Chương 4.2


Dịch giả: Lê Thu Hằng
C.ty Nhã Nam phát hành
Nhà xuất bản Văn học
Sau đó họ tới trước một tấm lưới mắt cáo bằng thép. Chính giữa của nó có một lỗ mở ra, làm thành hình một cái đó đánh cá. Tất cả tạo thành hình trụ hẹp dần đến mức để một cơ thể người có độ dày bình thường qua nhưng không thể quay trở lại được, vì ở lối ra của hình trụ có nhiều móc nhọn.
- Cái đó mới được làm…
- Hừm, có lẽ những người làm cái cửa và cái đó không muốn người ta quay ngược trở lại…
Bà Augusta lại nhận ra tác phẩm của Jonathan, chủ những cánh cửa và đồ kim loại.
- Nhìn này!
Daniel chiếu sáng mấy dòng chữ:
Ở đây ý thức kết thúc
Bạn có muốn vào chỗ vô thức không?
Họ há hốc mồm.
- Chúng ta làm gì bây giờ?
Cùng lúc tất cả nghĩ đến cùng một điều.
- Ở điểm chúng ta đang ở, thật là tiếc nếu bỏ cuộc. Tôi đề xuất chúng ta tiếp tục!
- Tôi qua trước, - Daniel nói và đặt cái bím tóc đuôi ngựa vào trong cổ áo để nó không bị mắc.
Họ lần lượt bò qua cái đó bằng thép.
- Buồn cười thật, - bà Augusta nói, - tôi có cảm giác đã từng làm kiểu này rồi.
- Bà đã từng ở trong một cái đó siết lại và không cho bà quay trở lại à?
- Đúng. Cách đây rất lâu.
- Cách đây rất lâu có nghĩa là thế nào?...
- Ồ! khi còn trẻ con, tôi phải có… một hay hai giây.
Ở tổ của mình, kiến thợ gặt kể lại những cuộc phiêu lưu tới đầu bên kia thế giới, xứ sở của quái vật và của những hiện tượng không hiểu nổi. Những con gián, các mảng đen, khối đá khổng lồ, những cái giếng, những quả cầu trắng… Quá lắm! Không có cơ hội nào để xây một ngôi làng trong thế giới kỳ cục như thế.
103 683 ngồi trong một góc để lấy lại sức. Nó suy nghĩ. Khi các anh em của nó nghe câu chuyện, họ sẽ phải làm lại tất cả các bản đồ và xem xét lại những nguyên lý cơ bản về hành tinh học của họ. Nó tự nhủ giờ là lúc thích hợp cho nó trở về Liên bang.
Từ cái đó đánh cá, họ phải đi khoảng hàng chục cây số nữa… Cuối cùng, làm thế nào mà biết được, và rồi họ lại bắt đầu cảm thấy mệt mỏi.
Họ tới được một lạch nước nhỏ cắt ngang đường hầm, nước ở đó đặc biệt nóng và có lưu huỳnh.
Daniel đột ngột dừng lại. Hình như ông nhìn thấy những con kiến trên một cái bè bằng lá xuôi theo dòng nước! Ông bình tĩnh lại; chắc là bụi nhiễm lưu huỳnh bốc lên
gây cho ông ảo giác

Sau đó vài trăm mét, Jason giẫm lên một thứ vật liệu kêu răng rắc. Ông chiếu vào. Lồng ngực của một bộ xương! Ông hét thất thanh. Daniel và bà Augusta quét đèn pin xung quanh và phát hiện ra hai bộ xương nữa, trong đó một bộ có kích thước của một đứa trẻ. Liệu có thể là Jonathan và gia đình anh ta không?
Họ tiếp tục hành trình, và nhanh chóng phải chạy: tiếng sột soạt hàng loạt báo hiệu chuột sắp tới. Màu vàng của các bức tường chuyển sang màu trắng. Vôi. Kiệt sức, cuối cùng họ cũng ở cuối đường hầm. Dưới chân một cầu thang xoắn ốc ngược lên trên!
Bà Augusta bắn hai viên đạn cuối cùng về hướng lũ chuột, rồi họ lao lên cái thang. Jason vẫn còn có đầu óc khá tỉnh táo để nhận thấy rằng cái thang đi theo hướng ngược lại cái thứ nhất, có nghĩa là trèo lên như đi xuống được làm xoay theo chiều kim đồng hồ.
Tin giật gân. Một dân Bel-o-kan vừa tới Tổ. Xung quanh họ nói chắc là một sứ giả của Liên bang, tới báo sự gia nhập chính thức của Chli-pou-kan với tư cách là tổ thứ sáu mươi lăm.
Chli-pou-ni ít lạc quan hơn con cái mình. Nó nghi ngờ người mới tới này. Và nếu đó là một chiến binh có mùi đá được Bel-o-kan phái tới để lẻn vào tổ của kiến chúa làm phản?
Nó như thế nào?
Nó đặc biệt rất mệt mỏi! Chắc nó đã phải chạy từ Bel-o-kan để tới được đây trong vài ngày.
Chính các mục đồng phát hiện ra nó, mệt lử, lang thang ở vùng phụ cận. Hiện giờ, nó chẳng phát tín hiệu gì hết, người ta đưa nó đến thẳng phòng kiến bình chứa để nạp năng lượng.
Cho nó tới đây, ta muốn nói chuyện một mình với nó, nhưng ta muốn lính gác đứng ở cửa vào hoàng cung sẵn sàng nhập cuộc khi ta ra hiệu.
Chli-pou-ni luôn muốn có tin tức từ tổ quê hương của mình, nhưng giờ một người đại diện tới, ý nghĩ trước tiên thoảng qua đầu nó là coi người đó như một kẻ do thám và giết nó đi. Nó đợi gặp con đó, nhưng nếu con đó để lộ một chút phân tử mùi đá, nó sẽ cho xử tử không chút do dự.
Người ta mang con Bel-o-kan đến. Ngay khi chúng nhận ra nhau, cả hai con kiến vồ lấy nhau, hàm dang rộng, và tiến hành một cuộc trao đổi chất êm dịu nhất. Cảm xúc mạnh đến nỗi chúng không thể nói được ngay lập tức.
Chli-pou-ni tung pheromon đầu tiên.
Cuộc điều tra tới đâu rồi? Có phải là bọn mối không?
103 683 kể là nó đã đi qua dòng sông Đông và đã thăm tổ mối; tổ này bị tiêu diệt và không có một người nào sống sót.
Thế thì, ai đứng đằng sau tất cả chuyện này?
Những người thật sự chịu trách nhiệm về tất cả những sự kiện khó hiểu này, theo con chiến binh, là những Người bảo vệ ở bờ Đông của thế giới. Những con vật kỳ lạ tới mức người ta không nhìn thấy chúng, người ta không cảm nhận được chúng. Đột nhiên, chúng từ trên trời hiện ra và mọi người chết!
Chli-pou-ni chăm chú lắng nghe. Thế nhưng có một chi tiết không giải thích được, 103 683 nói thêm, làm thế nào những Người bảo vệ điểm tận cùng thế giới lại có thể sử dụng lính có mùi đá?
Chli-pou-ni có suy nghĩ của mình về chuyện đó. Nó kể rằng những chiến binh mùi đá không phải là mật thám cũng không phải là lính đánh thuê, mà là một lực lượng bí mật chịu trách nhiệm giám sát cấp độ stress của cơ thể Tổ. Chúng dập tắt mọi thông tin có thể làm Tổ sợ hãi… Nó kể lại những kẻ giết người đó đã sát hại 327 như thế nào và chúng đã âm mưu hạ sát chính nó ra làm sao.
Thế còn dự trữ lương thực dưới đá sàn? Còn lối đi trong đá granit nữa?
Về việc này, Chli-pou-ni không có câu trả lời nào. Nó đã phái các sứ giả gián điệp đi để cố giải đáp bí ẩn đúp này.
Con kiến chúa trẻ đề nghị dẫn bạn mình đi thăm Tổ. Trên đường đi, nó giải thích cho con kia những khả năng tuyệt vời mà nước mang lại. Ví dụ, dòng sông Đông luôn bị coi là chết người, nhưng đó chỉ là nước, con kiến chúa đã bị ngã xuống đó và không chết. Có thể một ngày nào đó người ta sẽ xuống dòng sông trên những chiếc bè lá và khám phá bờ Bắc của thế giới… Chli-pou-ni hăng lên: những Người bảo vệ bờ phía Bắc chắc là có tồn tại, và người ta có thể kích động họ để chống lại những Người bảo vệ bờ Đông.
103 683 không phải không nhận thấy là Chli-pou-ni tràn trề những dự định táo bạo. Tất cả đều không thực hiện được, nhưng những gì đã được tiến hành thì thật ấn tượng: chưa bao giờ con chiến binh nhìn thấy những ruộng nấm hay những chuồng trại rộng như thế, chưa bao giờ nó thấy bè trôi trên các dòng kênh ngầm…
Nhưng cái làm nó ngạc nhiên nhất, đó là pheromon cuối cùng của con kiến chúa.
Nó khẳng định là nếu các sứ giả của nó không về trong mười lăm ngày nữa, nó sẽ tuyên chiến với Bel-o-kan. Theo nó, tổ quê hương không còn phù hợp với thế giới này nữa. Chỉ mỗi sự tồn tại của các chiến binh mùi đá chứng tỏ rằng đó là một thành phố không đối đầu trực diện với thực tế. Đó là một thành phố yếu như sên. Ngày xưa, nó là nhà cách mạng, giờ thì nó lỗi thời. Cần phải có sự thay phiên. Tại đây, ở Chli-pou-kan, kiến tiến bộ nhanh hơn nhiều. Chli-pou-ni cho là, nếu nó đứng đầu Liên bang, nó sẽ giúp cho Liên bang phát triển nhanh chóng. Với 65 tổ liên bang, kết quả các sáng kiến của nó sẽ được nhân lên gấp mười lần. Nó đã nghĩ tới chuyện chinh phục dòng chảy của nước và phát triển một phi đội bay sử dụng những con bọ tê giác.
103 683 lưỡng lự. Nó có ý định về Bel-o-kan để kể lại chuyến phiêu lưu của mình, nhưng Chli-pou-ni bảo nó từ bỏ dự định đó.
Bel-o-kan đã chế tạo ra một thứ vũ khí
để không biết
, không bắt nó biết điều nó không muốn biết.
Đỉnh của cầu thang xoắn ốc được kéo dài bởi các bậc thang bằng nhôm. Chúng không có từ thời Phục hưng! Chúng dẫn tới một cánh cửa màu trắng. Thêm các dòng chữ:
Và tôi đã tới gần một bức tường được xây bằng pha lê và có những lưỡi lửa bao quanh. Và điều đó bắt đầu làm tôi sợ.
Rồi tôi đi xuyên vào trong những lưỡi lửa cho tới khi đến gần một ngôi nhà được xây bằng pha lê.
Và những bức tường của ngôi nhà như những làn sóng pha lê hình ô vuông và móng của nó bằng pha lê.
Trần nhà như con đường của các vì sao.
Và ở giữa chúng có những biểu tượng lửa.
Và bầu trời của chúng trong như nước. (Énoch, I)
Họ đẩy cánh cửa, đi lên một hành lang rất dốc. Mặt đất bỗng sụt dưới bước đi của họ - một cái sàn quay! Cú ngã của họ dài tới mức… khoảng thời gian sợ hãi đã trôi qua, họ có cảm giác đang bay. Họ bay!
Cú ngã của họ giảm bớt nhờ một tấm lưới dành cho người nhào lộn, một tấm lưới khổng lồ có mắt lưới mau. Bò lổm nhổm, họ mò mẫm trong bóng tối. Jason Bragel nhận ra một cánh cửa mới… với không phải thêm một mật mã mới nữa, mà chỉ một tay nắm đơn giản. Ông khẽ gọi những người đi cùng mình. Sau đó ông mở.
NGƯỜI GIÀ: Ở châu Phi, người ta khóc trước cái chết của một người già nhiều hơn trước cái chết của một trẻ sơ sinh. Người già là một khối kinh nghiệm mà phần còn lại của bộ lạc có thể tranh thủ được trong khi đó trẻ mới sinh, còn chưa sống, thậm chí chưa có nhận thức về cái chết.
Ở châu Âu, người ta khóc một trẻ mới sinh vì người ta cho rằng chắc chắn nó có thể làm được những điều phi thường nếu như nó sống. Ngược lại người ta ít chú ý tới cái chết của người già. Dù sao đi nữa, người già cũng đã được hưởng cuộc sống.
Edmond Wells,
Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.
Nơi đó ngập ánh sáng màu xanh.
Đó là một ngôi đền không tranh ảnh, không tượng.
Bà Augusta nghĩ tới những lời của Giáo sư Leduc. Ngày xưa, những tín đồ đạo Tin Lành chắc chắn phải trú ở đây, lúc những cuộc truy sát quá dữ dội.
Dưới những vòm rộng bằng đá được đẽo gọt, căn phòng trông rộng rãi, vuông vắn, rất đẹp. Vật trang trí duy nhất là một cái đàn ống thời nay, đặt ở chính giữa. Trước cái đàn, một cái giá để kinh, một tập hồ sơ dày đặt trên đó.
Các bức tường đầy chữ viết, mà rất nhiều, ngay cả với cái nhìn ngoại đạo, có vẻ gần với ma thuật đen hơn là ma thuật trắng. Leduc có lý, các giáo phái chắc phải nối tiếp nhau ở nơi trú ngầm này. Và ngày xưa, chắc không có bức tường quay, cái đó và cái bẫy sập với tấm lưới.
Người ta nghe thấy tiếng róc rách, giống như nước chảy. Họ chưa hiểu ngay căn nguyên. Ánh sáng phơn phớt xanh từ phía bên phải tới. Ở đó có một kiểu như phòng thí nghiệm, đầy máy tính và ống nghiệm. Tất cả máy vẫn còn đang bật; chính màn hình máy tính tạo ra quầng chiếu sáng ngôi đền.
- Chúng làm mọi người tò mò, đúng không?
Họ nhìn nhau. Không ai trong ba người nói gì. Một cái đèn bật sáng trên trần.
Họ quay lại. Jonathan Wells, trong cái áo choàng trắng, đi về phía họ. Anh ta vào bằng một cái cửa nằm trong đền, ở đầu bên kia của phòng thí nghiệm.
- Chào bà ngoại Augusta! Chào Jason Bragel! Chào Daniel Rosenfeld!
Ba người được chào đứng sững ngạc nhiên, không tài nào trả lời được. Vậy ra anh ta không chết! Anh ta sống ở đây! Làm thế nào người ta có thể sống được ở đây? Họ không biết phải bắt đầu bằng câu hỏi nào…
- Chào mừng đến với cộng đồng nhỏ của chúng tôi.
- Chúng tôi ở đâu đây?
- Mọi người đang ở đây, trong một ngôi đền Tin Lành được Jean Androuet Du Cerceau xây hồi đầu thế kỷ XVII. Androuet trở nên nổi tiếng khi xây khách sạn Sully tại phố Saint-Antoine ở Paris, nhưng cháu thấy cái đền ngầm này là kiệt tác của ông ấy. Nhiều kilômét đường hầm bằng đá được gọt đẽo. Mọi người thấy đấy, người ta thấy không khí trên suốt chặng đường. Chắc ông ấy phải sắp đặt ống thông hơi, hoặc ông ấy biết sử dụng các túi khí của đường hang tự nhiên. Người ta thậm chí không thể hiểu được ông ấy đã làm như thế nào. Và chưa hết, không chỉ có không khí, mà còn có cả nước. Chắc mọi người đã nhìn thấy những lạch nước chảy qua một số phần của đường hầm. Nhìn này, có một cái đổ ra đây.
Anh chỉ nguồn gốc của tiếng róc rách liên tục, một vòi phun nước được đẽo gọt đặt đằng sau cái đàn.
- Rất nhiều người, khi có tuổi, rút lui về đây để tìm sự yên bình và thanh thản nhằm thực hiện những điều cần, xem nào… nhiều sự tập trung. Bác Edmond của cháu đã khám phá ra cái hang này trong một quyển sách phù thủy và bác đã làm việc chính ở nơi này.
Jonathan tiến lại gần nữa; một sự êm dịu và không lo lắng ít có tỏa ra từ người anh. Bà Augusta sững sờ.
- Nhưng chắc mọi người phải mệt lử rồi. Đi theo cháu.
Anh đẩy cửa chỗ anh đã xuất hiện lúc trước đó và dẫn họ tới một phòng có nhiều ghế bành xếp thành vòng tròn.
- Lucie, - anh gọi vọng, - chúng ta có khách!
- Lucie? Nó cũng ở với cháu à? - bà Augusta hạnh phúc kêu lên.
- Hừm, các anh có bao nhiêu người ở đây? - Daniel hỏi.
- Chúng cháu có, cho tới giờ, là mười tám: Lucie, Nicolas, tám lính cứu hỏa, thanh tra cảnh sát, năm hiến binh, cảnh sát trưởng và cháu. Tóm lại, tất cả những người đã bỏ công xuống đây. Mọi người sắp gặp họ thôi. Xin thứ lỗi cho chúng cháu, nhưng với cộng đồng của chúng cháu, giờ là bốn giờ sáng, và tất cả đang ngủ. Chỉ có mỗi cháu bị thức dậy vì mọi người tới. Này, mọi người làm ồn ở hành lang quá đấy…
Lucie xuất hiện, cũng trong áo choàng.
- Xin chào!
Cô tiến tới, mỉm cười, và ôm hôn cả ba. Sau cô, các bóng hình mặc pyjama thò đầu qua khuôn cửa để nhìn những
người mới tới
.
Jonathan mang một bình nước lớn lấy ở đài phun và cốc tới.
- Chúng cháu để mọi người ở lại đây một chút, để thay quần áo và chuẩn bị. Chúng cháu đón những người mới bằng một lễ nhỏ, nhưng chúng cháu không biết là mọi người đổ bộ giữa đêm hôm thế này… Hẹn chút nữa nhé!
Bà Augusta, Jason và Daniel không nhúc nhích. Toàn bộ câu chuyện này thật là quá sức. Bỗng nhiên Daniel bấu cẳng tay mình. Bà Augusta và Jason thấy ý kiến hay và cũng làm như thế. Nhưng không, thực tế đôi khi đi xa hơn cả mơ. Họ nhìn nhau, hoang mang tuyệt vời, và mỉm cười với nhau.
Vài phút sau, tất cả tập trung, ngồi trên những chiếc ghế bành. Bà Augusta, Jason và Daniel đã lấy lại tinh thần và giờ thì ham có thông tin.
- Lúc nãy anh nói về các ống thông hơi, chúng ta có xa mặt đất không?
- Không, tối đa là ba hoặc bốn mét.
- Thế thì chúng ta có thể ra ngoài trời?
- Không, không. Jean Androuet Du Cerceau đã đặt và xây đền của mình đúng ngay dưới một khối đá phẳng rất lớn, vững chắc, chịu được mọi thử thách - đá granit!
- Thế nhưng nó bị khoan một lỗ to bằng một cánh tay, - Lucie thêm vào. - Cái lỗ đó đã từng dùng làm ống thông gió.
- Đã từng dùng?
- Vâng, giờ lối đó được dành làm việc khác. Nhưng không sao, còn có những ống thông gió khác ở bên. Mọi người thấy đấy, chúng ta không bị nghẹt thở ở đây…
- Chúng ta không thể ra ngoài?
- Không. Hay dù thế nào đi nữa, không phải ở phía trên kia.
Jason có vẻ rất lo lắng.
- Nhưng Jonathan, thế thì tại sao cháu xây bức tường quay ấy, cái đó, cái sàn hẫng, cái lưới ấy?... Chúng ta hoàn toàn bị kẹt ở đây!
- Đó chính xác là kết quả mong muốn ạ. Việc đó đã đòi hỏi ở cháu rất nhiều tiền bạc và nỗ lực đấy. Nhưng cần phải thế. Khi lần đầu tiên cháu tới ngôi đền, cháu thấy cái giá để kinh. Ngoài quyển Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối, cháu đã thấy ở chỗ đó một bức thư của bác cháu gửi trực tiếp cho cháu. Nó đây.
Họ đọc:

Jonathan yêu quý của bác,
Cháu đã tự quyết định xuống mặc kệ lời cảnh báo của bác. Vậy cháu dũng cảm hơn bác nghĩ đấy. Hoan hô. Theo bác, chỉ có một phần năm may mắn để cháu thành công. Mẹ cháu đã nói cho bác về chứng sợ bóng tối của cháu. Nếu cháu ở đây có nghĩa là cháu đã có thể, trong số những người khác, vượt qua được khiếm khuyết này của mình và ý chí của cháu được mài nhọn. Chúng ta cần điều đó.
Cháu sẽ thấy trong tập hồ sơ này cuốn Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối, mà tới ngày bác viết những dòng chữ này, có 288 chương nói về những công việc của bác. Bác mong là cháu sẽ tiếp tục chúng, chúng đáng để làm.
Điều cốt yếu của những nghiên cứu này là nền văn minh kiến. Tóm lại cháu sẽ đọc và cháu sẽ hiểu. Nhưng ban đầu bác có một lời thỉnh cầu rất quan trọng nhờ cháu. Vào thời điểm mà cháu tới được đây, bác đã không có thời gian lập các biện pháp bảo vệ (nếu bác làm được thì cháu đã không thấy bức thư được viết như thế này) bí mật của bác.
Bác nhờ cháu xây dựng chúng. Bác đã bắt đầu phác thảo một số bản thiết kế, nhưng bác nghĩ là cháu có thể cải thiện những gợi ý này, bằng hiểu biết riêng của mình. Mục đích của những máy móc này rất đơn giản. Cần phải làm cho mọi người không thể thâm nhập một cách dễ dàng tới hang của bác, nhưng những người đã tới được rồi không bao giờ có thể quay trở về nữa để kể những điều họ đã nhìn thấy.
Bác hy vọng cháu sẽ thành công, và chỗ này sẽ mang lại cho cháu ‘sự giàu có’ nhiều như nó đã cung cấp cho bản thân bác.
Edmond

- Jonathan đã tuân thủ luật chơi, - Lucie giải thích. - Anh ấy xây tất cả những cái bẫy dự định, và mọi người đã thấy là chúng hoạt động.
- Còn những cái xác? Đó là những người bị chuột ăn thịt à?
- Không. (Jonathan mỉm cười). Cháu cam đoan với mọi người là không một ai chết trong đường hầm này từ khi bác Edmond đóng ở đây. Những xác chết mà mọi người nhìn thấy có từ ít nhất năm mươi năm nay. Người ta không biết thảm kịch nào đã xảy ra ở đây vào thời điểm ấy. Một giáo phái nào đó…
- Nhưng thế thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể lên được nữa sao? - Jason lo lắng.
- Không bao giờ.
- Sẽ phải với được tới cái lỗ ở phía trên của tấm lưới (cao tám mét!), vượt qua cái đó theo hướng ngược lại, điều không thể được, và chúng ta không có một dụng cụ nào có thể làm nóng chảy nó, và còn phải qua được bức tường (thế nhưng, Jonathan không dự tính hệ thống mở từ phía bên này)…
- Chưa nói đến lũ chuột…
- Anh làm thế nào để mang lũ chuột xuống đó? - Daniel hỏi.
- Đó là ý tưởng của bác Edmond. Bác ấy đã đặt một cặp chuột rattus norvegicus cực kỳ to và hiếu chiến trong một cái hốc đá ngoằn ngoèo, với một lượng thức ăn để dành lớn. Bác ấy biết đó là một quả bom nổ chậm. Những con chuột cống khi được nuôi dưỡng tốt sinh sản với tốc độ theo cấp lũy thừa. Sáu chuột con ra đời mỗi tháng, và chính chúng lại sẵn sàng đẻ con chỉ sau chừng hai tuần… Để tự bảo vệ mình, bác đã sử dụng một loại bình xịt ra pheromon tấn công không chịu nổi đối với những con gặm nhấm này.
- Thế thì chính chúng đã giết chết Ouarzazate à? - bà Augusta hỏi.
- Đáng tiếc là đúng. - Và Jonathan đã không dự đoán trước được là lũ chuột ở bên kia
bức tường kim tự tháp
còn dữ tợn hơn.
- Một trong số các đồng nghiệp của tôi, có bệnh sợ chuột, đã mất trí hoàn toàn khi một trong số những con vật to đùng này nhảy lên mặt anh ta và cắn một mẩu mũi anh ta. Anh ta leo lên ngay lập tức, bức tường kim tự tháp còn chưa kịp quay lại vị trí. Trên mặt đất, mọi người có tin tức của anh ta không? - một hiến binh hỏi.
- Tôi nghe nói anh ta đã phát điên và bị đưa vào một bệnh viện tâm thần, - bà Augusta trả lời, - nhưng đó là những
lời đồn
.
Bà đi uống một cốc nước, nhưng nhận ra là có đầy kiến trên bàn. Bà kêu lên một tiếng và, vô thức, lấy mu bàn tay phủi chúng. Jonathan bật dậy, nắm cổ tay bà. Cái nhìn của anh khó chịu trái ngược với sự bình tĩnh cực kỳ tồn tại trong nhóm cho tới giờ; và cái tật máy miệng cũ của anh, tưởng là đã chữa được, xuất hiện trở lại.
- Đừng… bao giờ… làm thế nữa!
Một mình trong phòng, Belo-kiu-kiuni bí mật ngốn một lứa trứng của mình; cuối cùng đó là thức ăn thích nhất của nó.
Nó biết con gọi là 801 này không chỉ là một sứ giả của tổ mới. 56, hay đúng hơn là kiến chúa Chli-pou-ni vì con đó muốn xưng như thế, phái sứ giả 801 đến để tiếp tục cuộc điều tra.
Nó không có gì phải lo lắng, các chiến binh mùi đá của nó giải quyết được không vấn đề gì. Đặc biệt là con thọt, rất có khiếu trong nghệ thuật trút gánh nặng cuộc sống - đúng là một nghệ sĩ!
Thế nhưng, đây là lần thứ tư Chli-pou-ni cử sứ giả quá tò mò sang bên nó. Những con của đợt đầu tiên bị giết thậm chí trước khi tìm thấy phòng lomechuse. Những con đợt thứ hai và đợt thứ ba chết vì chất gây ảo giác của con sâu cánh cứng tẩm thuốc độc.
Về phần con 801 này, hình như nó đã đi xuống ngay khi vừa mới hội kiến với Mẹ xong. Rõ ràng là chúng càng ngày càng hết kiên nhẫn để chết rồi! Nhưng mỗi lần, chúng lại đi xuống sâu hơn vào trong Tổ. Và nếu một trong số chúng, bất chấp mọi thứ, tìm được lối đi? Và nếu chúng phát hiện được bí mật? Và nếu chúng truyền tin đó ra?...
Bầy sẽ không hiểu. Những chiến binh chống stress sẽ có ít cơ hội ngăn chặn kịp thời thông tin. Các con của nó sẽ phản ứng ra sao?
Một chiến binh mùi đá vội vàng vào.
Gián điệp đã hạ được lomechuse! Nó đang ở dưới!
Thế đấy, chuyện sẽ phải đến…
666 là tên của con vật (Sách khải huyền theo thánh Jean)
Nhưng con gì là con vật cho ai?
Edmond Wells,
Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.
Jonathan buông cổ tay bà mình ra. Trước khi sự lúng túng có thể tới, Daniel tìm cách lảng sang chuyện khác.
- Còn cái phòng thí nghiệm ở lối vào, nó dùng để làm gì?
- Đó là phiến đá Rosette[13]! Mọi nỗ lực của chúng cháu chỉ để phục vụ một tham vọng duy nhất: nói chuyện với chúng?
[13] Phiến đá Rosette được tìm thấy năm 1799 tại thành phố cảng Rosette, châu thổ sông Nil, trong chiến dịch của Napoléon Bonaparte. Phiến đá này được coi là chìa khóa để giải mã chữ Ai Cập tượng hình, trên đó có một bản văn được viết bằng ba hệ thống ký tự (tượng hình Ai Cập, Ai Cập cổ và Hy Lạp).

- Chúng… chúng là ai?
- Chúng: là kiến. Mọi người theo cháu.
Họ rời phòng khách để qua phòng thí nghiệm. Jonathan, rõ ràng rất thoải mái trong vai trò người nối tiếp Edmond, lấy trên cái bồn một ống nghiệm đầy kiến và giơ nó lên ngang tầm nhìn.
- Nhìn này, đây là những sinh vật. Những sinh vật riêng biệt hoàn toàn. Không phải chỉ là những con côn trùng chẳng là gì, và điều đó, bác cháu đã lập tức hiểu ra… Những con kiến lập nên nền văn minh lớn thứ hai trên Trái đất. Về phần bác Edmond, đó là một kiểu Christophe Colomb đã phát hiện ra một châu lục khác giữa những những ngón chân của chúng ta. Bác là người đầu tiên hiểu ra rằng trước khi đi tìm những người ngoài hành tinh ở nơi tận cùng của không gian, trước hết cần phải gặp những… người trong Trái đất đã.
Không ai nói một từ. Bà Augusta nhớ lại. Cách đây vài ngày, bà đi dạo trong rừng Fontainebleau và bỗng nhiên bà cảm thấy những đống nhỏ kêu răng rắc dưới gót giày. Bà vừa giẫm lên một đám kiến. Bà nghiêng người. Tất cả đều chết, nhưng có một điều bí ẩn. Chúng xếp thẳng hàng như để tạo thành một mũi tên mà đầu nhọn quay theo chiều ngược lại…
Jonathan đã đặt ống nghiệm xuống. Anh lại tiếp tục bài thuyết trình của mình:
- Khi từ châu Phi trở về, bác Edmond đã tìm thấy tòa nhà này, tầng hầm của nó, rồi ngôi đền. Đây là một nơi lý tưởng, bác đặt phòng thí nghiệm của mình ở đây… Chặng đầu tiên trong nghiên cứu của bác là giải mã các pheromon hội thoại của kiến. Cái máy này là một khối phổ kế. Như tên gọi của nó đã nói rõ, nó cho ra phổ của một khối lượng, nó phân tích bất kỳ vật chất nào bằng cách liệt kê các nguyên tử tạo nên vật chất đó… Cháu đã đọc những ghi chép của bác. Lúc đầu, bác ấy đặt những con kiến thí nghiệm của mình dưới một cái chuông thủy tinh được nối với cái máy phổ kế bằng một ống hút. Bác cho con kiến tiếp xúc với một mẩu táo, con này gặp một con kiến khác và tất nhiên nói với nó:
Có táo ở đằng kia.
Thực ra, đó là giả thuyết ban đầu. Bác ấy, hút các pheromon được tỏa ra, giải mã chúng và đi đến một công thức hóa học… Ví dụ
Có táo ở phía Bắc
được nói:
methyl-4 methylpyrrole-2 carboxylate
. Mỗi câu, số lượng rất nhỏ, từ 2 đến 3 picogramme (10-12 g)… Nhưng thế là đủ. Như thế người ta biết nói
táo

phía Bắc
. Bác tiếp tục thí nghiệm này với rất nhiều đồ vật, thức ăn hay tình huống. Như vậy bác có được một quyển từ điển tiếng Pháp-Kiến thật sự. Sau khi mới chỉ hiểu được tên của chừng trăm loại quả, khoảng ba mươi loại hoa, chục hướng, bác đã học được các pheromon báo động, các pheromon biểu lộ vui thích, gợi ý, miêu tả; và thậm chí bác ấy đã gặp những con hữu tính dạy bác diễn đạt như thế nào những
tình cảm trừu tượng
của khúc râu thứ bảy… Thế nhưng, biết
nghe
chúng chưa đủ với bác. Giờ bác muốn nói với chúng, thiết lập một cuộc nói chuyện thực sự.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Kiến.