Chương 48
-
Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ
- Steve Berry
- 3361 chữ
- 2020-02-02 09:00:17
Tiểu Huyên dịch
Võ Thị phát hành
Nxb Văn Học
MALONE ĐI THEO CASSIOPEIA VÀO MỘT CĂN PHÒNG TRẦN rất cao với hàng rui và những bức tường đóng ô vuông treo những tấm thảm vẽ hình áo giáp, kiếm, thương, mũ sắt, và khiên. Một cái lò sưởi bằng đá cẩm thạch đen trấn ngự căn phòng dài, được chiếu sáng bởi một giá nến lấp lánh. Những người khác từ phòng ăn đi đến chỗ họ và anh nhận ra vẻ mặt nghiêm trang của mỗi người. Một cái bàn làm bằng gỗ gụ nằm bên dưới hàng cửa sổ có chấn song, trên đó để nhiều quyển sách, giấy tờ, và ảnh.
Đã đến lúc xem xem liệu chúng ta có thể có được những kết luận gì rồi
, Cassiopeia nói.
Trên bàn là tất cả những gì tôi có được về chủ đề này
.
Malone nói với những người khác về chuyện quyển nhật ký của Lars và việc những thông tin trong đó là giả.
Điều đó có bao gồm cả những gì ông ấy nói về chính mình không ?
. Stephanie hỏi.
Chàng thanh niên ở đây...
, bà chỉ Geoffrey đã gửi cho tôi các trang nhật ký mà Trưởng giáo đã cắt ra. Chúng nói về tôi
.
Chỉ bà mới biết được những gì ông ấy nói là đúng hay sai thôi
, Cassiopeia nói.
Cô ấy đúng dấy
, Thorvaldsen nói.
Nói chung là quyển nhật ký không quá quan trọng. Lars đã viết nó để đánh lừa các Hiệp sĩ Đền thờ thôi
.
Thêm một điểm nữa lẽ ra ông đã phải nói khi còn ở Copenhagen rồi
, giọng của Stephanie cho thấy bà lại bắt đầu thấy khó chịu.
Thorvaldsen không chút nao núng.
Điều quan trọng là de Roquefort nghĩ rằng quyển nhật ký quan trọng
.
Stephanie ưỡn thẳng người lên.
Ông là một kẻ khốn nạn, chúng tôi đã suýt bỏ mạng để cướp nó lại đấy
.
Nhưng thật ra là có sao đâu. Cassiopeia vẫn theo sát hai người để bảo vệ mà
.
Và việc đó khiến cho những gì ông đã làm trở thành đúng đắn à ?
Stephanie, bà chưa bao giờ giữ một số thông tin không nói cho các nhân viên của mình à ?
. Thorvaldsen hỏi.
Bà im lặng.
Ông ấy nói đúng
, Malone nói.
Bà quay ngoắt lại nhìn anh.
Đã bao nhiêu lần chị chỉ nói cho tôi một phần câu chuyện ? Và đã bao nhiêu lần tôi đã phải than phiền sau đó rằng suýt nữa tôi bị giết vì điều đó ? Và chị đã nói gì ? Rằng phải quen với việc ấy đi. Ở đây cũng giống thế thôi, Stephanie ạ. Tôi không hề thích thú gì chuyện này hơn chị đâu, nhưng tôi đã quen rồi
.
Tại sao chúng ta không ngừng tranh cãi với nhau để tập trung xem xét có thể hiểu ra được điều gì đó liên quan đến những gì Saunière đã tìm thấy nhỉ ?
, Cassiopeia nói.
Và cô định gợi ý chúng ta bắt đầu từ đâu ?
, Mark hỏi.
Tôi sẽ nói rằng tấm bia mộ của Marie d’Hautpoul de Blanchefort là một điểm xuất phát tuyệt vời, và rằng chúng ta đã có được quyển sách của Stoblein mà Henrik mua được ở chỗ bán đấu giá
. Cô chỉ cái bàn.
Nó đang được mở đến trang có hình vẽ rồi
.
Tất cả tiến lại gần cái bàn và nhìn vào hình vẽ.
Claridon đã giải thích nó khi chúng tôi còn ở Ayignon
, Malone nói, và anh nói cho họ về cái ngày chết không đúng - 1681 thay vì 1781 — những con số La Mã - MDCOLXXXI I trong đó có một con số không, và loạt số La Mã còn lại - LIXLIXLI nằm ở góc dưới bên phải.
Mark lấy một cái bút chì đặt trên bàn ra và viết 1681 và 59 59, 50 lên một tờ giấy.
Đây là đảo ngược của những số đó. Tôi không hiểu số không trong 1681. Claridon nói đúng, trong hệ thống số của La Mã không có số không
.
Malone chỉ vào những chữ cái Hy Lạp trên phiến đá bên trái. "Claridon nói chúng là những từ Latinh được viết theo bảng chữ cái Hy Lạp. Ông ta đã luận ra câu Et in arcadia ego. Nghĩa là
Và ở Arcadia tôi
. Ông ta nghĩ rằng có thể đó là một trò đảo lộn các chữ, bởi vì câu đó gần như không có nghĩa gì cả
.
Mark nhìn chăm chú vào mấy từ đó, rồi bảo Geoffrey lấy cho mình cái túi và lấy ra một cái khăn gấp chặt lại. Anh nhẹ nhàng mở nó và lôi ra một bản viết tay nhỏ. Các trang của nó được gập lại, rồi khâu vào với nhau và đóng gáy nhung, nếu Malone không nhầm. Anh chưa bao giờ được chạm vào kiểu sách này.
Ở trong thư viện của Dòng Đền thờ đấy. Tôi đã tìm được nó cách đây mấy năm, ngay sau khi trở thành giám quản. Nó được viết vào năm 1542, bởi một người chuyên chép bản thảo của tu viện. Nó là một bản sao tuyệt vời của bản thảo viết tay của thế kỷ mười bốn và viết về chuyện các Hiệp sĩ Đền thờ đã được tập hợp trở lại như thế nào sau thời kỳ Thanh Trừng. Nó cũng kể về quãng thời gian từ tháng Chạp năm 1306 đến tháng Năm năm 1307, khi Jacques de Molay ở Pháp và rất ít điều liên quan đến ông ấy được biết đến
.
Mark nhẹ nhàng mở quyển sách cổ và cẩn thận giở cho đến khi tìm được cái mà anh muốn tìm. Malone nhìn thấy một loạt từ Latinh.
Nghe đoạn này nhé
.
Trưởng giáo của chúng ta, Jacques de Molay tôn kính và đầy lòng mộ đạo, đã đón tiếp sứ giả của Giáo hoàng vào ngày 6 tháng sáu năm 1306 một cách long trọng. Thông điệp nói rằng Đức Giáo hoàng Clement V triệu tập Trưởng giáo de Molay đến Pháp. Trưởng giáo của chúng ta có ý định tuân lệnh, cho chuẩn bị mọi việc, nhưng trước khi rời khỏi đảo Cyprus, nơi đặt trung tâm Dòng, trưởng giáo của chúng ta được tin trưởng giáo dòng Hiệp sĩ Bệnh viện cũng được gọi về, nhưng đã chống lệnh, viện cớ phải ở lại với Dòng của mình trong giai đoạn xung đột này. Điều đó đã làm nảy sinh một mối nghi ngờ lớn lao ở trưởng giáo của chúng ta và ông đã hỏi ý kiến những người thân tín. Có vẻ như là Đức Giáo hoàng đã ra lệnh cho trưởng giáo của chúng ta phải thực hiện chuyến đi một cách kín đáo, mang theo ít người. Điều đó lại càng làm nảy sinh nhiều câu hỏi hơn, vì tại sao Đức Giáo hoàng lại quan tâm quá nhiều đến việc trưởng giáo của chúng ta đi lại như thế nào. Rồi một tài liệu kỳ lạ được mang đến cho trưởng giáo của chúng ta, tên là De Recuperatione Terrae Sanctae. Liên quan đến việc khôi phục Đất Thánh. Bản thảo viết tay đó do một luật gia của Philip IV soạn thảo và vạch ra một cuộc thập tự chinh mới rất lớn, sẽ do một vị Vu Chiến binh dẫn đầu nhằm chiếm lại Đất Thánh từ tay bọn ngoại đạo. Đề nghị này là một sự đối nghịch trực tiếp với đường lối Dòng của chúng ta và khiến cho trưởng giáo của chúng ta đặt câu hỏi về các lệnh triệu tập của triều đình. Trưởng giáo của chúng ta thông báo rằng ông rất không tin tưởng vua Pháp, mặc dù nói điều đó ra ở bên ngoài những bức tường của Dòng chúng ta vừa là điên rồ vừa gây nguy hiểm. Để đề phòng, vì ông là một người hết sức cẩn thận và còn ghi nhớ sự lật lọng của Frederick II trước đó đã lâu, trưởng giáo của chúng ta đặt ra kế hoạch cất giấu tài sản và hiểu biết của chúng ta. Ông đã cầu nguyện rằng mình đoán sai nhưng không tìm ra lý do nào để chểnh mảng công việc chuẩn bị. Giáo hữu Gilbert de Blanchefort được triệu tập và được lệnh mang kho báu của Dòng đi trước. Khi đó trưởng giáo của chúng ta nói với de Blancheỷort, "Chúng ta, các chức sắc cao nhất của Dòng, có thể sẽ gặp phải nguy hiểm. Vì vậy không một ai trong số chúng ta được biết điều mà con biết và con sẽ phải đảm bảo rằng điều mà con biết được truyền lại cho những người khác theo một cách thích hợp nhất
. Giáo hữu de Blanchefort, một người có học thức, hứa sẽ hoàn thành sứ mệnh của mình và bí mật đưa đi khỏi tất cả những gì mà Dòng sở hữu. Bốn giáo hữu đi theo giúp ông và họ sử dụng bốn từ, mỗi người có một từ, để làm mật hiệu. ET IN ARCADIA EGO. Nhưng những chữ đó còn chứa bên trong chúng một thông điệp thực sự. Sắp xếp lại chúng ta sẽ có câu I TEGO ARCANA DEL.
Ta giấu các bí mật của Chúa
, Mark dịch câu cuối cùng đó ra.
Thế kỷ mười bốn cũng rất quen thuộc với mấy trò sắp xếp lại trật tự chữ cái đó
.
Như vậy là de Molay đã sẵn sàng ?
, Malone hỏi.
Mark gật đầu.
Ông ấy đã đến Pháp cùng sáu mươi hiệp sĩ, một trăm năm mươi nghìn florin vàng, và mười hai con ngựa chở bạc nguyên chất. Ông ấy biết là sẽ có chuyện rắc rối. Số tiền đó dùng để lo lót. Nhưng còn có gì đó khác nữa trong bản hòa ước đó mà ít người biết được. Người chỉ huy các Hiệp sĩ Đền thờ ở vùng Languedoc là lãnh chúa Goth. Giáo hoàng Clement V, người đã triệu tập de Molay, tên là Bertrand de Goth. Mẹ giáo hoàng là Ida de Blanchefort, có họ với Gilbert de Blanchefort. Do đó de Molay có được nhiều tin tức nội bộ
.
Những cái đó lúc nào cũng có ích
, Malone nói.
De Molay cũng biết điều gì đó về Clement V. Trước khi ông ta được bầu làm Giáo hoàng, Clement đã gặp Philip IV. Vua có quyền trao quyền giáo hoàng cho người nào mà ông ta muốn. Trước khi trao quyền đó cho Clement, ông ta đặt ra sáu điều kiện. Phần lớn trong số đó liên quan đến việc Philip phải được làm tất cả những gì ông ta muốn, nhưng điều kiện thứ sáu có quan hệ đến các Hiệp sĩ Đền thờ. Philip muốn Dòng bị giải tán, và Clement đã đồng ý
.
Thú vị đây
, Stephanie nói,
nhưng có vẻ như điều quan trọng hơn cả vào lúc này là Bigou biết được những gì. Ông ấy là người đã trực tiếp cho làm tấm bia mộ của Marie. Liệu ông ta có biết mối liên quan bí mật giữa gia đình de Blanchefort và các Hiệp sĩ Đền thờ không ?
Chuyện đó thì không có gì phải nghi ngờ
, Thorvaldsen nói.
Bigou đã được Marie d'Hautpoul de Blanchefort kể lại bí mật của gia đình. Chồng bà ấy là hậu duệ trực tiếp của Gilbert de Blanchefort. Khi Dòng bị đàn áp, và các Hiệp sĩ bắt đầu bị thiêu sống, Gilbert de Blanchefort đã không nói cho bất kỳ ai về nơi giấu Bí mật Lớn. Vì vậy bí mật gia đình phải có liên quan đến Đền thờ. Liệu còn có thể có gì khác nữa ?
Mark gật đầu.
Biên niên sử nói đến những cỗ xe chở cỏ khô đi qua khắp vùng nông thôn nước Pháp, hướng về phía Nam, về hướng dãy núi Pyrénées, được những người mang vũ khí giả trang làm nông dân hộ tống. Chỉ có ba cỗ xe đến được nơi an toàn. Thật không may là không thấy người ta nói gì về đích đến của chúng. Trong Biên niên sử chỉ có một dấu vết. Đâu là nơi tốt nhất để giấu một viên sỏi ?
Nghĩa là ở giữa một cột đá
, Malone nói.
Trưởng giáo cũng nói thế
, Mark nói.
Trong đầu óc của người sống ở thế kỷ mười bốn, nơi dễ tìm nhất lại là nơi bí mật nhất
.
Malone lại nhìn vào bức vẽ tấm bia mộ.
Như vậy là Bigou đã cho khắc nó, bằng mật mã, nói rằng ông ta giấu các bí mật về Chúa, và ông ta đã cả gan để nó ở một nơi công khai. Như vậy nghĩa là thế nào ? Chúng ta có quên mất điều gì không ?
Mark với lấy cái túi và rút ra một quyển sách khảc,
Đây là báo cáo của tướng quân của Dòng viết vào năm 1897. Ông ta đã điều tra về Sauniere và đã gặp vị linh mục kia, tu viện trưởng Gélis, ở một làng kế bên, chính là người tìm được bản mật mã trong nhà thờ của mình
.
Cũng như Saunière
, Stephanie nói.
Đúng thế. Gélis đã giải mã được và muốn giám mục biết những gì mà ông ấy tìm ra. Viên tướng quân đã giả làm người đại diện của giám mục và sao lại câu đố, nhưng ông ta lại không chịu nói gì về lời giải
.
Mark chỉ cho họ bản mật mã và Malone nghiên cứu các dòng chữ và biểu tượng.
Trong này phải có chìa khóa gì đó chứ nhỉ ?
Mark gật đầu.
Không thể giải được nếu không có chìa khóa. Có hàng tỉ kết hợp có thể
.
Trong nhật ký", bố anh cũng có một hình giống hệt
, anh nói.
Tôi biết. Bố đã tìm được nó trong bản thảo viết tay chưa bao giờ in của Noel Corbu
.
Claridon đã nói cho chúng tôi về điều đó
.
Có nghĩa là de Roquefort đã có nó rồi
, Stephanie nói.
Nhưng liệu đó có phải là một phần trong các thông tin giả của quyển nhật ký không ?
Tất cả những gì Corbu chạm vào đều đáng ngờ
, Thorvaldsen nói.
Ông ta tô vẽ rất nhiều cho câu chuyện về Saunière để thu hút khách đến cái nhà trọ khốn kiếp của mình
.
Nhưng bản thảo mà ông ta đã viết
, Mark nói.
Bố vẫn luôn tin rằng nó chứa đựng sự thật. Corbu rất gần gũi với người tình của Saunière cho đến khi bà ấy chết vào năm 1953. Nhiều người kể bà ấy đã nói cho ông ta rất nhiều thứ. Chính vì vậy mà Corbu không bao giờ cho xuất bản quyển sách. Nó trái ngược với phiên bản hư cấu của ông ta.
Nhưng chắc chắn bản mật mã trong quyển nhật ký là giả à ?
, Thorvalsen hỏi.
Đó rất có thể chính là thứ mà de Roquefort muốn có từ quyển nhật ký
.
Chúng ta chỉ có thể hy vọng thôi
, Malone nói, đúng lúc đó anh nhìn thấy một bức hình Đọc các Quy định của Lòng nhân từ trên bàn. Anh cầm lấy bản sao to bằng tờ giấy bình thường lên và nhìn chăm chú vào dòng chữ bên dưới người đàn ông bé nhỏ mặc đồ tu sĩ đang ngồi trên một cái ghế với một ngón tay trên môi yêu cầu giữ trật tự.
ACABOCE A
DE 1681
Có điều gì đó không ổn, và anh vẫn liên tục so sánh nó với bản sao litô.
Ngày tháng khác nhau.
Tôi đã bỏ cả sáng nay để tìm hiểu về bức tranh
, Cassiopeia nói.
Tôi đã tìm được nó trên Intemet. Bức tranh đã bị lửa thiêu cháy vào cuối những năm 1950, nhưng trước đó nó đã được sửa sang lại và chuẩn bị để trưng bày. Trong quá trình phục chế người ta phát hiện rằng năm 1687 thực tế phải là năm 1681. Nhưng dĩ nhiên là bản sao litô đã được vẽ vào lúc còn chưa ai biết chuyện đó.
Stephanie lắc đầu.
Đây là một câu đố không có lời giải. Mọi thứ đều thay đổi từng giây phút
.
Mọi người đang làm đúng như Trưởng giáo muốn đấy
, Geoffrey nói.
Tất cả quay sang nhìn anh.
Ông ấy nói rằng một khi kết hợp với nhau, mọi thứ sẽ được khám phá
.
Malone bối rối.
Nhưng trưởng giáo của anh đã đặc biệt lưu ý chúng tôi là phải cẩn thận với kỹ sư
.
Geoffrey phác một cử chỉ về Cassiopeia.
Có lẽ là nên đề phòng cô ta
.
Nghĩa là gì ?
, Thorvaldsen hỏi.
Dòng giống của cô ta đã đánh lại các Hiệp sĩ Đền thờ trong suốt hai thế kỷ
.
Quả thực là người Hồi giáo đã đánh bật các giáo hữu khỏi Đất Thánh
, Cassiopeia tuyên bố.
Và người Hồi giáo Tây Ban Nha đã đuổi các Hiệp sĩ về vùng Languedoc đây khi họ muốn mở rộng lãnh thổ về phía Nam, vượt qua dãy Pyrénées. Cho nên Trưởng giáo của anh nói đúng, cần phải đề phòng kỹ sư
.
Điều gì sẽ xảy ra nếu cô tìm được Bí mật Lớn ?
, Geoffrey hỏi cô.
Còn tùy thuộc vào chuyện chúng ta sẽ tìm thấy gì
.
Tại sao điều đó lại quan trọng ? Dù sao thì Bí mật cũng có liên quan gì đến cô đâu
.
Anh quá sấn sổ so với một giáo hữu bình thường của Dòng đấy
.
Mọi thứ đều rõ ràng cả rồi, điều mà cô muốn là chứng minh Cơ đốc giáo chỉ là một lời nói dối
.
Tôi không nhớ đã nói đó là tham vọng của tôi
.
Trưởng giáo biết điều đó
.
Khuôn mặt Cassiopeia đanh lại - lần đầu tiên Malone nhìn thấy biểu hiện của sự nóng nảy trên mặt cô.
Trưởng giáo không biết gì về các động lực của tôi
.
Và bằng cách che giấu chúng
, Geoffrey nói,
cô không làm gì khác ngoài việc khẳng định những gì ông ấy nói là đúng
.
Cassiopeia nhìn chằm chằm vào Henrik.
Chàng thanh niên này rất có thể sẽ là một vấn đề đấy
.
Anh ta được Trưởng giáo sai đến
, Thorvaldsen nói.
Chúng ta không thể đặt vấn đề đó được
.
Anh ta gây rối
, Cassiopeia tuyên bố.
Có thể là như vậy
, Mark nói.
Nhưng cậu ấy có tham gia, cho nên phải quen với cậu ấy đi
.
Cô bình tĩnh lại.
Anh tin anh ta à ?
Đó không phải là vấn đề
, Mark nói.
Henrik nói đúng. Trưởng giáo tin cậu ấy và điều đó quan trọng. Ngay cả khi giáo hữu tốt bụng của chúng ta có thể gây ra sự khó chịu
.
Cassiopeio không phản đối, nhưng trên nét mặt cô lộ rõ sự bực bội. Và Malone thấy thái độ của cô không có gì khó hiểu.
Anh quay trở lại chú tâm vào cái bàn và nhìn chằm chằm vào những bức ảnh màu chụp nhà thờ Mary Magdalene. Anh nhận ra cái vườn chụp bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh và dòng chữ MIS-SION 1891 cùng với PENITENCE, PENITENCE khắc lên mặt cây cột của người Visigoth. Anh nhìn sát hơn những bức ảnh chụp cận cảnh những bức tranh vẽ hình Chúa chịu nạn, dừng lại một lúc ở bức thứ 10 vẽ cảnh những người lính La Mã đánh bạc để lấy cái áo của Christ, những con số ba bốn và năm nhìn thấy rõ trên quân xúc xắc. Rồi anh dừng lại ở hình số 14, vẽ cảnh cơ thể Christ được hai người vác đi trong bóng tối. Anh nhớ những gì Mark nói trong nhà thờ, và không thể ngăn mình từ họ. Họ đang đi vào, hay đi ra ?
Anh lắc đầu.
Chuyện gì đã xảy ra ?