PHẦN III - CHƯƠNG 1
-
Exodus, Về Miền Đất Hứa
- Leon Uris
- 4904 chữ
- 2020-05-09 02:37:47
Số từ: 5031
Nguồn: Isach
Dịch Giả: Thế Uyên
Một đoàn xe chở hành khách sơn mầu bạc và xanh da trời chờ đợi sẵn đám trẻ ở cổng ra khỏi bến tầu. Các nghi lễ chính thức giảm thiểu đến mức tối đa. Các trẻ em gần như bị đẩy lên các xe mở máy chạy ngay lập tức, có các xe thiết giáp nhẹ của quân lực Anh hộ tống. Mười lăm phút sau, hải cảng lại vắng lặng như cũ, ngoại trừ các toán phu rỡ hàng và vài người lính gác Anh.
Trên boong trước tầu Exodus, Kitty vẫn còn cố gắng trấn tĩnh. Tì mình vào lan can, nàng ngắm nhìn thành phố, xúc động vì vẻ đẹp - một vẻ riêng của các đô thị xây trên một vòng đồi bao quanh một cái vịnh. Ở tiền diện là khu Ả-rập với các ngõ nhỏ chạy ngoằn ngoèo giữa các nhà xúm xít vào nhau. Xa hơn là thành phố Do-thái trải dọc theo sườn ngọn Carmel. Về phía trại, ngay sát biên của Haïfa, là các hình dáng kỷ hà của các thùng chứa dầu và các ống khói của xưởng lọc dầu vĩ đại, nơi tận cùng của các ống dẫn dầu từ Mossoul tới. Phía bên phải, tận cùng hải cảng, một chục cái tầu cũ kỹ đang neo - những chiếc tàu đáng thương của Mossad, tương tự như chiếc Exodus, đã từng thành công trong công cuộc về được Palestine.
Zev, David và Joab đến làm ngắt ngang cơn mơ mộng của thiếu phụ trẻ tuổi. Họ tới để từ giã, cám ơn sư giúp đỡ của nàng cùng bày tỏ niềm hy vọng sẽ được gặp lại nàng. Rồi họ cũng ra đi nốt và Kitty lại cô đơn.
- Một thành phố xinh đẹp phải không?
Nàng quay người lại để thấy Ari đã tới sát nàng từ lúc nào. Chàng mỉm cười nói tiếp:
- Chúng tôi bao giờ cũng thu xếp để các quý khách của chúng tôi đến đây qua ngả Haïfa này. Như vậy để thời gian lưu trú của họ ở nơi này bắt đầu bằng một cảm tưởng tốt.
Nàng hỏi:
- Mọi người đưa các trẻ em tới đâu?
- Chúng sẽ được phân phối trong năm hay sáu trung tâm thanh niên. Một số trung tâm này nằm trong các kibboutz, một số khác có các làng riêng. Trong vài ngày nữa tôi sẽ có thể cho cô biết Karen ở đâu.
- Cám ơn anh nhiều.
- Còn chính cô... các dự định của cô ra sao?
Nàng cười mỉa mai.
- Chính tôi cũng đang đặt ra câu hỏi đó, cùng cả chục câu hỏi khác nữa. Tôi là một kẻ xa lạ đối với thành phố này, và nói cho thật, tôi thấy tôi hơi lố bịch khi để mình bị lôi cuốn đến đây. Nhưng mà... tôi có một nghề tốt, nhiều chứng nhận tốt, và bao giờ thiên hạ cũng thiếu các nữ điều dưỡng ở bất cứ đâu trên thế giới. Tôi chắc chắn sẽ kiếm ra một chỗ làm.
- Nếu cô cho phép, tôi xin giúp cô...
- Tôi tưởng anh là một người rất bận chứ. Sau cùng, bao giờ tôi cũng tự giải quyết được công chuyện riêng hết.
- Thưa bà Fremont, tôi cũng tin như vậy. Nhưng nếu và cho phép tôi được đề nghị... Tôi nghĩ rằng tổ chức thanh niên của Mossad sẽ mang lại cho bà một môi trường hoạt động tuyệt hảo. Người điều khiển tổ chức này lại là đúng ông bạn thân của tôi. Tôi rất dễ dàng để xin một buổi gặp gỡ giữa bà và ông ta ở Jérusalem.
- Tôi không muốn quấy nhiễu anh...
- Thôi đừng nói những điều lẩm cẩm nữa! Sau những gì cô đã làm cho chúng tôi, thì đó là điều ít nhất chúng tôi có thể đền đáp lại. Bây giờ... nếu cô nghĩ là có thể chịu đựng sự hiện diện của tôi trong vài ngày, tôi sẽ rất thú vị được đưa cô đến Jérusalem. Trước đó, tôi phải tạt qua Tel-Aviv, nhưng như thế cũng hay vì như vậy tôi có đủ thì giờ để hẹn với người bạn đó đợi gặp cô.
- Anh không nên cho rằng anh bắt buộc phải mất thì giờ về tôi như vậy.
- Không bắt buộc đâu, cô cứ tin như thế cho.
Kitty mỉm cười, vừa cố giấu niềm vui đang muốn bộc lộ. Quả thực là nàng đang sợ cái cảnh sẽ phải đương đầu một mình với cái xứ mà nàng hoàn toàn không biết gì hết này. Ari nói tiếp:
- Tối nay, bắt buộc phải ở lại Haïfa vì lý do có giới nghiêm trên các con đường ngoài thành phố. Vậy cô hãy chuẩn bị một chiếc va li nhỏ với những gì tối cần thiết cho cô trong ba hay bốn ngày tới. Nếu cô mang theo tất cả hành lý, người Anh cứ năm phút sẽ vồ lấy cô một lần để khám xét. Tôi sẽ thu xếp với quan thuế để họ giữ giùm cô hành lý.
Một chiếc taxi đưa hai người lên ngọn Carmel, tới một ngôi nhà nhỏ nằm giữa một khóm thông. Ari cắt nghĩa:
- Chúng ta nên xuống đây hơn. Ở trung tâm, chúng ta sẽ không được hưởng một phút yên tĩnh nào hết: tôi quen biết quá nhiều ở Haïfa. Cô hãy đi nghỉ trong khi tôi đi một vòng các ga-ra: tôi sẽ cố kiếm một chiếc xe bán lại nào không quá cũ. Tôi sẽ trở lại đón cô đi ăn tối.
Họ sống buổi tối với nhau trong một nhà hàng ăn nằm tít trên đỉnh Carmel, từ đó có thể nhìn thấy khắp vùng. Kitty tự hỏi điều gì đang làm nàng ngạc nhiên nhất: thái độ của Ari, thật âu yếm và ân cần khác với trước đây cau có và cứng cỏi; hay cái vẻ hoàn toàn Tây phương của thành phố Do-thái này, còn tối tân hơn cả Nhã-điển hay Salonique.
Bữa cơm chấm dứt, người quản lý dọn rượu tiêu vị. Một ban nhạc nhỏ chơi nhạc nhẹ và dịu, hàng trăm ngàn đốm sáng lấp lánh trên sườn ngọn Carmel và hai người cụng ly nhau một cách thân hữu mỗi khi uống, và có lẽ đầy thương mến nữa.
Đột nhiên nhạc ngừng. Tiếng rì rào nói chuyện đột nhiên im bặt.
Một chiếc xe chở lính Anh vừa lên khỏi dốc, thắng két lại trước nhà hàng. Các quân sĩ bố trí quanh nhà, ngoại trừ sáu người tiến vào phòng ăn dưới sự điều động của một đại úy. Họ bắt đầu đi len lỏi giữa các thực khách, đôi khi dừng lại để hỏi giấy tờ, Ben Canaan thì thào:
- Biện pháp kiểm soát thường lệ thôi. Mọi người quen rồi!
Viên đại úy chăm chú nhìn bàn hai người rồi tiến thẳng đến.
- Á à! Tưởng ai hóa ra ông bạn quí Ari Ben Canaan! Một thời gian gần đây không thấy cái bản mặt anh trên danh sách những người bị tầm nã. Hình như lúc này ông bạn đang thực hiện các chiến công hiển hách ở nơi khác phải không?
Ari, hoàn toàn điềm tĩnh, trả lời:
- Xin chào trung sĩ. Tôi rất sẵn lòng trình diện trung sĩ nếu tôi nhớ lại tên tuổi trung sĩ.
Viên sĩ quan cười vẻ giận dữ:
- Dầu thế nào, tôi cũng rất nhớ tên anh, Ben Canaan, chúng tôi đang theo dõi anh đây. Xà-lim của anh trong nhà tù Acre đang mỏi mắt trông chờ anh. Không ai biết được điều gì sẽ xảy ra đâu... Lần này, Cao Ủy chắc sẽ có ý kiến hay là biếu anh một mẩu dây thừng.
Viên đại úy giơ tay chào kiểu chế riễu rồi ra đi. Kitty nhận xét:
- Con người thật tởm!
Ari nghiêng người để nói nhỏ vào tai nàng.
- Đại úy Allan Bridges là một trong những người bạn thân nhất của chúng tôi. Anh báo cho chúng tôi biết đều đều những gì người Anh và Ả-rập định làm trong vùng Haïfa. Dĩ nhiên bề ngoài anh phải làm như thế để đánh lừa mọi người.
Hoàn toàn sửng sốt, Kitty không biết nói gì hơn là gật đầu. Toán quân bắt đầu rời phòng, mang theo hai người Do-thái giấy tờ không hợp lệ. Để quấy phá lính Anh, ban nhạc cử bài God Save the King.
Chiếc xe nhà binh vừa chuyển bánh... một vài phút sau, mọi người có thể tưởng là như chưa có gì xẩy ra trong căn phòng này. Ari nói:
- Mọi người học biết khá nhanh cách sống trong bầu không khí căng thẳng liên tục này. Cô, rồi cô cũng sẽ quen. Ở xứ này, đàn ông đàn bà thần kinh lúc nào cũng căng thẳng đến mức tối đa. Đến nỗi mọi người không còn biết làm gì nữa một đôi khi họ được một thời kỳ yên tĩnh một tuần hay hai tuần. Rồi cô sẽ hối tiếc đã đặt chân vào xứ này...
Một luồng hơi mạnh cắt ngang lời chàng. Luồng ba động làm rung chuyển căn nhà, rung các cửa kính, làm rơi loảng xoảng vài cái dĩa. Một lúc sau, họ trông thấy một khối lửa vọt tung lên bầu trời. Nhiều tiếng nổ lớn nữa kế tiếp và hai người cảm thấy như tòa nhà như rung chuyển đến tận nền móng.
Trong phòng, nhiều tiếng kêu lên:
- Xưởng lọc dầu! Họ đã phá được xưởng lọc dầu! Một cuộc đột kích của Macchabée!
Ari nắm lấy cánh tay Kitty.
- Chúng ta đi lẹ thôi! Trong mười phút nữa, tất cả đỉnh Carmel này sẽ đầy lúc nhúc những lính là lính.
Căn phòng ăn vắng hết người trong vòng có vài giây. Ở chân núi, những ngọn lửa đỏ hừng hực của các bình xăng tạo thành một hồ lửa nóng bỏng. Trong khắp thành phố, các tiếng còi hụ điên cuồng vạch đường đi các xe cứu hỏa và thiết giáp.
Nằm dài, trong bóng tối căn phòng, Kitty không làm sao tìm thấy giấc ngủ. Dù nàng hài lòng đã được sống một buổi tối với Ari, nàng vẫn tự hỏi liệu nàng có thể quen được với đời sống đầy tàn bạo, hận thù, mưu kế kéo dài bất tận này không. Chưa làm sao xếp đặt lại được các ý tưởng cho trật tự trong đầu, nhưng nàng đã có cảm tưởng mình đã lầm lẫn một cách thảm thương khi đến Palestine.
Sáng ngày hôm sau, xưởng lọc dầu vẫn bốc cháy. Một làn khói đen dầy đặc bao phủ toàn vùng. Kitty cũng được biết thêm rằng đồng thời các Macchabée còn tấn công phi trường Lydda gần Tel-Aviv, phá hủy nhiều khu trục cơ trị giá lên sáu triệu đô-la. Hành động song hành này có lẽ là các Macchabée chúc mừng các hành khách của tầu Exodus.
Ari đã mua một chiếc xe Fiat nhỏ, kiểu ở thời tiền chiến. Trong thời kỳ bình thường, quãng đường từ đây đến Tel-Aviv chỉ mất chừng vài giờ, nhưng vì Ari không sao nhớ được từ xưa đến nay đã có lúc nào bình thường ở xứ này chưa, nên chàng đề nghị rời Haïfa ngay từ buổi trưa. Họ đi theo con lộ dọc bờ biển chạy suốt từ đồng bằng Samarie. Kitty ngạc nhiên thích thú với vẻ xanh tươi của các cánh đồng và vườn tược của các kibboutz chạy dài xuống tận biển, tạo một tương phản rõ rệt với vẻ trần trụi thê thảm của các quả đồi. Rời Haïfa được ít phút, họ gặp trạm kiểm soát đầu tiên. Trước sự ngạc nhiên của Kitty, Ari không hề khó chịu, dù rằng nhiều binh sĩ Anh, nhận diện ra Ari, họ đều tế nhị nhắc nhở chàng chỉ được hưởng tình trạng miễn truy tố một cách tạm thời.
Khi họ đi qua một làng Ả-rập, Kitty có thể nhận thấy sự khác biệt quá xa giữa các nông trường Do-thái và các xóm làng lụp xụp chật chội chìm đắm trong nghèo khó và nhu nhược. Tại các khu Ả-rập, chỉ có phụ nữ làm việc ngoài cánh đồng, và các cánh đồng này chỉ là những ô vuông sỏi đá. Còn về đàn ông, họ lười biếng sống qua ngày ở quán cà-phê, nằm dài luôn cả xuống đất hay ngồi chồm hổm chơi domino.
Đến phía nam Zichron Yacov, Ari chỉ cho nàng coi đồn Taggart đầu tiên, một kiến trúc man rợ thu hình sau các hàng rào kẽm gai. Xa hơn chút nữa, con đường đi vào dưới vòm lá các cây khuynh diệp Úc-đại-lợi. Ari bình phẩm:
- Cách đây hai mươi năm, tất cả những cánh đồng, những lối đi, những sở trồng tỉa này bỏ hoang cả.
Đến xế chiều, họ tiến vào Tel-Aviv. Một đô thị trắng xóa, thủ đô Do-thái nhìn từ xa trông giống như một chiếc bánh ngọt lớn ướp đường.
Xe họ lăn trên các đại lộ rất rộng có hai hàng cây hai bên, phía sau là các khối nhà tối tân hết sức. Kitty không giấu được ý mê say: Tel-Aviv đã chinh phục nàng ngay từ phút đầu tiên.
Ari dừng chiếc Fiat trước khách sạn "Gat Rimon", cách biển vài bước. Chàng nói:
- Cô hãy lên nằm nghỉ một chút. Dầu thế nào các cửa hàng cũng chỉ mở cửa lại vào lúc mặt trời lặn vì ban ngày nóng quá.
Một giờ sau, họ đi lang thang trên đại lộ Allenby. Kitty muốn đổi vài đô-la, mua những đồ linh tinh, để thỏa mãn lòng tò mò vô tận. Tất cả các cửa hàng đều quyến rũ nàng, tất cả mọi tiệm buôn nhỏ đều làm nàng chú ý, và còn nhiều rất nhiều cửa hàng, tiệm buôn khác nữa. Họ đi qua đại lộ Rothchild, vượt qua trung tâm thương mại, tiến vào một khu cổ hơn, nơi mà Tel-Aviv đã phát sinh chỉ như một ngoại ô kéo dài của Jaffa. Họ càng tiến gần đến thành phố Ả-rập, các nhà cửa và tiệm buôn càng có vẻ cũ kỹ, tồi tàn hơn. Qua các con đường phố nhỏ nối liền hai thành phố, Kitty có cảm tưởng nàng đang đi ngược thời gian. Sau đó, hai người quay lại, tìm lại không khí náo nhiệt an toàn của đại lộ Allenby, quẹo ở một ngã tư để rồi tiến sang một đại lộ khác, cũng rộng cũng đầy ánh sáng với hai hàng cây đẹp đẽ hai bên lề. Ben Yehouda là con đường của các quán cà-phê, quán nào cũng có thềm riêng, bảng hiệu riêng và thực khách riêng. Có quán của các luật sư thường hội họp, có quán dành cho đảng viên xã hội hay lui tới, lại có quán khác cho các nhà trí thức hay vào, làm ta nhớ tới quán "Dôme" hay "La Rotonde" ở khu Montparnasse, Ba-lê. Trên các vỉa hè, cả làn sóng người di tản. Kitty nhận thấy những người Đông phương này y phục còn theo các truyền thống của Trung Đông, những phụ nữ thanh lịch ăn mặc theo thời trang mới nhất của Ba-lê hay La-mã. Dẫu sao, đa số những người tản bộ mang rõ dấu vết của tuổi trẻ Palestine. Đàn ông, quần kaki, áo sơ mi trắng để hở ngực đeo một ngôi sao David, trên mặt có một bộ ria đen, bây giờ đã trở thành một dấu hiệu riêng biệt của những người Do-thái sinh trưởng trong xứ. Đàn bà, cao lớn, dáng điệu như con trai, vú cao thẳng, mặc một chiếc áo rất giản dị, một chiếc quần đen dài hay quần soọc. Tất cả đều có một thái độ kiêu hãnh, gần như gây hấn, và dáng điệu của họ biểu lộ một niềm tự tin hoàn toàn.
Đột nhiên sự im lặng rơi xuống đường Ben Yehouda. Một xe bọc sắt có trang bị máy phóng thanh, xuất hiện trên đường, tiến một cách chậm chạp. Trên mui xe, hai người lính Anh, mặt không tình cảm, đứng sau một khẩu trung liên.
"Thông báo cho tất cả những người Do-thái: Đại tướng Tổng tư lệnh đã ban hành lệnh giới nghiêm. Không một người Do-thái nào được phép lưu thông ngoài đường sau khi trời tối. Thông báo cho tất cả những người Do-thái: Đại tướng Tổng tư lệnh đã ban hành lệnh giới nghiêm..."
Có tiếng cười, tiếng vỗ tay. Một người la lớn:
- Cẩn thận nhé, các Tommy! Ngã tư tới có gài mìn đó.
Chiếc xe bọc thép đi qua. Một phút sau, đời sống lại tiếp diễn bình thường như cũ.
Kitty không ngăn nổi rùng mình. Nàng nói nhỏ:
- Chúng ta trở về khách sạn đi anh.
- Rồi cô sẽ thấy quen dần với đời sống này đến nỗi sau này cô sẽ thấy một đời sống yên tĩnh sẽ thành tẻ nhạt.
- Chắc là không rồi. Tôi chẳng bao giờ quen nổi hết.
Sau khi uống một ly rượu ở quầy khách sạn, hai người lên sân thượng ăn cơm tối. Dưới chân họ, đường cong của bờ biển của đô thị trẻ trung Tel-Aviv lẫn dần vào thành phố Jaffa cổ kính, hải cảng xưa nhất trong những hải cảng lúc nào cũng hoạt động đều trên thế giới.
- Cám ơn anh nhiều, anh Ari. Tôi đã sống một ngày tuyệt đẹp mặc dù các toán tuần tiễu và các trạm kiểm soát của quân Anh quấy nhiễu.
- Tôi thích được sống trọn buổi tối nay với cô, nhưng tôi bắt buộc phải rời cô trong chừng một hay hai giờ.
- Anh ra phố? Mặc dù giới nghiêm?
Ari nhún vai khinh khi:
- Ồ, giới nghiêm hả... Đó chỉ là một biện pháp áp dụng cho người... Do-thái(1).
Cầm tay lái chiếc Fiat, chàng tiến về vùng ngoại ô Ramat Dan. Khác với Tel-Aviv gồm đa số là các tòa nhà lớn, Ramat Gan gồm toàn những nhà cá nhân, đi từ bungalow giản dị đến biệt thự đồ sộ, trong một khung cảnh toàn thảm cỏ và vườn tược. Ari đậu xe vào một công viên rồi đi bộ. Sau chừng nửa giờ, khi đã tin chắc không có bóng đen nào theo dõi, chàng bỏ kiểu đi lang thang, và sau một lần quẹo thật gấp nữa, chàng tiến vào đường Montefiore. Số 22 là một ngôi nhà đẹp. Trên một cột ngoài cổng có gắn một tấm bảng đề: Bác sĩ Y. Tamir. Ari bấm chuông rồi đợi.
Chính bác sĩ mở cửa. Hai người bắt tay nhau trước khi xuống hầm.
Biệt thự Tamir chính là tổng hành dinh của Haganah.
Một phần hầm được dùng làm kho vũ khí và đạn dược. Trong một phòng khác, một máy in đang in những truyền đơn bằng tiếng Ả-rập khuyến khích dân chúng Hồi giáo hãy tránh mọi hành động khiêu khích. Cách đó một chút, một thiếu nữ đang cùng đọc bản văn đó trước một máy ghi âm. Băng ghi âm này sẽ được một đài phát bí mật và lưu động mang tên Kol Israël - Tiếng nói Israël - phổ biến trên các làn sóng. Tại các chỗ khác, mọi người đang làm lựu đạn, ráp các khẩu tiểu liên với các cơ phận do các cơ xưởng phục quốc chế tạo.
Ari xuất hiện làm ngưng hết tất cả các hoạt động đó. Các thanh niên nam nữ đều muốn khen ngợi chàng về chiến thắng của Exodus. Trong một vài phút, chàng phải bắt cả loạt bàn tay giơ ra và trả lời cả trăm câu hỏi. Vị bác sĩ nhắc đi nhắc lại:
- Đợi chốc nữa... tha hồ các cô các chú nói chuyện, chốc nữa kia.
Ben Canaan nói:
- Tôi phải vào trình diện Avidan.
Lách giữa các thùng súng carbine, chàng tiến tới một cánh cửa ẩn giấu, giơ tay gõ.
- Cứ vào!
Đằng sau một chiếc bàn bằng gỗ trắng chồng chất những hồ sơ, vị Tư lệnh thấp người và sói trán của quân lực bí mật đang xem một tờ trình. Ông đứng dậy, và một nụ cười làm soi sáng khuôn mặt nhăn nheo như chạm khắc.
- Shalom, Ari!
Ông chồm dậy ôm Ari vào lòng rồi sau khi đẩy chàng ngồi vào một ghế bành, lấy tay vỗ vào lưng chàng một cái mạnh tương xứng với chàng thanh niên đồ sộ này.
- Rất mừng được gặp lại cậu nhỏ. Cậu đã thực hiện một công tác tuyệt đẹp. Các phụ tá của cậu đâu?
- Cháu đã cho họ về nhà cả rồi.
- Tốt lắm. Họ xứng đáng hưởng vài ba ngày nghỉ ngơi. Cháu nữa, cháu cũng cần tháo yên cởi giáp một chút.
Đây là - Ari ý thức rõ lắm - một phần thưởng rất quý của Avidan, kẻ từ hai mươi lăm năm nay không bao giờ cho phép mình nghỉ ngơi tới một ngày.
- Này cháu, cô gái cháu mang đến Tel-Aviv là ai vậy?
- Một nữ gián điệp ra mà bác... Bác gì mà tò mò quá vậy...
- Nàng có là bạn chúng ta không?
- Không. Cảm tình cũng không nữa.
- Vậy hả? Thật đáng tiếc: một người Mỹ Ki-tô giáo sẽ rất hữu ích cho chúng ta.
- Đáng tiếc Kitty Fremont chỉ là một thiếu phụ xinh đẹp nhìn người Do-thái gần như là nhìn một con vật lạ kỳ trong sở thú. Ngày mai cháu sẽ đưa nàng đến Jérusalem để gặp Henriette Salzman lo một công việc làm trong trung tâm thanh niên của Mossad.
- Có vậy thôi sao? Không có gì riêng tư giữa hai người?
- Không có gì hết. Bây giờ cháu xin bác đưa trí tò mò của bác vào một đề tài khác đi.
Không khí trong căn phòng nhỏ rất nặng nề, ngột ngạt. Avidan rút một chiếc khăn tay màu xanh ra lau trán. Ari nói:
- Các Macchabée hôm qua đã nỗ lực hết sức để chúc mừng ngày chúng cháu về đây. Mọi người nói là xưởng lọc dầu còn cháy cả tuần nữa. Một lỗ thủng lớn trong mức sản xuất dầu Anh quốc.
Avidan nhún vai.
- Các Macchabée đã thực hiện một chưởng đẹp hôm qua, bác đồng ý - nhưng ngày hôm trước nữa họ đã được gì, và ngày mai đây họ sẽ thành công được gì? Cứ một thành công, phải ba hành động thất bại. Và mỗi lần họ dùng tới bạo lực, ám sát một vài kẻ khốn khổ nào không may đi qua đó, là cả cộng đồng Do-thái lại lãnh đủ. Thiên hạ cứ chúng ta mà hỏi về các tội họ làm. Ngày mai đây, tướng Haven-Hurst và Cao Ủy sẽ đến "Trung ương". Họ sẽ đập thình thình lên bàn của Ben Gourion, họ sẽ đòi chúng ta động viên Haganah để lùng bắt các Macchabée. Cháu có thể tin chắc rằng lắm lúc bác cũng không biết làm thế nào nữa. Cho tới giờ, hầu như người Anh để kệ cho chúng ta yên thân, nhưng nếu các Macchabée cứ tiếp tục chiến thuật khủng bố tấn công luôn các nhà ngân hàng để tài trợ cho các cuộc hành quân của họ...
- Chắc là các nhà ngân hàng Anh...
Châm một điếu thuốc lá, Ari đứng dậy đi đi lại lại trong phòng.
- Cháu nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta nhập cuộc cho rồi. Bằng cách tổ chức vài cuộc đột kích cho chính chúng ta...
Avidan ngắt lời.
- Không được. Chúng ta không có quyền khinh xuất đối với Haganah. Chúng ta có một trách nhiệm nặng nề: bảo vệ tất cả những người Do-thái. Ngược lại, bác cho rằng nhập nội bất hợp pháp là một chiến thuật đấu tranh tuyệt hảo. Chỉ một thành công như thành công của Exodus còn làm cho Anh quốc xính vính hơn mười xưởng lọc dầu bị đốt nữa.
- Có thể như vậy, nhưng sớm hay muộn rồi chúng ta cũng phải lao toàn diện vào cuộc. Chúng ta phải chọn lựa một trong hai điều: hoặc chúng ta có một quân lực, hoặc là chúng ta không có.
Không trả lời, Avidan lấy trong ngăn kéo ra vài tờ giấy đánh máy, đẩy về phía Ari. Ở đầu trang nhất, một hàng chữ lớn: LỆNH HÀNH QUÂN - SƯ ĐOÀN 6 KHÔNG VẬN. Ari nói:
- Bây giờ họ đã có tới ba lữ đoàn nhẩy dù rồi hả?
- Ồ! Không phải chỉ có thế. Cứ tiếp tục đọc đi đã.
"ROYAL ARMORED CORPS WITH KING’S OWN HUSSARS, 53RD WORCESTERSHINE, 249TH AIRBORNE PARK, DRAGOON GUARDS, ROYAL LANCERS, QUEEN’S ROYAL, EAST SURREY, MIĐLESEX, GORDON HIGHLANDERS, ULSTER RIFFLES, HERTFORDSHIRE REGIMENT..."
Danh sách còn dài. Bực bội, Ari ném trả những tờ giấy trên bàn.
Họ muốn chống trả ai đây? Hồng quân chăng?
- Bây giờ cháu hiểu rồi chứ? Mỗi ngày, bác đưa danh sách này cho các chú "điên cái đầu" của Palmach đọc, những người muốn đập phá tất cả. Tại sao chúng ta không tung ra một hành động nào? Tại sao chúng ta khước từ chiến đấu dàn trận công khai? Lý do rất giản dị: làm vậy, chúng ta sẽ phải đương đầu với hơn một phần năm sức mạnh quân lực của Đế quốc Anh - hơn một trăm ngàn người, chưa kể Lữ đoàn Ả-rập.
Ông đập mạnh tay trên bàn:
- Mẹ kiếp! Tưởng cháu loạn trí rồi chứ! Chỉ có Trời mới biết bác đã làm những nỗ lực tuyệt vọng để tạo ra một quân lực. Nhưng lúc này đây, chúng ta không có tới mười ngàn khẩu súng. Và cháu đừng có quên điều này: nếu Haganah bị tiêu diệt, chúng ta cũng bị tiêu diệt theo hết - hết tất cả, đến tận người cuối cùng.
- Vâng, cháu hiểu.
Bằng một cử chỉ giận dữ, Ari dụi tắt điếu thuốc.
- Các lệnh của bác cho cháu bây giờ là gì?
- Bác chưa thể trao cho cháu chức vụ mà cháu xứng đáng nhận lãnh. Trước hết, hãy trở về nhà nghỉ ngơi đã. Sau đó cháu trình diện Bộ Chỉ huy của Palmach ở Ein Or. Nhiệm vụ như sau: kiểm kê thật chính xác lực lượng của chúng ta trong tất cả các nông trường ở Galilée. Chúng ta muốn biết có thể hy vọng giữ được những gì... Và phải chờ đợi mất đi những gì...
- Bác chưa bao giờ tỏ ra bi quan như vậy.
- Lý do bởi vì tình hình chưa bao giờ đen tối đến như vậy. Người Ả-rập từ chối ngay đến cả việc tham dự vào một hội nghị với chúng ta.
Ari đã ra đến cửa, chàng quay lại.
- Ngày mai cháu sẽ đến Jérusalem. Bác có việc gì giao phó ở đó không?
- Có chứ. Hãy kiếm cho bác mười ngàn quân sĩ ưu tú cùng các võ khí tương xứng.
- Shalom, Avidan.
- Shalom, Ari. Rất hài lòng thấy cháu trở về đây.
Khi lái xe về Tel-Aviv, Ari buông thả mình vào niềm chán nản mơ hồ. Khi xưa, ở Chypre, chàng đã cắt nghĩa cho người bạn trẻ tuổi David Ben Ami rằng Haganah, Palmach và Mossad mang ra thí nghiệm tất cả các phương pháp. Một số thành công, một số khác thất bại. Một chiến sĩ chuyên nghiệp phải thực hiện các công tác của mình một cách chuyên nghiệp, không được để tình cảm nào dính dấp vào. Chính chàng, Ari Ben Canaan, cũng chỉ là một cái máy do một bộ óc hiệu lực và táo bạo điều khiển. Trong trò chơi chiến tranh, không phải ván nào người ta cũng thắng...
Dầu vậy, có những lúc chàng nhận định tình hình một cách hoàn toàn thực tế. Như tối nay chẳng hạn có lúc chàng có cảm tưởng đang mấp mé bên bờ thảm bại. Một thảm bại không thể tránh được.
Vụ Exodus, xưởng lọc dầu Haïfa, một cuộc đột kích chỗ này, một trận đánh chỗ kia. Nhiều người đã chết để nhập nội bất hợp pháp năm mươi khẩu súng, những người khác bị treo cổ vì đã phá sự phong tỏa với một trăm người sống sót của các trại tập trung. Phục quốc Do-thái, như một anh chàng tí hon chống lại một người khổng lồ. Ari sẵn lòng trả giá rất đắt để có thể như David Ben Ami tin tưởng có sự can thiệp của Thượng đế. Nhưng một người thực tế không thể nào tin ở các phép mầu được.
Kitty Fremont chờ chàng ở quầy rượu mặt tiền của khách sạn. Nàng trông thấy chàng đẩy cánh cửa xoay và tiến về quầy tiếp khách để lấy chìa khóa phòng. Nàng gọi:
- Anh Ari!
Khuôn mặt chàng lại có cái vẻ hướng hoàn toàn vào nội tâm mà nàng đã trông thấy trong lần gặp gỡ đầu tiên ở đảo Chypre. Nàng lại gọi chàng, nàng ra dấu mời chàng rõ ràng, nhưng chàng hình như không trông thấy, không nghe thấy nàng. Trong khoảng thời gian vài giây, mắt họ gặp nhau. Rồi chàng quay đi và chậm chạp bước lên thang lầu.
Chú thích
1.Một lối dùng chứ không thể dịch được. Lệnh giới nghiêm ban hành đối với người "Do-thái", trong khi Ari chỉ nhận mình là người Israël. Tương tự như một người Việt dưới thời Pháp thuộc không nhận mình là "Annamite", chỉ nhận làm người Việt-nam.