Q3 - Chương 22: Rồng Ouroboros
-
Chuyện Xứ Lang Biang
- Nguyễn Nhật Ánh
- 5589 chữ
- 2020-05-09 04:13:51
Số từ: 5577
Quyển 3: Chủ nhân núi lưng chừng
Nguồn: NXB Trẻ
Cuối cánh đồng là những ngọn đồi trọc, nơi Nguyên đã đến rồi. Nhưng thầy Akô Nô không rẽ theo con đường có những cây thông lùn dẫn đến thung lũng hôm qua.
Thầy băng băng quẹo phải, nơi không hề có lối đi. Trong khi Nguyên tò mò chưa biết thầy làm cách nào để vượt qua những bụi rậm toàn loại cây cao ngang ngực với những chiếc lá cứng, dài và nhọn như mũi giáo thì nó bỗng trợn tròn mắt lên: Thầy Akô Nô đi tới đâu, những bụi rậm tự động tách ra tới đó, rất giống với cái cách nhường đường của dãy hàng rào ở công viên Các Thứ Kẹo mà nó và Kăply từng chứng kiến.
Nguyên, Kăply và con Chacha lẽo đẽo bám theo, đến khi những tia nắng mặt trời gần như xuyên thẳng xuống từ trên đỉnh đầu, mọi người đã vòng ra phía sau ngọn đồi. Nguyên ngạc nhiên thấy một vườn cây xanh um đập vào mắt, chưa kịp hỏi, thầy Akô Nô đã quay lại, nói nhỏ:
– Đây là vườn táo.
Vẻ bình tĩnh tuột khỏi gương mặt Nguyên và Kăply. Hai đứa kiễng chân, căng mắt cố nhìn xem những quả táo vàng nằm ở đâu trên cây nhưng khoảng cách quá xa, tụi nó chẳng nhìn thấy gì.
– Bọn ngươi có thấy bờ đê bao quanh khu vườn không? – Thầy Akô Nô bỗng hỏi.
– Dạ thấy.
– Bọn ngươi có biết đó là cái gì không?
– Dạ không. – Kăply nín thở – Đó là cái gì hả thầy?
– Rồng Ouroboros đó.
Như bị nhét một đống cá pha lê vô họng, Nguyên và Kăply đột nhiên ú ớ:
– Rồng… Ouro… ro… bo… ros…?
Hai đứa mặt mày xanh lè, kích thước và chiều dài khủng khiếp của con rồng khiến tụi nó thấy tay chân tự nhiên lạnh ngắt như rơi vào một hố băng.
– Một ngàn năm trăm năm trước, con quái này từng canh giữ bộ Lông Cừu Vàng ở xứ Mũi Lõ. – Thầy Akô Nô nghiêm trang giải thích – Nó có hai đầu, khi đầu này ngủ thì đầu kia thức, do đó không ai đột kích hoặc đánh lừa nó được. Chất độc trong móng chân nó lại cực kỳ lợi hại, ai để nó chộp trúng coi như chết chắc.
– Thế làm sao tụi con… tụi con…
Kăply lắp bắp hỏi, vừa nói nó vừa sè sẹ lùi ra phía sau.
– Ngươi yên tâm, nó chưa phát giác ra chúng ta đâu. – Thầy Akô Nô nhìn Kăply qua khóe mắt, vẻ chế nhạo – Rồng Ouroboros đến nay đã già khọm rồi. Trong vòng hai trăm năm trở lại đây, thị lực và thính lực của nó đã không còn bén nhạy nữa. Hiện nay nó chỉ phát hiện được vật lạ trong vòng bán kính năm mươi mét thôi.
Nguyên lo lắng:
– Thầy ơi, ngay cả như vậy tụi con cũng hầu như không có cơ hội nào.
– Ngươi câm mồm lại đi, đồ thỏ đế! Thế mà cũng gọi là chiến binh giữ đền! – Thầy Akô Nô thình lình nổi quạu – Ta đã nói hết đâu! Nghe cho kỹ nè! Rồng Ouroboros thực ra cũng có nhược điểm. Đây là một trong những bí mật lớn nhất của xứ Lang Biang.
Nguyên và Kăply hồi hộp dán mắt vào mặt thầy Akô Nô, dường như không cả thở. Thậm chí tụi nó tập trung đến mức không biết cả hai đều đưa tay vò đôi tai đến đỏ tấy như muốn sàng lọc lại bộ nghe nhằm chộp bắt vận may mà thầy Akô Nô sắp cung cấp cho tụi nó, dù có thể cái vận may đó nhỏ xíu, không đủ cho một muỗng cà phê.
– Ouroboros là một con rồng bị dị tật bẩm sinh. – Thầy Akô Nô chậm rãi – Nó chỉ thuận bên trái. Nửa mình bên phải của nó không linh hoạt bằng.
– Con hiểu rồi, thưa thầy. – Nguyên nói, mặt rạng dần ra – Có phải thầy muốn tụi con xông vào vườn táo lúc cái đầu bên trái của con rồng Ouroboros đã ngủ?
Thầy Akô Nô toét miệng cười:
– Hì hì, ta nghĩ là ta muốn nói vậy đó. Khi bị con quái rượt, bọn ngươi lập tức chạy về bên phải. Và nhớ chạy vòng tròn. Vòng tròn càng nhỏ càng tốt.
– Chi vậy thầy? – Kăply thắc mắc.
– Đừng hỏi nhiều. – Thầy Akô Nô khoát tay – Nếu bọn ngươi làm đúng theo lời ta, đến một lúc con quái sẽ bất động. Nhưng nó chỉ bất động trong một thời gian ngắn thôi, do đó vừa thấy con quái đứng im, bọn ngươi phải nhanh chóng thoát thân liền.
– Thế còn những quả táo vàng, thưa thầy? – Nguyên chưng hửng – Tụi con còn phải hái táo nữa chớ!
Thầy Akô Nô bĩu môi:
– Có khoảng hai chục đứa cỡ bọn ngươi cũng đừng hòng rớ vào những quả táo đó được.
Trước ánh mắt dò hỏi của Nguyên và Kăply, thầy chỉ tay vào những tán lá trước mặt, thủng thỉnh nói:
– Dĩ nhiên là những quả táo vàng đang ở trên cây. Nhưng chúng dính rất chặt vào cuống lá, chặt đến mức không một ai, cũng không một loại thần chú nào trên thế gian này có thể bứt chúng ra khỏi cây được.
– Sao kỳ vậy thầy? – Kăply lại láu táu hỏi.
Thầy Akô Nô đưa tay xoa xoa chỏm tóc loe hoe, tặc tặc lưỡi:
– Bọn ngươi không biết đó thôi. Cây táo vàng ở núi Lưng Chừng còn gọi là cây Đời. Số lá cây trong khu vườn này bằng với số người sống ở xứ Lang Biang. Trên mỗi chiếc lá đều có ghi tên một người. Ai chết đi thì dĩ nhiên chiếc lá có ghi tên người đó sẽ rụng xuống. Ai sắp chết thì chiếc lá của họ sẽ khô gần hết, chỉ còn một góc nhỏ còn xanh. Thời gian còn được sống càng ngắn thì phần xanh càng nhỏ.
Nguyên và Kăply há hốc miệng ra nghe, sững sờ và khiếp hãi.
– So với những vận mạng mà vườn táo này nắm giữ, khu rừng tiên tri trên mặt đất chỉ là trò trẻ con. – Thầy Akô Nô vung tay, hào hứng tiếp – Mỗi cây táo vàng chỉ sinh một quả, được gọi là quả của tri thức, ma thuật và sức mạnh, hạt táo có hình ngôi sao năm cánh, bỏ hạt táo trong túi áo có thể bảo vệ được mạng sống trước mọi hiểm họa.
Lòng Nguyên chùng xuống theo từng câu nói của thầy Akô Nô. Sự thật về vườn táo ở núi Lưng Chừng có lẽ là một bí mật rất ít người biết và dĩ nhiên không ghi trong sách, bằng chứng là nhà thông thái Suku cũng chẳng biết mô tê gì về những điều thầy Akô Nô vừa kể. Và những điều đó khiến Nguyên gần như bị sốc. Nó nhìn thầy Akô Nô, nặng nề hỏi:
– Thế tụi con không có cách gì hái được những quả táo kia hả thầy?
Thầy Akô Nô chưa kịp đáp, Kăply đã ré lên bằng thứ giọng phải nói là xẳng hết sức:
– Thầy nói sao ấy chứ. Nếu những quả táo vàng không thể rời khỏi cây thế sao trước đây Đại tiên ông Mackeno đem về được một quả?
– Hỏi hay lắm! – Thầy Akô Nô nheo mắt nhìn Kăply – Nhưng ta nhớ ta đâu có nói là không hái được những quả táo đó. Ta chỉ nói là không người nào có khả năng bứt chúng ra khỏi cây thôi. Không một người nào, ngươi hiểu chưa?
– Chưa hiểu! – Khuôn mặt Kăply vẫn khuất sau chiếc mặt nạ quạu quọ, nó nói như gây gổ – Thầy nói vậy hổng lẽ Đại tiên ông Mackeno không phải là người?
– Ngươi cóc biết gì mà cũng làm om sòm. – Kăply quạu khiến thầy Akô Nô đâm quạu theo – Lão Mackeno đâu có tự tay hái quả táo đó.
– Vậy là ai hả thầy? – Nguyên vội vã cất tiếng, vừa tò mò vừa muốn dập tắt bầu không khí căng thẳng Kăply vừa khuấy lên.
– Đó chính là bầy khỉ Manibum, còn được biết dưới biệt danh những kẻ cướp vui tính. Mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, bao giờ bọn khỉ này cũng kéo đến vườn táo đùa giỡn và hái quả trên cây chơi trò ném nhau. Theo truyền thuyết, bọn khỉ Manibum từng có ơn với phúc thần Kalăm và được ngài ban cho một quyền năng đặc biệt. Đó là trở thành sinh vật duy nhất có thể bứt rời những quả táo vàng ra khỏi cây Đời.
Kăply nhăn nhó:
– Ngày nào bọn chúng cũng kéo tới quậy tưng như vậy, chắc vườn táo trụi lủi từ đời tám hoánh rồi…
Thầy Akô Nô nhếch môi:
– Nếu nói như ngươi thì cây Đời là loại cây tầm thường sao? Ngươi phải biết, cứ mỗi quả táo rụng xuống đất thì ngay ở chỗ cuống cũ một quả táo khác lại mọc ra.
Thầy cười hì hì:
– Trước đây, lão Mackeno lợi dụng lúc nhá nhem hóa thành một con khỉ lẳng lặng chui vào vườn táo, rình bắt được một quả…
Nguyên reo lên:
– Ra là thầy muốn tụi con cầm chân con rồng Ouroboros để con Chacha có thì giờ trà trộn vào bọn khỉ Manibum?
– Chính xác là ta đang nghĩ như vậy đó. – Thầy Akô Nô gật gù, vẻ hài lòng. Chợt thầy trở nên nghiêm trọng, gương mặt trẻ con nhăn lại như làm nũng nhưng nội dung lời dặn dò của thầy khiến Nguyên và Kăply không cảm thấy buồn cười chút nào – Trước khi bọn ngươi bắt đầu, ta lưu ý một điều tối quan trọng. Đó là bọn ngươi phải kết thúc mọi chuyện trước khi trời sập tối rồi chạy lẹ tới chỗ hai con phi mã, quay về ngay. Nếu bọn ngươi để lão Ôkô Na bắt gặp, mọi chuyện coi như hỏng bét bè be.
Kăply ngó quanh:
– Lão ta hiện đang ở đâu hả thầy?
– Lão là loại người sống về đêm. – Thầy Akô Nô chép miệng – Cho đến chừng nào trời chưa tối hẳn, lão không đáng sợ với bọn ngươi đâu.
Thầy Akô Nô tự nhiên biến mất trong khi hai đứa trẻ còn bao nhiêu điều chưa kịp hỏi, y như thình lình độn thổ giữa chừng câu chuyện để làm người đối thoại cụt hứng là thói quen ưa thích của ông thầy trẻ con này.
Nguyên và Kăply cùng con Chacha giấu mình trong bụi rậm dưới chân đồi, thấp thỏm chong mắt nhìn về phía khu vườn táo. Ở trên cao, mặt trời uể oải nhích xuống từng nấc một như chẳng có việc gì đáng làm hơn là chọc cho bọn trẻ sốt ruột chơi.
– Tao chẳng hiểu tại sao chạy vòng tròn lại làm cho con rồng Ouroboros bất động? – Kăply hắng giọng, tin rằng tán gẫu là cách tốt nhất để đốt cháy thời gian.
– Tao cũng hổng biết. – Nguyên đăm chiêu, không quên dứt một lúc hai, ba sợi tóc – Nhưng tao nghĩ khi nói như vậy, thầy Akô Nô đã tính toán hết rồi.
Kăply lại băn khoăn:
– Nếu không thuận bên phải, con quái đó có thể không chộp được tụi mình, nhưng nếu nó nổi hứng phun lửa ra thì sao? Chắc tao và mày thành tro quá hà.
– Thầy Akô Nô không nói gì về chuyện này có nghĩa là con rồng Ouroboros sẽ không phun lửa.
– Hổng có con rồng nào là không phun lửa. – Kăply phản đối – Nhất là với một con rồng có nhiệm vụ canh giữ khu vườn đặc biệt này. Rồng mà không phun lửa chẳng khác nào chó mà không biết sủa.
Nguyên so vai, giọng không tự tin lắm, giống như nó đang thử cắt nghĩa xem tại sao con Ouroboros không xài tới lửa:
– Có thể chính vì vai trò quan trọng của những cây Đời mà rồng Ouroboros không dám phun lửa. Nó sợ sức nóng ảnh hưởng đến đời sống của vườn cây.
Nguyên nói thêm bằng giọng cao hơn:
– Hơn nữa, nó cần quái gì dùng tới lửa khi mà những móng chân cực độc của nó đã là thứ vũ khí hết sức ghê gớm rồi.
Kăply không hỏi nữa, nó thấy sự phân tích của Nguyên không thuyết phục lắm nhưng quả thực thì nó cũng không thấy cách giải thích nào khá hơn.
Kăply ngồi im, lắng nghe gió đi trong bụi cây, mắt nhìn đau đáu vào chỗ con rồng Ouroboros đang nằm bao quanh khu vườn táo, thử hình dung lát nữa con quái vùng dậy và rượt đuổi tụi nó như thế nào. Kăply càng tưởng tượng bụng càng thót lại, bất giác nó nhìn đăm đăm xuống hai cẳng chân mình, như thể nuôi dưỡng một hy vọng mơ hồ về một cặp cánh sẽ bất thần mọc ra ở chỗ nào đó cạnh đầu gối hay nhích xuống một chút về phía dưới, gần gót chân.
Mọc ra!
, có lúc Kăply bắt gặp mình đang lẩm bẩm như thể đọc thần chú, và dĩ nhiên vì nó chưa học qua một câu thần chú nào như vậy nên chẳng có gì mọc ra ở dưới chân nó hết, và nó lại buồn phiền đưa mắt ngắm nghía bóng những chiếc lá nhọn in xuống đất thoạt dài thoạt ngắn do nhánh cây sau lưng nó đong đưa trong ánh nắng chiều.
– Gần đến giờ rồi!
Kăply giật bắn khi nghe tiếng Nguyên vang lên bên tai. Nó bừng tỉnh và lật đật quét mắt về phía khu vườn táo, phát hiện nhiều bóng đen đang nhảy nhót trên các cành cây và nếu nó không nhìn thấy thì những tiếng khọt khẹt văng vẳng trong gió cũng đủ cho nó biết bọn khỉ Manibum đã xuất hiện.
– Tụi mình phải làm gì đây? – Kăply hỏi, cố giữ giọng đừng run.
Nguyên đứng dậy, nói như ra lệnh:
– Phải đến gần con rồng Ouroboros hơn nữa. Con quái đó mà chưa ngóc đầu lên thì tụi mình hổng biết hiện nay cái đầu nào của nó đang thức.
Kăply gần như bị Nguyên lôi về phía trước, mặc dù nếu thằng bạn đại ca buông tay nó ra thì chắc chắn nó sẽ không bỏ chạy. Nó vẫn đi, chắc thế, nhưng có lẽ là đi từng bước rất ngắn, như kiểu di chuyển của người bị trói chặt hai chân.
Đầu rồng Ouroboros nằm ở mé phải khu vườn, Nguyên và Kăply chỉ nhận ra điều đó khi con quái bất thần ngóc đầu lên. Mặc dù nhận ra cái đầu bên trái đã ngủ, sự mừng rỡ đó vẫn không giúp hai đứa trẻ bớt run khi nhìn thấy vẻ dữ tợn của cái đầu còn lại.
Đó là một cái đầu lân với bờm sư tử. Cặp sừng ngắn, nhọn, cái trán dồ, đến đôi mắt tròn quay, to như lục lạc, cái mũi bự chảng, tiếp theo là cái miệng đang há rộng, đỏ lòm viền quanh bởi chòm râu vàng, dài thậm thượt, toàn bộ ngó giống như cái đầu của một quái nhân nghiện rượu, trông càng đáng sợ hơn với một cái đầu khác đang ngáy khò khò ở bên cạnh.
Con Ouroboros đứng vươn mình trên hai chân trước, kéo lên cả một khúc mình dài ở phía sau với những chiếc vảy trắng lóa như dát bạc và hai đứa trẻ điếng hồn thấy cả khu vực chung quanh kêu ầm ầm khi nó đứng dậy.
Con rồng quay đầu về phía Nguyên và Kăply, khịt khịt mũi, hơi thở của nó nóng đến mức hai đứa phải liếc mắt xem vạt áo trước ngực mình đã cháy thành tro hay chưa.
Kăply cảm thấy sự sợ hãi của mình phản chiếu trong ánh mắt của con rồng Ouroboros và điều đó càng làm nó hãi sợ hơn, đến mức gần như không đứng vững nổi. Nó thêm run vì nghĩ rằng con quái dường như cũng đọc được tâm trạng của nó.
– Nhớ chạy về bên trái…
Kăply nghe tiếng Nguyên thì thào bên tai. Nó chưa kịp hiểu ra tại sao thầy Akô Nô dặn tụi nó chạy về bên phải mà Nguyên lại kêu nó chạy qua bên trái thì con Ouroboros đã bắt đầu tấn công.
Khúc mình dài ngoằng và to lớn của con Ouroboros không hề là gánh nặng đối với nó. Nó chỉ quăng mình một cái là cái đầu dữ tợn đã ở cách bọn trẻ chừng hơn mười mét.
Hoàn toàn không nhận thức được mình đang làm gì, Kăply quýnh quáng lao người về phía tay phải và ngay lập tức nó bị Nguyên tóm tay kéo lại.
– Đồ ngu! Bên phải của nó tức là bên trái của mình!
Nguyên gầm gừ và lôi Kăply phóng ngược lại, vừa kịp thoát một cú chụp của con quái, mạnh đến mức đất cỏ bay tứ tung.
Kăply lúc này không biết hồn vía của mình ở đâu. Sự khiếp đảm khiến nó đáng lẽ phải nhanh nhẹn hơn bao giờ hết, lại đột nhiên trở nên mụ mị và chậm chạp như một con gấu vừa thức dậy sau kỳ ngủ đông. Nó máy móc chạy theo Nguyên, như bị cột chặt vào thằng này bằng dây cáp, chuyển động hoàn toàn theo quán tính.
Nguyên kéo Kăply chạy loanh quanh, khổ tâm vì không làm sao thu nhỏ vòng tròn lại trong một thời gian ngắn.
Ở phía sau, con rồng Ouroboros tiếp tục tung ra những cú chụp mãnh liệt bằng chân trước, suýt vồ trúng bọn trẻ mấy lần, trong chốc lát đã cày nát cả một vùng rộng, và khúc mình của nó theo đà rượt đuổi mỗi lúc một dài ra, đến khi Nguyên và Kăply bắt đầu chạy qua vòng thứ hai thì toàn bộ thân mình của con quái đã hiện ra hoàn toàn.
Nguyên và Kăply chạy bán sống bán chết, không dám nhìn thẳng vào con rồng khổng lồ, cũng không đủ thì giờ để quan sát xem con Chacha đã lẩn vào khu vườn táo hay chưa.
Nguyên vừa chạy, vừa né trái né phải, tay vẫn không dám buông Kăply ra. Mồ hôi dầm dề, chảy vô mắt cay xè nó cũng không dám lấy tay lau. Nếu con rồng Ouroboros thuận bên phải, có lẽ mình và Kăply đã bị chụp trúng cả chục lần rồi, Nguyên phập phồng nghĩ và cố thu vòng tròn nhỏ lại, mặc dù cho đến lúc này nó vẫn không hiểu tại sao thầy Akô Nô dặn dò như thế. Vòng tròn càng nhỏ có nghĩa tụi nó càng lúc càng bị con quái vây chặt, đến lúc đó chẳng cần vồ trúng, chỉ cần cuộn tụi nó vào giữa những khúc mình, ép mạnh một cái, con Ouroboros sẽ nghiến tụi nó thành bột một cách dễ dàng.
Đang hoang mang trước viễn ảnh u ám đó, Nguyên bỗng nghe vang lên một tiếng
sực
, cảm thấy bầu không khí chung quanh đột ngột lặng đi, những tiếng động điếc tai do những cú chụp và những cú quất đuôi của con rồng Ouroboros cũng tự nhiên im bặt, giống như một cuộn phim thình lình bị mất tiếng.
Nó đánh mắt ra bốn phía, mừng rỡ thấy con rồng Ouroboros đã đứng sững từ hồi nào, móng chân phải đang cắm phập vào khúc đuôi, từ chỗ đó máu đang tuôn ra từng giọt.
– Hay quá! Chạy mau!
Nguyên reo lên, và hấp tấp kéo Kăply len qua những khoảng trống chật hẹp giữa những khoanh mình đồ sộ của con Ouroboros, chạy ra ngoài.
Đến khi cả hai chạy được một đỗi xa, đôi môi Kăply mới bắt đầu tìm lại được cảm giác:
– Chuyện gì thế mày?
– Con quái đã chụp trúng chính nó. – Nguyên hổn hển giải thích – Theo như những gì thầy Akô Nô nói thì có lẽ nọc độc của nó đã làm cho nó bị tê liệt trong một lúc.
Kăply ngoái đầu ra sau, lo lắng:
– Thế con Chacha đâu?
– Yên tâm đi! Con khỉ đó còn thông minh, tinh quái gấp mấy lần mình.
Nguyên vừa đáp vừa đánh liều lao vào giữa những bụi cây lá nhọn dưới chân đồi, sung sướng khi thấy chúng tách ra hai bên chừa lối cho tụi nó.
Kăply khâm phục:
– Mày học thần chú này từ hồi nào thế?
– Tao có biết cóc gì đâu. Chắc là thầy Akô Nô đã phù phép sẵn rồi.
Đang nói, Nguyên chợt nghiêm giọng:
– Đừng hỏi nữa. Chạy lẹ đi. Trời bắt đầu tối rồi.
Kăply rùng mình một cái rồi nín thinh, lầm lũi chạy. Nó biết Nguyên đang nghĩ đến lão Ôkô Na. Kăply chưa nhìn thấy lão Ôkô Na bao giờ nhưng qua những gì Nguyên kể, nó vẫn có thể hình dung được lão phù thủy đó nham hiểm và độc ác như thế nào. Tối hôm qua, nếu Nguyên không kịp chạy đến chỗ hai con ngựa bay của họa sĩ Yan Dran, bây giờ chắc chiếc lá bổn mạng của thằng K’Brăk trong khu vườn táo đã rụng mất rồi. Chiếc lá ghi tên K’Brăk nhưng người chết lại là Nguyên!
Ý nghĩ đó như một cây gai nhọn ghim vào ngực Kăply, làm ruột gan nó muốn tan ra và nó mím chặt môi, cố rảo bước nhanh hơn.
Khi Nguyên và Kăply băng hết cánh đồng hoa, trời đã tối mịt, bóng đêm loang ra rất nhanh như có một con bạch tuộc khổng lồ đang nấp đằng sau những đám mây không ngừng phun mực xuống. Dưới ánh sao mờ, tụi nó thở phào thấy con khỉ Chacha đang ngồi thù lù một đống trên lưng con phi mã.
Không kịp hỏi đến những quả táo vàng, hai đứa vội vàng trèo lên con ngựa thứ hai, lần này thì Nguyên và Kăply ngồi chung với nhau.
Ngay lập tức, hai con phi mã hí lên một tràng dài và cất bổng bốn vó. Nguyên ngoái đầu nhìn xuống, không thấy con rồng Ouroboros đâu, ngay cả thầy Akô Nô và lão Ôkô Na cũng không thấy xuất hiện. Thế còn Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh, bọn họ đang ở đâu há?
Như hôm trước, Nguyên sợ hãi phát hiện con phi mã đang bắt đầu phóng giật cục. Giống như bị một con đê chắn ngang đầu, Nguyên không còn nghĩ ngợi gì được nữa, hai tay bám chặt lấy bờm ngựa trong khi ở phía sau Kăply đang xanh mặt ôm cứng lấy hông nó. Và đến lúc con phi mã chuyển qua kiểu xoay vòng tròn thì cả Nguyên lẫn Kăply đều nhắm tịt mắt.
– Đừng lo. Cứ ôm tao chặt vào!
Nguyên trấn an Kăply bằng giọng lập bập và bị gió đánh bạt đi nên rất khó nghe, nhưng chỉ cần cảm nhận được hơi ấm truyền sang từ tấm lưng rắn chắc của bạn, Kăply vẫn hiểu hết và vòng tay của nó càng siết chặt hơn.
Không biết trải qua bao lâu, tốc độ xoay của con phi mã dần dần chậm lại, như động cơ đến hồi cạn xăng. Kăply hoàn hồn nhận ra nó vẫn chưa rớt khỏi lưng ngựa và nhất là đầu nó vẫn chưa văng khỏi cổ. Nó sung sướng ngúc ngoắc đầu, và nói:
– Ghê quá!
– Lúc đến đây cũng vậy. – Nguyên thở hắt ra – Đến và đi khỏi núi Lưng Chừng đều phải trải qua những thử thách khủng khiếp này. Có lẽ đó là một kiểu mê lộ…
Kăply xuýt xoa:
– Tao không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu tụi mình không ngồi vững trên lưng ngựa…
Nói chưa dứt câu, Kăply bỗng rú lên thất thanh, và Nguyên điếng hồn, trái tim như ngừng đập khi thấy con Chacha không hiểu nhảy nhót như thế nào mà rớt khỏi lưng con ngựa bay phía trước, lao vùn vụt xuống đất như một mảnh thiên thạch.
Trong khi Nguyên và Kăply còn chưa thoát khỏi nỗi bàng hoàng kinh sợ, con phi mã đã phản ứng rất thần tốc: nó gần như để tự mình rơi xuống và vì con ngựa to gấp mấy chục lần con Chacha nên tốc độ rơi của nó ghê gớm hơn rất nhiều.
Nguyên và Kăply ngoái đầu nhìn xuống nhưng trong thoáng mắt đã không thấy Chacha lẫn con ngựa đâu nữa, cả hai đã hoàn toàn chìm lẫn vào mây mù. Lúc này Nguyên và Kăply không có ao ước nào cháy bỏng hơn là hạ thấp xuống để xem con ngựa kia có cứu được Chacha hay không nhưng con phi mã chở tụi nó dường như chẳng thèm quan tâm đến chuyện vừa xảy ra, vẫn thản nhiên bay tà tà về phía trước.
Đến khi nó luồn qua một, hai rồi năm, sáu đám mây và hạ dần độ cao thì Nguyên và Kăply mới thở ra nhẹ nhõm khi thấy con phi mã khi nãy đang bay lững lờ trước mặt và trên lưng nó con Chacha đang nằm bẹp, hai tay níu chặt túm lông bờm, và vì Chacha là một con khỉ tinh nghịch nên bộ dạng chết nhát của nó lúc này trông thiệt là kỳ cục.
Từ trên cao, từng phút một, Nguyên và Kăply trông thấy những ngọn đồi thấp hiện dần ra trong tầm mắt và khi màu tím của hoa sim và những mái nhà tròn như bát úp nổi rõ lên giữa đám lá xanh thì phải nói là hai đứa thấy hồi hộp hết sức.
Êmê, Mua, Păng Ting, Suku, K’Tub, Bolobala, Kan Tô, Tam, Yan Jik và cả lão quản gia Imđi túa hết ra ngoài sân khi hai con phi mã vừa chạm đất.
Trừ lão Imđi và Yan Jik, cả đám lao như bay về phía Nguyên và Kăply và cùng reo lên một tiếng gì đó nghe như tiếng
a
bị kéo dãn:
– Aaaaa… aaaa… aaa… aa… a… a… a… a…
Bây giờ thì bọn trẻ không buồn tò mò xem hai con phi mã chui vào lại trong bức tranh như thế nào nữa, đứa nào đứa nấy tíu tít thi nhau rờ chân nắm tay hai nhà thám hiểm, với lo lắng rằng những kẻ vừa trở về từ hòn núi huyền thoại kia nếu không mất miếng thịt nào thì chắc là phải tróc vài miếng da.
Mua lao vào vòng tay Kăply như một hòn đạn, không còn biết mắc cỡ là gì nữa, khóc lên rưng rức:
– Hu hu… K’Brêt, thế là bạn đã sống lại… hu hu…
Kăply đỏ bừng mặt, nhưng nó cũng biết đẩy Mua ra trong lúc này là một hành động cực kỳ ngu ngốc. Hơn nữa, lòng nó cũng đang mềm nhũn, thậm chí nó đang nghĩ giá như mỗi ngày nó có thể chết đi sống lại vài chục lần thì hay biết mấy.
Kăply trân mình chịu trận, bối rối và sung sướng, cùng một lúc.
K’Tub chắc cũng rất muốn ôm lấy Kăply nhưng đã bị Mua nhanh tay giành mất. Nó vòng ra phía sau, đấm thùm thụp vào lưng ông anh, miệng mếu xệch:
– Anh K’Brêt! Anh K’Brêt!
Kăply ngượng ngùng khi bao nhiêu cặp mắt đang dồn vào nó, cảm giác như nó nếu không dính lọ nồi trên mặt thì cũng mọc thừa ra một cái tai nhưng lạ lùng là nó bắt gặp mình đang muốn trải qua cảm giác đó càng lâu càng tốt.
Ở bên cạnh, như thi đua với Mua, Êmê cũng đang bám cứng lấy Nguyên, chôn sống thằng này trong vòng tay của nó và ngước chiếc mũi hếch lúc này đang xì nước ra tùm lum vào mặt Nguyên, vừa khóc vừa cười:
– Anh đã trở về rồi… hic hic… may quá… hic hic…
Một lát sau, vừa thở vừa giãy giụa và hổn hển đáp những câu hỏi không đầu không đuôi của lũ bạn, Nguyên và Kăply đã thấy tụi nó ở trong căn nhà của họa sĩ Yan Dran mà thiệt tình thì hai đứa cũng không nhớ tụi nó đã di chuyển bằng cách nào để vào tới đây.
– Chúc mừng tụi con thắng lợi trở về. – Họa sĩ Yan Dran ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, cười nói khi nhìn thấy bộ mặt đỏ lơ đỏ lưỡng của Nguyên và Kăply. Ông vừa cất tiếng vừa vung cây gươm ngắn như thể giơ tay chào.
– Thắng lợi hả thầy? – Nguyên ngơ ngác, bây giờ nó mới nhớ ra nó chưa kịp kiểm tra xem con Chacha có bắt được quả táo nào không – Thiệt ra tụi con vẫn chưa nhìn thấy những quả táo vàng, thầy ơi.
Tất cả những người có mặt trong nhà lập tức đứng phắt dậy như chiếc ghế dưới mông thình lình phát hỏa.
– Trời đất ơi! Con vừa nói gì, K’Brăk? – Họa sĩ Yan Dran cào tay lên đầu như muốn làm cho mái tóc bù xù của ông giống tổ quạ hơn nữa – Tại sao lại như thế được?
Ông rũ người xuống như một miếng cao su, giọng ỉu xìu, hoàn toàn mất hết hơi sức:
– Những con ngựa bay của ta đưa tụi con tới núi Lưng Chừng là để hái táo chứ đâu phải để đi du lịch hả?
Nguyên bối rối đáp, không được tự tin lắm:
– Không phải thế, thưa thầy. Những quả táo vàng có lẽ… đang nằm trong tay con Chacha.
– Chacha, mày trốn đâu rồi, con ranh? – Suku đánh mắt ra cửa, hét ầm – Có đưa những quả táo ra đây không!
Từ trên mái nhà, một cái đầu thò xuống. Con Chacha kêu khèng khẹc, đưa tay gãi đầu sồn sột rồi vung mạnh một cái, hai quả táo vàng bay vù vào trong nhà, rớt ngay dưới chân Nguyên và Kăply.
– Đây rồi, hay quá!
Nguyên reo lên. Nhưng khi nó cúi xuống định nhặt lấy thì một cánh tay khẳng khiu và nhợt nhạt bất thình lình mọc lên từ dưới nền nhà, nhanh nhẹn quơ lấy hai quả táo rồi lặn nhanh như chớp.
– Baltalon!
Cả đống cái miệng ré lên. Nguyên bất ngờ đến líu cả lưỡi, muốn hét lên nhưng âm thanh không bật ra được, tiếng nói của nó hoàn toàn đã tuột khỏi miệng.
Họa sĩ Yan Dran cũng kinh ngạc đến nhảy dựng. Ông ném cho bọn trẻ một cái nhìn sửng sốt:
– Cái gì thế? Chẳng phải Baltalon đã chết rồi sao?
– Hắn chết rồi, thưa thầy. – Nguyên khó khăn nói, mắt nó tối đi từng giây – Nhưng một cánh tay của hắn vẫn còn sống.
– Là cánh tay vừa rồi hả con? – Lão Imđi há hốc miệng, khuôn mặt ngựa của lão như vừa bị ai kéo dãn.
– Ta hiểu rồi. – Yan Dran thở phì một tiếng – Ta quên là Baltalon đã luyện thành công thần chú Phân thân.
Nguyên sụm người xuống ghế, nhìn bộ dạng của nó tưởng như nó sắp lăn ra xỉu tới nơi:
– Thế này thì làm sao tụi con dám quay về trường Đămri…
Suku lướt mắt qua những khuôn mặt đưa đám của tụi bạn, tỉnh khô nói:
– Đừng lo, anh K’Brăk. Em sẽ lấy lại những quả táo vàng cho tụi anh.
– Em vừa nói gì? – Kăply quay phắt sang thằng oắt, kích động tuôn một tràng – Em sẽ lấy lại giùm tụi anh? Chừng nào hở Suku?
– Ngay bây giờ, anh K’Brêt.
Bất chấp ánh mắt nghi ngờ của mọi người đang xoáy vào mình, Suku đáp chắc nịch, y như đó là chuyện quá sức nhỏ nhặt và ngày nào nó cũng làm vài chục lần.
Nói xong, Suku chúm môi huýt sáo một tiếng, rất giống cái cách anh em thằng Pôcô Pôca gọi hai con linh xà.
Gần như ngay lập tức, cánh tay gớm ghiếc của Baltalon trồi lên ngay chỗ Suku đứng, những ngón quắt queo vẫn đang nắm chặt hai quả táo lúc nãy.
Trước vẻ mặt thuỗn ra của tụi bạn, Suku thản nhiên đón lấy hai quả táo vàng đưa qua cho Nguyên và Kăply, miệng cười hì hì:
– Nhớ cất kỹ à nha.