nhiên họ không thể biết liệu những gì ông ta nói có đúng không: rằng ông ta đã chạy xe đến Drammen sau khi sân vận động Bjerke đóng cửa vào lúc mười rưỡi, và đến nơi lúc mười một rưỡi. Hoặc liệu ông ta có tới nơi lúc hai rưỡi sáng, và do vậy ở cái thế có thể bắn chết Signe Juul hay không.
Không còn nhiều hy vọng, Harry yêu cầu Halvorsen gọi cho các nhà hàng xóm hỏi xem họ có nghe hoặc nhìn thấy Mosken đến không. Anh còn yêu cầu Moller nói chuyện với ủy viên công tố xem họ có kiếm được lệnh khám xét cả hai căn hộ của Mosken. Harry biết rằng những lập luận của họ rất yếu. Y như rằng, ủy viên công tố trả lời ông ta ít nhất cũng muốn thấy có gì tương đồng với chứng cớ gián tiếp không, trước khi cho phép.
Không có đầu mối. Đến lúc bắt đầu hoảng loạn rồi.
Harry nhắm mắt lại. Khuôn mặt của Even Juul vẫn còn in đậm trong võng mạc của anh. Xám ngoét, khép kín. Ông ta ngồi lọt thỏm trong ghế bành tại Irisveien, tay cầm sợi dây dắt chó.
Thế rồi các bánh xe chạm đất, Harry có thể khẳng định được rằng mình nằm trong số ba mươi triệu người may mắn.
• • •
Tay cảnh sát được sếp cảnh sát tại Vienna tử tế để anh tùy nghi sử dụng làm tài xế, hướng dẫn viên du lịch và phiên dịch, đang đứng ở sảnh khách đến. Anh ta mặc bộ com lê tối màu, đeo kính râm, cổ bò mộng, tay giơ cao tờ giấy A4 trên viết chữ MR. HOLE bằng bút dạ.
Cổ bò mộng tự giới thiệu mình là Fritz (Phải có ai đó tên là Fritz chứ
, Harry nghĩ) dẫn anh đến chiếc BMW màu xanh nước biển, một lúc sau đã lao nhanh trên xa lộ tiến về thành phố theo hướng Tây Bắc. Xe phóng qua các ống khói nhà máy đang phun khói trắng, qua những người lái xe mô tô hành xử lịch sự dạt sang bên phải khi Fritz tăng tốc.
Anh sẽ ở trong khách sạn gián điệp!
Fritz nói.
Khách sạn gián điệp?
Khách sạn Imperial cổ xưa đáng kính. Đó là nơi các điệp viên Nga và phương Tây đào ngũ trong suốt Chiến tranh Lạnh. Sếp của anh chắc đang sống trên đống tiền.
Họ đến bùng binh Karntner, Fritz đưa tay chỉ.
Kia là chóp Stephansdom, anh có thể thấy qua các mái nhà về bên phải!
anh ta nói.
Đẹp, đúng không? Đây là khách sạn. Tôi sẽ chờ anh vào làm thủ tục nhận phòng!
Nhân viên lễ tân tại khách sạn Imperial mỉm cười khi thấy Harry ngắm nghía khu tiếp tân với sự ngưỡng mộ.
Chúng tôi đã tân trang nó tốn mất bốn mươi triệu si linh, để nó trông giống hệt như thời trước chiến tranh. Trận đánh bom năm 1944 gần như đã phá hủy nó hoàn toàn. Vài năm trước nơi này cũng khá xập xệ.
Khi Harry rời thang máy lên tầng hai, anh cảm thấy như thể đang bước trên lớp than bùn xốp, các tấm thảm đều dày và mềm. Căn phòng không đặc biệt lớn, nhưng có một chiếc giường bốn cọc rộng trông như thể ít nhất nó đã một trăm tuổi. Mở cửa sổ, anh có thể ngửi thấy mùi hương bánh ngọt từ tiệm bánh bên kia phố.
Helena Mayer sống tại Lazarettegasse,
Fritz thông báo cho Harry khi anh vào lại trong xe. Anh ta la ó một chiếc xe chuyển làn mà không ra hiệu.
Bà ấy là một góa phụ có hai đứa con đã trưởng thành. Làm giáo viên sau chiến tranh cho đến khi về hưu.
Anh đã nói chuyện với bà ấy chưa?
Chưa, nhưng tôi có đọc hồ sơ của bà ấy.
Địa chỉ tại Lazarettegasse là một cơ ngơi chắc hẳn đã có thời rất trang nhã. Nhưng giờ đây lớp sơn đang bị bong tróc trên các bức tường trong lồng cầu thang rộng. Những tiếng vọng từ bước chân của họ hòa nhịp với tiếng nước nhỏ giọt.
Helena Mayer đứng tươi cười bên cửa vào căn hộ của bà trên tầng ba. Bà có đôi mắt nâu rất có hồn, bà lên tiếng xin lỗi về cái cầu thang.
Căn hộ bố trí hơi quá nhiều đồ nội thất, chứa đầy những món đồ lặt vặt người ta nhặt nhạnh được suốt cả quãng đời họ.
Xin mời ngồi,
bà nói.
Tôi chỉ biết nói tiếng Đức, nhưng anh có thể nói với tôi bằng tiếng Anh. Tôi hiểu được khá tốt!
bà nói, quay sang Harry.
Bà mang vào một khay đựng cà phê và bánh ngọt.
Bánh strudel,
bà giải thích, chỉ tay vào đĩa bánh.
Ngon tuyệt,
Fritz nói và tự phục vụ.
Vậy là bà quen biết Gudbrand Johansen,
Harry nói.
Vâng, tôi có biết. Chúng tôi gọi anh ta là Uriah. Anh ta cứ nhất định bắt gọi như thế. Ban đầu chúng tôi tưởng anh ta không hoàn toàn tỉnh táo. Vì những chấn thương của anh ta.
Những chấn thương thế nào?
Chấn thương đầu. Và chân nữa, tất nhiên. Bác sĩ Brockhard tính cưa chân anh ta.
Nhưng ông ta đã bình phục, và được chuyển đến Oslo vào mùa hè năm 1944, đúng không?
Phải, ý định là vậy.
Ý bà nói vậy là sao?
À anh ta đã biến mất, chẳng phải vậy sao? Và tôi không cho rằng anh ta đến Oslo, phải không nhỉ?
Theo những gì tôi biết thì không. Hãy nói tôi nghe, bà biết rõ Gudbrand Johansen đến mức độ nào?
Biết rất rõ. Anh ta là người có tính hướng ngoại, và là một người kể chuyện rất hay. Tôi nghĩ tất cả các y tá, hết người này đến người kia, đều đem lòng yêu anh ta.
Bà cũng vậy chứ?
Bà bật cười, nụ cười rạng rỡ và có âm rung.
Tôi cũng thế. Nhưng anh ta không muốn tôi!
Không ư?
Trông tôi hồi ấy dễ coi lắm, tôi có thể nói cho anh biết như thế không phải vì lý do nhan sắc của tôi đâu. Uriah muốn một người khác cơ!
Thật sao?
Phải, tên cô ấy cũng là Helena.
Là Helena nào vậy?
Bà già nhíu mày.
Helena Lang, chắc vậy. Tình yêu của họ dành cho nhau chính là nguyên nhân của thảm kịch.
Thảm kịch gì?
Bà ngạc nhiên ngây nhìn Harry và Fritz, rồi lại nhìn Harry.
Chẳng phải đó là lý do hai người đến đây sao?
bà nói.
Vì vụ giết người?