CHƯƠNG 18
-
Luật giang hồ
- Jeffrey Archer
- 3960 chữ
- 2020-05-09 04:16:20
Số từ: 3949
Biên dịch: Nguyễn Nhật Tâm, Bồ Giang
NXB Văn Học
— Đây là Nhà Trắng.
— Xin cho gặp ông Butterworth.
Im lặng một lúc lâu mới có người đáp:
— Tôi không biết bất cứ ai có tên đó, thưa ông. Xin chờ một chút, tôi sẽ chuyển qua phòng Nhân viên.
Vị Viện trưởng Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia kiên nhẫn chờ, cứ mỗi giây trôi qua lại càng nhận thấy hệ thống điện thoại mới do bộ Hành chính của Clinton đặt mua rõ ràng là quá chậm.
— Đây là phòng Nhân viên, – một giọng phụ nữ nói. – Tôi có thể giúp gì ông?
— Tôi muốn gặp ông Rex Butterworth, trợ lý đặc biệt của Tổng thống.
— Ai đang gọi đấy?
— Marshall. Calder Marshall, viện trưởng Viện Bảo tàng.
— Của…?
— Của nước Mỹ.
Lại im lặng một lúc lâu.
— Tôi không sao nhớ ra cái tên Butterworth, thưa ông, nhưng tôi tin chắc ông biết có tới hơn bốn mươi trợ lý đặc biệt cho Tổng thống.
— Không, tôi không biết, – Marshall nhìn nhận.
Sau đó im lặng một lúc lâu nữa.
— Theo hồ sơ lưu trữ của chúng tôi, – giọng phụ nữ nói, – hình như ông ta đã trở về Bộ Thương mại. Ông ta thuộc danh mục A, chỉ có nhiệm vụ tạm thời ở đây.
— Cô có biết một số nào giúp tôi gọi được ông ấy?
— Không, tôi không biết. Nhưng nếu ông gọi điện thoại đến Bộ Thương mại tôi tin chắc họ sẽ tìm ra ông ta cho ông.
— Cảm ơn cô đã giúp đỡ.
— Tôi rất vui mừng được giúp ông.
Hannah có thể không bao giờ nhớ lại nàng đã nằm co quắp bao lâu trong góc phòng của Simon. Nàng không thể nghĩ đến anh với tên Scott, nàng sẽ luôn luôn nghĩ đến anh với tên Simon. Một tiếng đồng hồ, rất có thể hai. Thời gian không còn thực chất nào đối với nàng nữa. Nàng có thể nhớ đã bò trở lại giữa phòng, tránh những chiếc ghế và bàn bị lật đổ giống như trong một hộp đêm vừa mới trải qua một cuộc ẩu đả giữa bọn người say rượu.
Nàng lấy viên thuốc ra khỏi ví và xả trôi theo nước trong bồn cầu, việc làm tự động của bất cứ một điệp viên nào đã được huấn luyện kỹ. Rồi nàng bắt đầu lục lọi trong cảnh đổ nát để tìm các bức hình, và tất nhiên, bức thư đề tên
Hannah
. Nàng nhét mấy vật kỷ niệm mới đó vào trong ví và với sự giúp đỡ của một chiếc ghế đổ, nàng đứng dậy.
Đêm hôm ấy, nàng nằm trên giường ở Toà Đại sứ nhìn chằm chằm lên trần nhà trắng tinh, không thể nhớ lại cuộc trở về, lộ trình nàng đã đi qua hoặc thậm chí nàng đã trèo thang cứu hoả hay là vào bằng cửa trước. Nàng tự hỏi bao nhiêu đêm nữa nàng đi ngủ được mấy phút liền một lúc. Thời gian sẽ trôi qua bao nhiêu lần trước khi anh không còn là từng ý nghĩ của nàng.
Nàng biết Mossad sẽ muốn đưa nàng ra, che giấu nàng, bảo vệ nàng – vì họ đã thấy chuyện đó – cho tới khi cảnh sát Pháp hoàn tất cuộc điều tra của họ. Nhiều Chính phủ sẽ có những vũ khí ngoại giao phát huy hết sức mạnh. Người Mỹ sẽ trả đũa mạnh mẽ về vụ giết chết một điệp viên của họ, nhưng cuối cùng mọi việc sẽ được dàn xếp ổn thoả. Hannah Kopec, Simon Rosenthal và giáo sư Scott Bradley sẽ biến thành nhưng hồ sơ xếp. Đối với tất cả bọn họ, cả ba người chỉ là những con số, có thể hoán đổi, không thiết yếu và tất nhiên, có thể thay thế được.
Nàng băn khoăn họ sẽ làm gì với thể xác của anh, thể xác của người đàn ông mà nàng thương yêu. Một nấm mồ đáng kính nhưng vô danh, nàng tin chắc như vậy. Họ sẽ bảo rằng việc phải thế vì lợi ích của chính nghĩa. Bất kể họ chôn anh ở đâu, nàng biết họ sẽ không bao giờ cho phép nàng tìm được nấm mồ của anh.
Chắc hẳn nàng đã không bỏ viên thuốc vào cà phê lúc đầu nếu Kratz đã không nói đi nói lại về ba mươi chín hỏa tiễn Scud giáng lên đầu nhân dân Do Thái, và đặc biệt một trong số đó đã giết chết mẹ nàng, em trai nàng và em gái nàng. Thậm chí rất có thể nàng đã rút lui vào lúc cuối nếu họ đã không đe doạ họ sẽ tự tay làm việc đó, nếu nàng từ chối. Họ hứa với nàng nếu chính là trường hợp này, cái chết sẽ vô cùng đau đớn.
Ngay lúc Hannah sắp sửa lấy viên thuốc ra khỏi ví, nàng đã hỏi xin Simon một chút đường, một giây an toàn cuối cùng. Tại sao anh đã không chộp lấy nó. Tại sao anh không đặt vấn đề, trêu ghẹo nàng về trọng lượng của nàng, làm bất cứ điều gì có thể khiến nàng đổi ý? Nhưng rồi tại sao, tại sao anh đã chờ quá lâu mới nói thực với nàng?
Ước gì anh nhận thức rằng nàng cũng có nhiều điều để nói với anh. Viên Đại sứ đã được triệu hồi về Iraq – một sự thăng chức, ông ta giải thích. Như Kanuk đang nói với tất cả mọi người, ông ta sẽ lên chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, điều đó có thể là khi vắng mặt Muhammed Saeed Al Zahiaf, ông ta sẽ làm việc trực tiếp với Saddam Hussein. Vị trí của ông ta ở Toà Đại sứ sẽ được giao cho một người tên Hamid Al Obaydi, nhân vật số hai tại Liên Hiệp Quốc, người gần đây đã giúp cho Iraq một việc quan trọng mà cuối cùng nàng sẽ hay biết. Viên Đại sứ đã cho phép nàng chọn hoặc ở lại Paris để phục vụ dưới quyền Al Obaydi, hoặc trở về Iraq để tiếp tục làm việc với ông ta. Chỉ mấy ngày trước, chắc hẳn Mossad đã nghĩ một đề nghị như thế là một cơ hội quá hấp dẫn.
Hannah hết sức mong muốn nói với Simon rằng nàng không còn quan tâm đến Saddam nữa, rằng anh đã khiến cho nàng có thể vượt qua lòng thù hận đối với hoả tiễn Scud, thậm chí khiến cho cái chết của gia đình nàng trở thành một vết thương rất có thể đã đến lúc lành lặn. Nàng biết mình không còn có thể giết chết bất cứ ai được nữa, chừng nào nàng có một người để mãi mãi yêu thương. Nhưng giờ đây, Simon đã chết, nỗi khao khát trả thù còn mạnh hơn cả trước đây.
— Đây là Bộ Thương mại.
— Xin cho gặp Rex Butterworth.
— Cơ quan nào?
— Tôi không chắc tôi biết, – vị Viện trưởng Viện Bảo tàng nói.
— Ông Butterworth làm ở cơ quan nào? – nhân viên tổng đài hỏi, đọc từng từ một cách chậm rãi, tựa hồ cô ta đang nói chuyện với một cậu bé bốn tuổi.
— Tôi không rõ, – vị Viện trưởng nhìn nhận.
— Chúng tôi không biết bất cứ ai có tên đó.
— Nhưng Nhà Trắng đã nói với tôi…
— Tôi không cần biết Nhà Trắng đã nói gì với ông. Nếu ông không biết cơ quan nào…
— Tôi có thể gặp phòng Nhân viên?
— Xin chờ một phút.
Hoá ra lâu hơn một phút rất nhiều.
— Đây là phòng Nhân viên.
— Tôi là Calder Marshall, Viện trưởng Viện Bảo tàng Lịch sử của nước Mỹ. Tôi có thể nói chuyện với ông Giám đốc?
— Tôi rất tiếc, ông ấy không rảnh. Ông có muốn nói chuyện với phụ tá điều hành của ông ấy?
— Vâng, như thế cũng tốt, – Marshall nói.
— Cô ấy không đến sở hôm nay. Ông có thể gọi lại vào ngày mai?
— Vâng, – Marshall nói với một tiếng thở dài.
— Rất vui mừng được giúp ông.
Khi chiếc xe hơi của Kratz rít lên ngừng lại bên ngoài Trung tâm Tim mạch trong rừng Gillbert, có ba bác sĩ, hai nhân viên tạp dịch và một nữ y tá đang chờ họ trên bậc thềm bệnh viện. Toà Đại sứ chắc phải dốc hết sức.
Hai nhân viên tạp dịch chạy về phía trước và nhấc cái xác lên một cách nhẹ nhàng nhưng vững chắc ra khỏi băng sau của xe hơi, mang nhanh Scott lên các bậc thềm trước khi đặt anh trên một cái bàn nhỏ có bánh xe đang đợi sẵn.
Ngay cả lúc cái bàn lăn xuôi theo hành lang, ba viên bác sĩ và nữ y tá vẫn vây quanh cái xác và bắt đầu cuộc khám nghiệm. Người nữ y tá nhanh chóng cởi sơ mi và quần dài của Scott trong lúc viên bác sĩ thứ nhất mở miệng anh để kiểm tra hơi thở. Người thứ hai, một bác sĩ cố vấn chuyên môn, cúi tai lên ngực của Scott và cố lắng nghe một nhịp tim, trong lúc người thứ ba kiểm tra áp lực máu của anh, không một người nào có vẻ hy vọng.
Viên bác sĩ cố vấn quay về phía nhà lãnh đạo Mossad và quả quyết bảo:
— Khỏi cần phải nói dối vô ích. Chuyện xảy ra như thế nào?
— Chúng tôi đã đầu độc hắn ta, nhưng hoá ra hắn ta không…
— Tôi không quan tâm, – Ông ta nói. – Các ông đã dùng thuốc độc gì?
— Ergot alkaloid, – Kratz nói.
Viên bác sĩ chuyển sự chú ý sang một trong hai phụ tá của ông.
— Anh hãy gọi bệnh viện Widal và hỏi cho tôi các chi tiết về tác dụng của nó và thuốc giải độc chính xác, nhanh lên, – Ông ta nói trong lúc các nhân viên tạp dịch xô hai cánh cửa cao su chạy vào một phòng mổ riêng.
Viên bác sĩ thứ nhất đã tìm cách giữ cho miệng Scott vẫn mở trong suốt cuộc hành trình ngắn và tạo ra một lỗ thông hơi. Ông ta đã ấn lưỡi xuống để giữ một đường thông thương tới thanh quản. Sau khi chiếc bàn lăn đã ngừng lại trong phòng mổ, ông ta đặt một ống thông hơi bằng nhựa dài khoảng mười hai phân để bảo đảm lưỡi không bị suốt vào cổ họng.
Lúc bấy giờ, cô ý tá mới đặt một chiếc mặt nạ trên mũi và miệng của Scott nối với một nguồn cung cấp dưỡng khí trên tường. Gắn vào một bên mặt nạ là một cái bọc bằng cao su mà cô ta bắt đầu bơm đều dặn từng ba bốn giây một với bàn tay trái, trong lúc cô ta giữ vững đầu anh bằng tay phải. Buồng phổi của Scott lập tức đầy dưỡng khí.
Viên bác sĩ cố vấn lại kê tai lên ngực Scott. Ông ta vẫn không thể nghe thấy gì. Ông ta liền ngẩng đầu lên, gật đầu với một nhân viên tạp dịch và người này bắt đầu chà bột dẻo lên nhiều phần của ngực Scott. Một nữ y tá khác tiếp theo đặt nhiều các đĩa điện tử nhỏ trên các dấu bột dẻo. Những sợi dây từ đĩa được nối với một máy đo tim đặt trên một cái bàn bên cạnh bàn lăn. Đường thẳng nhỏ chạy qua máy và ghi cường độ của nhịp tim chợt phát lên một dấu hiệu yếu ớt.
Viên bác sĩ cố vấn mỉm cười phía sau mạng che mặt, trong lúc cô y tá tiếp tục bơm dưỡng khí vào trong miệng và mũi bệnh nhân.
Đột nhiên, không báo trước, máy đo tim phát ra một âm thanh chói tai. Tất cả mọi người trong phòng mổ cùng quay lại, nhìn thẳng vào máy đo lúc này đang cho thấy một đường thẳng băng nhỏ chạy từ bên này sang bên kia màn hình.
— Tim ngừng đập! – viên bác sĩ cố vấn la lớn.
Ông ta nhảy tới trước và đặt thân bàn tay trên xương ức của Scott và với tất cả hai cánh tay siết chặt. Ông ta bắt đầu lắc tới lắc lui trong lúc cố đẩy một khối lượng máu từ quả tim để làm hồi tỉnh bệnh nhân. Như một vận động viên cử tạ tài giỏi, ông ta có thể dùng hai cánh tay để bơm với tốc độ năm mươi lần mỗi phút.
Một bác sĩ thực tập đẩy máy Derlbrillator[41] tới. Viên bác sĩ cố vấn liền đặt hai cái kẹp điện lớn lên phía trước và một bên ngực của Scott.
[41] Derlbrillator: loại máy chặn đứng các cơn co thắt hỗn loạn của cơ tim khiến nhịp tim không đều và đôi khi không bơm được máu (fibrillation).
— Hai trăm joule, – viên bác sĩ cố vấn nói. – Đứng dang ra.
Tất cả mọi người thụt lùi một bước trong lúc một chấn động được truyền từ máy phóng điện và chạy qua cơ thể của Scott.
Họ chăm chú nhìn vào máy đo tim trong lúc viên bác sĩ cố vấn lại nhảy tới trước và tiếp tục bơm ngực của Scott với hai lòng bàn tay, nhưng đường thẳng màu xanh lá cây vẫn không phản ứng.
— Hai trăm joule, đứng dang ra, – Ông ta kiên quyết nhắc lại.
Và tất cả mọi người thụt lùi để quan sát hiệu quả của chấn động điện. Nhưng đường biểu diễn vẫn thẳng băng một cách bướng bỉnh. Viên bác sĩ nhanh nhẹn trở lại để bơm ngực Scott với hai bàn tay.
— Ba trăm sáu mươi joule, đứng dang ra, – viên bác sĩ cố vấn nói trong tình trạng khẩn cấp, nhưng cô ý tá tăng số trên mặt đồng hồ biết chắc bệnh nhân đã chết.
Viên bác sĩ bấm một cái nút, và tất cả mọi người quan sát chấn động mạnh nhất được phép chạy qua cơ thể của Scott phỏng đoán thế là xong. Họ cùng chú tâm vào máy đo tim.
— Chúng ta đã mất anh ấy.
Lời nói đó còn ở trên môi của viên bác sĩ cố vấn, thì họ kinh ngạc thấy đường biểu đồ chợt bắt đầu có một dấu hiệu giật nhẹ. Ông ta liền nhảy tới trước và bắt đầu bơm với hai lòng bàn tay trong lúc chuyển động giật giật tiếp tục cho thấy cơn co thắt đều đặn của cơ tim.
— Ba trăm sáu mươi joule, đứng dang ra, – Ông ta lại nói một lần nữa.
Cái nút lại được bấm xuống và mọi người chú ý nhìn máy đo tim. Cơn co thắt trở lại nhịp bình thường. Viên bác sĩ trẻ nhất mừng rỡ reo lên.
Viên bác sĩ cố vấn nhanh chóng định vị một mạch máu trong cánh tay trái của Scott và thọc một mũi kim thắng vào đó, nối vào một ống thông rồi gắn đầu kia vào một bình nước biển.
Một viên bác sĩ khác chạy vào phòng, nhìn thẳng vào cấp trên và nói:
— Thuốc giải độc là GTN.
Một cô ý tá liền đi thẳng tới tủ độc được và lấy ra một chai nhỏ glycerine trinitrate, đưa cho viên bác sĩ cố vấn, trong lúc ông ta đã cầm sẵn một ống tiêm. Ông ta rút chất lỏng màu xanh từ trong chai, phun một chút lên không để chắc chắn không còn không khí, rồi bơm chất giải độc vào một van của bình nước biển. Ông ta quay người để quan sát máy đo tim. Chuyển động giật giữ một nhịp không đổi.
Viên bác sĩ quay sang cô ý tá lớn tuổi và hỏi:
— Cô có tin vào phép lạ không?
— Không, cô ta trả lời. – Tôi là một người Do Thái. Phép lạ chỉ dành riêng cho những người theo đạo Cơ đốc.
Hannah bắt đầu lập một kế hoạch, một kế hoạch không để cho Kratz can thiệp vào. Nàng đã quyết định nhận làm thư ký chính cho viên Đại sứ, và theo ông ta về Iraq.
Trong lúc nhiều tiếng đồng hồ trôi qua, kế hoạch nàng bắt đầu hình thành. Không phải từ phía Iraq, mà từ dân tộc của chính nàng. Hannah biết rằng nàng sẽ phải lẩn tránh mọi cố gắng của Mossad để rút nàng ra, điều đó có nghĩa là nàng có thể không bao giờ rời khỏi Toà Đại sứ, thậm chí chỉ một lúc, cho đến khi viên Đại sứ trở về Iraq. Nàng sẽ sử dụng tất cả những phương pháp chuyên môn mà họ đã giảng dạy cho nàng trong hai năm vừa qua để đánh bại họ.
Khi nàng đến Iraq, Hannah sẽ tự làm cho mình trở nên rất cần thiết cho viên Đại sứ, chờ cơ hội thuận tiện và, một khi đã đạt được mục tiêu, nàng sẽ sung sướng chết như một kẻ tử vì đạo.
Nàng chỉ còn mỗi một mục đích trong cuộc sống sau khi Simon đã chết: ám sát Saddam Hussein.
— Đây là Bộ Thương mại.
— Xin cho tôi gặp cô Alex Wagner, – vị viện trưởng Viện Bảo tàng nói.
— Ai?
— Cô Alex Wagner, phòng Nhân viên.
— Xin chờ một phút.
Lại thêm một phút kéo dài.
— Phòng nhân viên đây.
— Tôi là Calder Marshall, Viện trưởng Viện Bảo tàng Lịch sử Mỹ. Ngày hôm qua tôi đã gọi cô Wagller và cô đã bảo tôi gọi lại ngày hôm nay.
— Tôi không ở đây hôm qua, thưa ông.
— Thế thì chắc một bạn đồng nghiệp của cô. Cô Wagller có rảnh không?
— Xin chờ một phút.
Lần này vị Viện trưởng chờ tới mấy phút.
— Tôi là Alex Wagller đây, – một giọng phụ nữ nhanh nhẩu nói.
— Cô Wagller, tên tôi là Calder Marshall. Tôi là Viện trưởng Viện Bảo tàng Lịch sử Mỹ và tôi có chuyện vô cùng quan trọng cần phải tiếp xúc với ông Rex Butterworth gần đây đã được Bộ Thương mại phân công đến Nhà Trắng.
— Ông có phải là một người chủ cũ của ông Butterworth? – giọng nói nhanh nhẩu hỏi.
— Không, không phải, – Marshall đáp.
— Ông là một người bà con?
— Không.
— Thế thì tôi e rằng tôi không thể giúp ông, ông Marshall.
— Tại sao vậy? – vị Viện trưởng hỏi.
— Bởi vì
đạo luật Đời tư
ngăn cấm chúng tôi loan báo bất cứ thông tin nào về viên chức chính phủ.
— Cô có thể cho tôi biết tên của ông Giám đốc Thương mại, hay việc đó cũng đã được bao trùm trong đạo luật Đời tư? – vị Viện trưởng hỏi.
— Dick Fielding, – giọng nói trở nên cộc cằn.
— Cảm ơn sự giúp đỡ của cô, – vị Viện trưởng nói.
Điện thoại chợt im bặt.
Khi Scott tỉnh dậy, ký ức đầu tiên của anh là Hannah. Rồi anh ngủ thiếp đi.
Khi anh tỉnh dậy lần thứ hai, anh chỉ có thể trông thấy những bóng người lờ mờ xuất hiện cúi xuống phía trên anh. Rồi anh lại ngủ.
Khi anh tỉnh dậy một lần nữa, những hình ảnh lờ mờ bắt đầu rõ hơn. Phần lớn bọn họ hình như mặc y phục trắng. Rồi anh lại ngủ.
Khi anh tỉnh dậy lần kế tiếp thì trời đã tối và anh chỉ có một mình. Anh cảm thấy hết sức yếu đuối, toàn thân mềm nhũn, trong lúc anh cố nhớ lại chuyện gì đã xảy ra.
Rồi anh lại ngủ.
Anh tỉnh dậy lại, họ đã đỡ anh lên giường. Họ đang cố đút cho anh một chất lỏng ấm, không có mùi vị qua một ống nhựa. Rồi anh lại ngủ.
Khi anh tỉnh dậy, một người đàn ông mặc áo choàng trắng với một ống nghe và một nụ cười nồng nhiệt, đang hỏi bằng một giọng rõ ràng:
— Anh có thể nghe tôi?
Anh cố gật đầu nhưng ngủ thiếp đi.
Khi anh tỉnh dậy, một viên bác sĩ khác – lần này anh có thể trông thấy ông ta một cách rõ ràng – đang chăm chú lắng nghe trong lúc Scott cố nói những từ đầu tiên:
— Hannah, Hannah.
Anh chỉ nói có thế. Rồi anh lại ngủ.
Anh lại tỉnh dậy, và một người phụ nữ quyến rũ với một mái tóc đen ngắn và một nụ cười ân cần đang nghiêng xuống phía trên anh. Anh mỉm cười lại với cô ta và hỏi giờ. Điều đó chắc hắn có vẻ kỳ lạ đối với cô ta, nhưng anh muốn biết.
— Quá ba giờ sáng một chút, – cô y tá nói với anh.
— Tôi đã ở đây bao lâu? – anh cố hỏi.
— Mới hơn một tuần, nhưng ông gần như đã chết rồi. Nếu những người bạn của ông…
Rồi anh lại ngủ.
Khi anh tỉnh dậy, viên bác sĩ nói với Scott rằng khi anh mới đến đây, họ đều nghĩ đã quá muộn, và hai lần anh đã được công bố chết về phương diện kỹ thuật.
— Thuốc giải độc và kích thích điện vào tim, kết hợp với một quyết tâm sống phi thường và lý thuyết của một cô y tá bảo rằng rất có thể ông là một người Do Thái, đã thách thức công bố kỹ thuật. – Ông ta nói với một nụ cười.
Scott hỏi có một người nào tên Hannah đến thăm anh hay không? Viên bác sĩ kiểm tra bảng ở chân giường của anh. Chỉ có hai người đã đến thăm anh, cả hai đều là đàn ông. Họ đến mỗi ngày. Rồi Scott lại ngủ.
Khi anh tỉnh dậy, hai người đàn ông mà viên bác sĩ nói tới đang đứng, mỗi người một bên giường anh. Scott mỉm cười với Dexter Hutchins trong lúc ông đang cố nín khóc. Người lớn không khóc, anh muốn nói, nhất là khi họ làm việc cho CIA. Anh quay sang người đàn ông kia. Anh chưa bao giờ trông thấy một người đầy vẻ ngượng ngùng đến thế, nhăn nhó và bứt rứt đến thế, hoặc đôi mắt đỏ đến thế vì mất ngủ. Scott cố hỏi chuyện gì đã gây cho anh nỗi bất hạnh như thế này. Rồi anh lại ngủ.
Khi anh tỉnh dậy, cả hai người đàn ông vẫn còn ở đó, lúc này đang ngồi nghỉ trên hai chiếc ghế không lấy gì làm thoải mái, ngủ gà ngủ gật.
— Dexter, – anh khẽ gọi, và cả hai đã tỉnh dậy ngay tức khắc. – Hannah ở đâu?
Người đàn ông kia mà Scott để ý thấy một con mắt bầm và một cái mũi gãy đang hồi phục, chần chừ một lúc mới trả lời câu hỏi của anh. Scott lại ngủ, không bao giờ muốn tỉnh dậy nữa.