Chương 73


Số từ: 2584
Dịch giả: Văn Hòa - Kim Thùy
BXN Phụ Nữ
Nguồn: Sưu tầm
Chắc anh nghĩ rằng nếu ông Nobu không giúp tôi thì cũng có thể có ai đấy cứu tôi, vì tôi là một geisha thành đạt được nhiều người ngưỡng mộ. Nhưng nàng geisha khi sa chân thất thế không phải như đồ nữ trang rơi ở ngoài đường khiến cho ai thấy cũng lượm được. Trong số hàng trăm geisha ở Gion, cô nào cũng cố tìm cho ra một ai đó giúp chỗ ẩn náu cho đến khi hết chiến tranh, và chỉ vài người mới có may mắn tìm ra được một người giúp. Cho nên anh thấy đấy, khi tôi còn sống với gia đình Arashino ngày nào là tôi cảm thấy mang ơn Nobu ngày đó.
Sang mùa xuân năm sau, tôi cảm thấy tôi được may mắn biết bao khi nghe tin Raiha chết ở Tokyo vì trúng bom. Chính Raiha là người đã làm cho chúng tôi cười bằng câu nói rằng chẳng ai biết được tương lai bằng quá khứ. Cô ta và mẹ cô đều là những geisha nổi tiếng, bố cô ta thuộc một gia đình thương gia giàu có. Đối với những người như chúng tôi ở Gion không ai dám nghĩ mình có thể sống qua chiến tranh hơn cô Raiha. Lúc chết, cô ta đang đọc sách cho cháu trai nghe trong dinh cơ của bố cô ấy ở quận Denenchofu tại Tokyo, và tôi nghĩ chắc cô ta cảm thấy rất an toàn khi ở đấy. Kỳ lạ thay là máy bay oanh tạc giết chết Raiha còn giết luôn cả nhà đô vật vĩ đại Mizagiyama. Cả hai đang hưởng cuộc sống êm ả cùng nhau. Thế nhưng Bí Ngô, người mà tôi cho là kẻ đã bị bỏ rơi, thì lại sống qua khỏi chiến tranh, mặc dù nhà máy làm thấu kính nơi cô ta làm việc nằm ngoài thành phố Osaka đã bị dội bom năm sáu lần. Năm đó tôi mới hiểu ra rằng không ai tiên đoán được người này sống còn sau chiến tranh và người kia không qua khỏi. Mameha qua khỏi, cô ấy làm hộ lý trong một bệnh viện nhỏ ở quận Fukui, nhưng chị hầu Tatsumi thì bị chết vì quả bom ác nghiệt rơi xuống Nagashaki, còn người lo áo quần cho cô là ông Itchoda chết vì đứng tim trong một trận máy bay oanh kích. Trái lại, ông Bekku, làm việc tại một căn cứ hải quân ở Osaka thì vẫn còn sống. Ông Tướng Tottori cũng vậy, ông ta sống ở quán trọ Sayura cho đến giữa thập niên 1950 mới chết, còn ông Nam tước cũng sống qua khỏi chiến tranh, nhưng tôi rất buồn nói cho anh biết ông ta trầm mình tự vẫn trong cái hồ đẹp đẽ của mình sau khi chức danh và nhiều tài sản của ông ta bị tước đi. Tôi nghĩ là ông ta không thể sống nổi cuộc sống mà ông không còn được tự do làm theo những ý nghĩ điên khùng của mình nữa.
Còn về phần bà Mẹ, tôi luôn luôn tin rằng bà sẽ sống còn với tài năng kiếm lợi trên sự đau khổ của người khác, bà dấn thân vào công việc làm ăn ở chợ xám, như thể bà đã làm ăn lâu ngày ở thị trường này rồi vậy. Bà ta nhờ chiến tranh mà giàu thêm chứ không phải nghèo đi bằng cách buôn bán các thứ di vật của người khác. Bất cứ khi nào ông Arashino bán một chiếc kimono trong số áo của mình để thêm vốn làm ăn, ông ta nhờ tôi đến tiếp xúc với bà Mẹ để bà có thể cho ông chuộc lại. Anh biết không, nhiều áo kimono bán ở Kyoto đều qua tay bà. Ông Arashino có lẽ hy vọng Mẹ sẽ hy sinh lợi nhuận để giữ kimono của ông vài năm cho đến khi ông có tiền mua lại, nhưng chắc không bao giờ ta có thể tìm ra chúng, hay ít ra, đấy là chuyện bà ta nói.
Gia đình Arashino đối xử với tôi rất tử tế trong những năm tôi sống với họ. Ban ngày, tôi làm việc may dù với họ. Ban đêm tôi ngủ với cô con và đứa cháu ngoại của họ trên tấm đệm trải trên nền xưởng thợ. Chúng tôi có rất ít than, nên dùng lá ép để sưởi ấm – hay là giấy báo, nghĩa là bất kỳ cái gì chúng tôi kiếm được. Dĩ nhiên thực phẩm càng khan hiếm, anh không thể tưởng tượng ra nổi những thứ chúng tôi ăn, như bã đậu nành thường làm thức ăn gia súc, và một thứ rất ghê tởm mà chúng tôi gọi là
Nukapan
, đó là thức ăn gồm cám gạo rang trộn với bột lúa mạch. Trông như da khô lâu ngày, nhưng tôi cảm thấy da e còn ngon hơn thứ này. Rất hiếm khi mới ăn được một ít khoai tây hay khoai lang, thịt cá voi phơi khô, xúc xích bằng thịt hải cẩu, và thỉnh thoảng có cá mòi, thứ mà người Nhật thường dùng làm phân bón. Tôi gầy tong teo đến nỗi khi đi trên đường phố Gion, không ai nhận ra tôi. Vài ngày, đứa cháu ngoại của ông Arashino, bé Juntaro, lại khóc kêu đói – thế là ông Arashino quyết định đem một cái kimono đi bán. Cuộc sống như thế này người Nhật gọi là
cuộc sống củ hành
, lột lần ra mà sống.
Một đêm vào mùa xuân năm 1944, sau khi tôi đã sống ở nhà ông Arashino khoảng ba bốn tháng, chúng tôi chứng kiến cảnh oanh kích đầu tiên. Chúng tôi thấy trên không trung những chiếc phóng pháo cơ gào thét vang trời, trong khi đó những quả đạn cao xạ từ mặt đất bắn lên nổ tung chung quanh chúng như sao sa. Chúng tôi sợ nghe tiếng rít kinh khủng vang lên và thấy Kyoto bùng cháy khắp nơi quanh chúng tôi, và nếu thế, cuộc sống chúng tôi sẽ chấm dứt ngay cho dù chúng tôi có chết hay không, vì Kyoto mảnh mai như cánh con bướm đêm, nếu nó bị đập tan, sẽ không bao giờ bình phục lại. Còn Osaka và Tokyo, cũng như nhiều thành phố khác, các nơi này có thể bình phục lại được. Nhưng những chiếc phóng pháo đi qua đầu chúng tôi, không những chỉ đêm ấy mà còn các đêm sau nữa. Nhiều đêm chúng tôi thấy mặt trăng trở thành đỏ rực vì lửa cháy ở Osaka, và thỉnh thoảng chúng tôi thấy tro bay trong không khí như lá vàng rơi – đến tận Kyoto, cách đây năm mươi cây số. Chắc anh biết tôi lo lắng đến dường nào cho ông Chủ tịch và ông Nobu, vì công ty của họ đặt ở Osaka và hai người đều có gia đình ở đấy cũng như ở Kyoto. Tôi cũng tự hỏi không biết chị Satsu của tôi ra sao và đang ở đâu. Tôi không biết hiện chị ở đâu, nhưng trong thâm tâm, tôi cứ tin có ngày chúng tôi sẽ lại gặp nhau. Tôi nghĩ có thể chị ấy viết thư gởi đến nhà kỹ nữ Nitta cho tôi, hay trở về Kyoto để tìm tôi. Rồi vào một buổi chiều – trong khi tôi dẫn bé Juntaro ra bờ sông chơi, chúng tôi lượm đá trên bờ ném xuống nước, bỗng tôi nghĩ rằng chắc Satsu không bao giờ trở lại Kyoto để tìm tôi. Tôi đang sống trong cảnh nghèo khổ, làm sao đi xa khỏi thành phố cho được. Vả lại, nếu gặp nhau ngoài đường, tôi và Satsu cũng không nhận ra nhau. Còn chuyện tôi mơ ước chị ấy gởi thư cho tôi… thì ôi, tôi thấy mình điên, bộ tôi không biết là chị Satsu không biết nơi tôi ở có tên là nhà kỹ nữ Nitta hay sao? Nếu muốn viết, chị ấy cũng không thể viết được – trừ phi chị có tiếp xúc với ông Tanaka, mà chắc không bao giờ chị làm được việc này. Trong khi bé Juntaro tiếp tục ném đá xuống nước chơi, tôi ngồi xổm xuống bên cạnh chú bé, lấy tay vọc nước đắp lên mặt, cười với chú, giả vờ rửa mặt cho mát. Mưu vặt của tôi hữu hiệu, vì Juntaro có vẻ không biết gì hết và cứ tiếp tục trò chơi.
Vận rủi của con người như luồng gió mạnh. Nó xô đẩy lôi cuốn ta từ chỗ không may này đến chỗ không may khác cho đến khi ta đành phải buông xuôi cho số phận. Như trường hợp của con cái ông Arashino chẳng hạn, cô gái đau khổ vì chồng chết trong chiến tranh, và sau đó đổ hết sức lực vào hai việc: chăm sóc thằng bé và may dù cho lính dù. Cô ta có vẻ sống buông xuôi không mục đích. Cô ta gầy dần gầy mòn, chắc anh biết từng gam thịt của cô ta biến đi đâu. Đến ngày chiến tranh chấm dứt, cô ta chỉ biết bám vào thằng bé ấy như thể nó là mép núi đá trên bờ biển giữ cô ta khỏi rơi xuống biển.
Vì tôi đã sống qua vận rủi rồi nên tôi biết, lúc nào cũng có cái gì đấy nhắc nhở tôi nhớ đến những ngày rủi ro, cho nên tôi không quên được – nói trắng ra là dưới lớp vỏ quần áo sang trọng, với điệu múa hoàn hảo, và với cách nói chuyện khéo léo, cuộc đời của tôi không có gì phức tạp hết, mà đơn giản như hòn đá lăn xuống đất. Mục đích tối hậu trong mười năm qua của tôi là phải chiếm cho được tình thương của ông Chủ tịch. Ngày này qua ngày nọ, tôi nhìn dòng nước ở thượng nguồn sông Kame xuôi dòng gần xưởng thợ, thỉnh thoảng tôi ném một cánh hoa xuống nước, hay là một cọng rơm, nghĩ rằng chúng sẽ chảy qua Osaka trước khi chảy ra biển. Tôi tự hỏi không biết ông Chủ tịch khi ngồi làm việc có nhìn qua cửa sổ vào một buổi chiều thấy cánh hoa hay là cọng rơm và nhớ đến tôi không. Có thể ông Chủ tịch thấy, nhưng tôi không tin. Cho dù ông thấy đi nữa, ông cũng có trăm nghìn chuyện nghĩ đến chẳng khác gì cánh hoa đập vào trong óc ông, tôi có thể chỉ là một trong số đông đó. Ông ta thường tốt với tôi, ông ta vốn là người tốt. Chưa bao giờ ông tỏ vẻ nhận ra tôi là cô gái ông đã an ủi ngày nào, hay nhận ra tôi lưu tâm tới ông, hay nghĩ đến ông.
Một hôm, tôi nhận ra rằng chuyện tôi và chị Satsu gặp lại nhau là điều không thể có được, lòng tin này dựa theo nhiều thực tế trước mắt chứ không phải vì bốc đồng. Đêm trước tôi đã dằn vặt suốt đêm, lần đầu tiên tự hỏi nếu tôi chết đi mà vẫn chưa được ông Chủ tịch đoái hoài đến thì sao. Sáng hôm sau, tôi xem lịch thật kỹ với hy vọng tìm ra dấu hiệu gì cho tôi đời tôi sẽ có ý nghĩa. Tôi rất chán nản đến nỗi ông Arashino có vẻ nhận thấy, ông nhờ tôi đi mua kim khâu ở một tiệm bán tạp hoá. Tôi cố tìm có dấu hiệu gì về ông Chủ tịch, nhưng không thấy. Từ kinh nghiệm này, tôi kết luận rằng cứ chạy theo điều phi thực là rất nguy hiểm. Nếu tôi cứ phí cả đời chạy theo một người đàn ông không bao giờ đến với tôi thì sao? Cuộc đời tôi sẽ buồn rầu tê tái biết bao khi nhận ra tôi không thưởng thức được thức ăn mình đang ăn, vì tôi không nghĩ đến gì khác ngoài ông Chủ tịch, ngay cả khi cuộc đời của tôi đã trôi về một nẻo khác. Thế nhưng nếu tôi không nghĩ đến ông ta nữa, cuộc đời của tôi sẽ ra sao? Chắc khi ấy tôi sẽ là một vũ công tập luyện từ nhỏ để chờ buổi trình diễn không bao giờ đến được.
Chiến tranh chấm dứt vào tháng Tám năm 1945. Bất cứ ai đã sống ở Nhật trong giai đoạn này đều sẽ nói với anh rằng đây là thời điểm hoang mang nhất trong đêm tăm tối. Đất nước chúng tôi không những bị bại trận, mà còn bị tàn phá – tôi không muốn nói chỉ bị bom tàn phá rất kinh khủng mà thôi đâu. Khi đất nước anh bại trận, và quân chiếm đóng ùa vào, chắc anh sẽ cảm thấy như bị trói tay dẫn đến pháp trường chờ lưỡi gươm đầu. Suốt thời gian một hay hai năm, tôi không nghe được tiếng cười – ngoại trừ tiếng cười của Juntaro, vì chú bé không biết gì hết. Và khi Juntaro cười, ông ngoại chú huơ tay bảo im đi. Tôi thường quan sát những người đàn ông và đàn bà mà vào thời kỳ ấy họ còn nhỏ, họ rất nghiêm nghị vì thời thơ ấu họ rất ít cười.
Vào mùa xuân năm 1946, tất cả chúng tôi đều nhận ra rằng chúng tôi sẽ sống qua cảnh thử thách của sự thất bại. Thậm chí có người còn tin rằng một ngày nào đó nước Nhật sẽ đổi mới. Tất cả những chuyện nói rằng nước Mỹ giết chóc, hãm hiếp, hoá ra đều sai hết, trên thực tế, chúng tôi nhận thấy người Mỹ rất tốt. Một hôm có đoàn lính đi trên xe ngang qua khu vực tôi đang ở. Tôi cùng các phụ nữ khác trong xóm ra đứng xem. Trong thời gian ở Gion, tôi tự cho mình là người cách biệt với các phụ nữ khác, và thực tế tôi cảm thấy cách biệt với họ chỉ vì tôi không chịu tìm hiểu họ, không biết họ sống ra sao, thậm chí cách biệt với cả những bà vợ của những ông tôi đã giúp vui. Thế rồi bây giờ tôi đứng với họ, mặc quần lao động rách rưới, tóc xoã sau lưng nhớp nhúa. Tôi không tắm nhiều ngày vì chúng tôi thấy không đủ nhiên liệu để nấu nước tắm, phải vài ngày mới được tắm một lần. Trước mắt những lính Mỹ ngồi trên xe chạy qua trước mắt tôi, trông tôi chẳng khác gì những người đàn bà chung quanh tôi. Một cái cây mà không lá, không vỏ, không rễ, có gọi là cây được không? Tôi là nông dân – tôi tự nhủ – và không còn là geisha chút nào hết. Nhìn hai bàn tay chai sần, tôi cảm thấy hoảng hốt lo sợ. Cố xua đuổi hết những điều lo sợ trong óc đi, tôi chú ý nhìn đoàn xe lính chạy qua. Đây là những người lính Mỹ mà chúng tôi đã được dạy bảo phải căm thù, những người đã dội bom lên các thành phố của chúng tôi rất ác liệt phải không? Bây giờ họ đi qua đất nước chúng tôi, ném kẹo cho con nít.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Hồi Ức Của Một Geisha (Đời kỹ nữ).