Phần 1 - Chương 2: Ponti Pilat
-
Nghệ nhân và Margarita
- Mikhail Bulgakow
- 13249 chữ
- 2020-05-09 02:41:51
Số từ: 13237
Dịch giả: Đoàn Tử Huyến
Nguồn: Nhà xuất bản Văn học
Trong tấm áo choàng màu trắng với lần vải lót đỏ như máu, với dáng đi lê bước của người kỵ mã, rạng sáng ngày mười bốn tháng Nisan [1] mùa xuân, quan tổng trấn xứ Giudea Ponti Pilat [2] bước ra hàng cột lộ thiên giữa hai mái hiên của cung điện Herod Ðại Ðế [3] .
Cái mà quan tổng trấn căm ghét nhất trên đời là mùi tinh dầu hoa hồng, và bây giờ tất cả đều báo hiệu một ngày ám gở: mùi dầu đó bắt đầu bám dai dẳng ngài ngay từ lúc trời vừa tờ mờ sáng. Ngài có cảm tưởng như mùi tinh dầu hoa hồng tỏa ra từ những thân cây cọ và trắc bá diệp ở trong vườn; dòng mùi thơm đáng nguyền rủa đó như trộn lẫn với mùi da và mùi đoàn vệ tống. Từ những dãy nhà ngang nằm sâu ở phía sau cung điện, nơi đóng quân của kogort [4] thứ nhất thuộc legio Tia Chớp Số Mười Hai đến Iersalaim [5] cùng với quan tổng trấn, gió mang khói bay qua hiên thượng của khu vườn đến hàng cột, và lẫn vào với mùi khói hăng hắc chứng tỏ rằng đám hỏa đầu trong các kenturia đã bắt đầu nổi lửa, lại vẫn là cái mùi tinh dầu hoa hồng nồng nặc. Ôi, hỡi các thần linh, vì tội gì mà các người trừng phạt ta như thế này?!
Phải rồi, không còn nghi ngờ gì nữa! Ðây lại là nó, cái căn bệnh hemikrania [6] khủng khiếp không có gì chống đỡ này rồi. Chẳng có thứ thuốc thang nào, chẳng trốn đi đâu được. Ta sẽ thử cố không cử động đầu xem
.
Trên nền sàn khảm cạnh đài phun nước đã chuẩn bị sẵn một chiếc ghế bành; quan tổng trấn, mắt không nhìn ai, buông người xuống ghế và chìa tay ra bên cạnh.
Tên thư ký kính cẩn đặt vào bàn tay đó một mảnh giấy da cừu [7] . Mặt nhăn lại vì đau không nén được, quan tổng trấn đưa mắt liếc qua những hàng chữ viết trên đó, trả lại mảnh giấy cho tên thư ký rồi nặng nhọc nói:
„Tên bị bắt từ Galile [8] đến à? án văn đã gửi cho tiểu vương [9] chưa?»
„Bẩm quan tổng trấn, rồi ạ
, tên thư ký đáp.
„Thế nào?»
„Ngài tiểu vương khước từ đưa ra lời luận tội và gửi bản tuyên án tử hình của Hội đồng thượng thẩm [10] lên cho ngài phê duyệt ạ.»
Quan tổng trấn giật giật một bên má và nói khẽ:
„Dẫn tội nhân đến!»
Ngay tức khắc, hai tên lính của legio dẫn từ dưới vườn lên ban công một người chừng hai mươi bảy tuổi và bắt dừng lại trước ghế quan tổng trấn đang ngồi. Người này mặc chiếc áo hitôn màu xanh da trời đã cũ và rách nhiều chỗ, đầu bịt một dải khăn trắng với vòng thắt trên trán, còn hai tay bị trói quặt ra sau lưng. Phía dưới con mắt trái của người đó có một vệt bầm tím lớn, cạnh góc miệng là vết rách đã khô máu. Người bị dẫn đến nhìn quan tổng trấn với vẻ tò mò lo ngại.
Quan tổng trấn im lặng một lúc lâu, rồi khẽ hỏi bằng tiếng Aramei [11] :
„Có phải đúng nhà ngươi xúi giục dân chúng phá Ðền Thờ [12] Iersalaim không?»
Trong lúc hỏi, quan tổng trấn vẫn ngồi bất động như tượng đá, chỉ có đôi môi khẽ mấp máy phát ra tiếng. Quan tổng trấn ngồi như tượng đá vì ngài sợ cử động chiếc đầu đang đau dữ dội như có lửa đốt bên trong.
Người bị trói hai tay hơi chúi người lên phía trước và bắt đầu cất tiếng:
„Hỡi con người nhân từ! Xin người hãy tin...
Nhưng quan tổng trấn vẫn ngồi bất động như cũ và không hề cao giọng lên tí nào, tức khắc cắt ngang lời:
„Nhà ngươi gọi ta là con người nhân từ à? Ngươi nhầm rồi đấy. ở Iersalaim tất cả mọi người thì thầm nói về ta rằng ta là một con quái vật điên khùng, và điều đó là đúng
, rồi ngài nói thêm vẫn bằng cái giọng đều đều như vậy: „Gọi kenturion Crưsoboi [13] đến đây gặp ta.»
Khi viên chỉ huy kenturia đặc nhiệm là Mark, biệt danh Crưsoboi, đến đứng trước mặt quan tổng trấn, tất cả mọi người đều tưởng như trên ban công trời bỗng tối sầm lại.
Crưsoboi cao hơn người lính cao nhất của legio đến một cái đầu, vai rộng đến nỗi che hẳn cả vầng thái dương vừa mới lên còn chưa cao lắm.
Quan tổng trấn nói với viên kenturion bằng tiếng Latinh:
„Tên tội phạm này gọi ta là
con người nhân từ
. Ðưa nó đi khỏi đây một phút, giảng cho nó hiểu phải nói với ta như thế nào. Nhưng chớ làm nó tàn tật.»
Và tất cả mọi người, trừ quan tổng trấn vẫn ngồi bất động, đều đưa mắt nhìn theo Mark Crưsoboi; anh ta giơ tay ra hiệu cho người bị bắt đi theo mình.
Nói chung, mỗi khi Crưsoboi xuất hiện bất kỳ ở đâu mọi người đều phải nhìn theo anh ta „vì con người Mark quá cao lớn, và đối với những người lần đầu tiên trông thấy viên kenturion này thì còn vì khuôn mặt kỳ dị của anh ta: chiếc mũi vỡ do trước đây bị một quả chùy German đánh trúng.
Tiếng ủng nặng của Mark gõ vang trên mặt sàn khảm, người tù bị trói bước theo sau không tiếng động, giữa những dãy cột hoàn toàn im lặng, và nghe rõ tiếng chim bồ câu gù ngoài vườn cạnh ban công hòa với tiếng nước reo êm êm dễ chịu nơi đài phun.
Quan tổng trấn muốn đứng dậy, chìa thái dương đón lấy tia nước rồi lặng đi trong tư thế như vậy. Nhưng ngài biết rằng cả điều đó cũng không giúp gì được cho ngài.
Dẫn người bị bắt rời các dãy cột vào khu vườn, Crưsoboi cầm từ tay tên lính của legio đứng dưới chân bức tượng đồng một ngọn roi và khẽ vung lên, đánh xuống vai người bị bắt. Cử chỉ của viên kentunon trông đờ đẫn, nhẹ nhàng, qua quýt, nhưng kẻ bị trói lập tức ngã sấp xuống mặt đất như bị phạt ngang chân, miệng hớp hớp không khí, mặt cắt không còn hột máu, cặp mắt trống không đờ đẫn. Mark chỉ đưa một cánh tay trái ra, nhẹ nhàng như xách chiếc bao tải rỗng, nhấc bổng con người đang nằm dưới đất lên, đặt cho đứng trên hai chân và nói bằng giọng mũi tiếng Aramei hơi khó nghe:
„Phải gọi ngài quan tổng trấn La Mã là ighemon [14] . Không được nói những từ khác. Ngươi hiểu chưa hay là ta phải đánh nữa?»
Người bị bắt lảo đảo, nhưng kìm được mình, máu đã dồn trở lại mặt, anh ta thở lấy hơi và khàn khàn đáp:
„Tôi hiểu rồi, đừng đánh tôi.»
Một phút sau, anh ta đã đứng trước mặt quan tổng trấn.
Một giọng nói buồn tẻ, ốm yếu vang lên:
„Tên là gì? »
„Tên tôi ấy à?„ người bị bắt vội vàng hỏi, toàn thân thể hiện một sự sẵn sàng biết điều khi đáp lại, để không làm quan tổng trấn tức giận thêm.
Quan tổng trấn nói khẽ:
„Tên của ta, ta đã biết rồi. Ðừng có làm ra vẻ ngớ ngẩn hơn là ngươi vốn có. Tên nhà ngươi.»
„Iesua [15] „, người bị bắt vội vàng đáp.
„Có biệt danh không?»
„Ha-Notxri.
„Quê quán?
„Thành phố Gamala
, người bị bắt đáp, gật nhẹ đầu ra hiệu rằng ở một nơi nào đó rất xa, về phía tay phải của anh ta, trên miền Bắc, có một thành phố tên là Gamala.
„Huyết thống của nhà ngươi?
„Tôi không biết thật chính xác
, người bị bắt nhanh nhảu đáp
, tôi không nhớ cha mẹ tôi. Người ta bảo với tôi rằng bố tôi là người Siri...
„Nhà ngươi sống thường xuyên ở đâu?
„Tôi không sống thường xuyên ở nơi nào cả
, người bị bắt ngượng nghịu đáp,
tôi hành hương từ thành phố này sang thành phố khác.
„Ðiều đó có thể diễn đạt ngắn gọn hơn bằng một từ là lang thang
, quan tổng trấn nói, rồi hỏi tiếp: „Có người thân không?
„Không có ai cả. Tôi một mình trên đời.
„Biết chữ không?
„Có ạ!
„Ngoài tiếng Aramei ra, còn biết thứ tiếng nào khác?
„Tôi còn biết tiếng Hy Lạp.
Một mí mắt sưng mọng khẽ nâng lên, một con mắt đục mờ vì đau đớn nhìn người bị bắt chằm chằm, con mắt kia vẫn nhắm chặt.
Pilat cất giọng hỏi bằng tiếng Hy Lạp:
„Có phải nhà ngươi định phá Ðền Thờ và kêu gọi dân chúng làm như vậy không?
Người bị bắt bỗng sôi nổi hẳn lên, đôi mắt không còn tỏ vẻ sợ hãi nữa, và anh ta nói bằng tiếng Hy Lạp:
„Tôi, hỡi con người nhân...„ một nỗi kinh hoàng chợt thoáng qua cặp mắt người bị bắt vì suýt nữa anh ta lại lỡ lời,
tôi, thưa ighemon, không bao giờ trong đời có ý định phá Ðền Thờ và không xúi giục ai làm cái việc vô nghĩa đó.
Trên khuôn mặt tên thư ký ngồi còng lưng trên chiếc bàn thấp và ghi chép lời khai, hiện ra vẻ ngạc nhiên; gã ngẩng đầu lên, nhưng lại lập tức cúi xuống mảnh giấy da cừu.
„Có vô số loại người khác nhau đổ về thành phố này để đón ngày hội. Trong số họ có cả phù thủy, thầy chiêm tinh, thầy bói và các bọn giết người
, quan tổng trấn nói bằng giọng đều đều,
có cả những kẻ chuyên nói dối nữa. Nhà ngươi chẳng hạn, là một kẻ nói dối. Ở đây đã ghi rõ: xúi giục phá Ðền Thờ. Những người làm chứng khai như vậy.
„Những con người nhân từ đó
, người bị bắt nói và vội vàng thêm,
thưa ighemon
, rồi tiếp: „họ không học được điều gì cả và lẫn lộn hết những điều tôi nói. Nói chung tôi bắt đầu lo rằng sự nhầm lẫn này sẽ kéo dài rất lâu. Mà tất cả chỉ là vì anh ta chép lời tôi không đúng.
Im lặng bao trùm. Bây giờ cả hai con mắt ốm yếu đều đã mở ra nhìn người bị bắt một cách nặng nề.
„Ta nhắc lại, nhưng đây là lần cuối cùng: đừng có giả đò điên dại nữa, hỡi đồ kẻ cướp
, Pilat nói khẽ và đều đều,
lời của nhà ngươi được ghi chép lại không nhiều, nhưng cũng đủ để treo cổ nhà ngươi lên.
„Không, không phải đâu, thưa ighemon
, toàn thân căng thẳng lên trong ý muốn thuyết phục được người nghe, kẻ bị bắt nói,
có một người mang theo giấy da cừu cứ đi bám riết theo tôi và ghi chép lia lịa. Một lần, tôi liếc nhìn vào tờ giấy của anh ta và cảm thấy kinh hoàng. Quả thực là những điều được viết trong đó tôi không hề nói ra bao giờ. Tôi cầu khẩn anh ta: Lạy trời, anh hãy đốt tờ giấy này đi! Nhưng anh ta giật nó trong tay tôi và chạy mất.
„Ai thế?„ Pilat hỏi với vẻ kinh tởm và đưa tay lên sờ thái dương.
„Levi Matvei [16] „, người bị bắt sẵn lòng giải thích,
anh ta là một người thu thuế, tôi gặp anh ta lần đầu tiên ở trên đường vào Viphaghia [17] , ở cạnh vườn vả, và bắt chuyện với anh ta. Lúc đầu anh ta có thái độ thù địch với tôi, thậm chí lăng nhục tôi; anh ta gọi tôi là đồ chó và nghĩ rằng bằng cách đó đã lăng nhục tôi
, nói đến đây người bị bắt cười khẩy,
nhưng tôi không thấy ở con vật này có gì xấu để có thể tức giận với lời đó được.
Tên thư ký ngừng viết và ném trộm một cái nhìn ngạc nhiên, nhưng không phải về phía người bị bắt, mà về phía quan tổng trấn.
„... Nhưng sau khi nghe tôi nói, anh ta liền thay đổi thái độ
, Iesua nói tiếp,
cuối cùng anh ta ném hết tiền xuống đường cái và nói rằng sẽ theo tôi đi hành hương.
Pilat nhếch mép cười bằng một bên má, để lộ những chiếc răng vàng khè, rồi quay cả thân hình về phía tên thư ký, nói:
„Ôi, cái thành phố Iersalaim này! Có cái gì là không nghe thấy ở đây? Người đi thu thuế, các ngươi có nghe thấy không, lại đi ném tiền ra đường cái.
Không biết trả lời ra sao, tên thư ký cho việc tốt nhất là lặp lại nụ cười của Pilat.
„Và anh ta nói rằng kể từ nay anh ta ghê tởm tiền bạc
, Iesua giải thích hành động kỳ quặc của Levi Matvei, rồi nói thêm: „Và từ hôm đó anh ta trở thành bạn đường của tôi.
Vẫn tiếp tục nhe răng, quan tổng trấn quay sang nhìn kẻ bị bắt, rồi nhìn lên vầng thái dương không ngừng vượt lên cao ở phía trên những bức tượng hình ngựa chiến của trường đua ngựa nằm dưới xa phía tay phải; và trong một cơn đau nhói ngài chợt nghĩ rằng, cách giải quyết đơn giản nhất bây giờ là đuổi cái tên kẻ cướp lạ lùng này khỏi ban công mà chỉ cần nói hai từ:
Treo cổ
. Ðuổi cả đoàn vệ tống đi, rồi rời hàng một lộ thiên vào hậu cung, ra lệnh che kín phòng, buông người xuống giường, đòi một cốc nước lạnh, bằng giọng rền rĩ gọi con chó Banga, than thở với nó về chứng hemikrania. Và ý nghĩ về chén thuốc độc bỗng thoáng vụt qua đầy quyến rũ trong chiếc đầu bệnh tật của quan tổng trấn.
Ngài ngồi nhìn kẻ bị bắt bằng đôi mắt mờ đục và im lặng một lúc lâu, khổ sở cố nhớ xem cái con người kia với bộ mặt bị roi đòn méo mó đứng dưới ánh mặt trời Iersalaim buổi sớm nắng gắt [18] để làm gì, và ngài còn cần phải hỏi thêm những câu hỏi không cần thiết cho ai nào nữa.
„Levi Matvei à?„ người bệnh hỏi bằng giọng khàn khàn và nhắm mắt lại.
„Vâng, Levi Matvei
, giọng nói lanh lảnh vẳng đến tai Pilat như hành hạ ngài.
„Dù sao thì nhà ngươi cũng đã nói gì về ngôi đền với đám đông ngoài chợ?
Giọng nói của người trả lời hình như cứ xoáy vào thái dương Pilat, khiến ngài đau đớn đến không thể tả nổi; và giọng nói đó lại cất lên:
„Thưa ighemon, tôi nói rằng ngôi đền của lòng tin cũ sẽ sụp đổ, và ngôi đền mới của chân lý sẽ được dựng lên. Tôi nói như vậy để cho dễ hiểu hơn.
„Này, kẻ lang thang, tại sao nhà ngươi lại gây rối loạn trong dân chúng ở ngoài chợ bằng những lời lẽ về cái chân lý mà chính nhà ngươi chẳng hề có tí ý niệm nào? Chân lý là cái gì [19] ?»
Nói xong, quan tổng trấn nghĩ thầm:
Ôi, hỡi các vị thần linh! Ta hỏi hắn về những chuyện hoàn toàn không cần thiết ở trên tòa án... Lý trí của mình không còn nghe theo mình nữa...
. Và ngài lại thoáng nghĩ đến chiếc chén với chất lỏng màu đen.
Thuốc độc, thuốc độc cho ta...
.
Và ngài lại nghe thấy giọng nói:
„Chân lý trước hết là ở chỗ hiện giờ ngài đang đau đầu, và đầu của ngài đau đến nỗi ngài đang hèn nhát nghĩ đến cái chết. Ngài không chỉ không đủ sức nói với tôi, mà thậm chí chỉ nhìn thôi ngài cũng cảm thấy khó khăn. Và bây giờ tôi vô tình trở thành đao phủ đối với ngài, điều đó làm tôi khổ sở. Ngài không thể nghĩ về một cái gì khác mà chỉ mơ ước một điều: gọi con chó của ngài đến, nó có lẽ là sinh vật duy nhất mà ngài quyến luyến gắn bó. Nhưng những đau đớn của ngài giờ đây rồi sẽ hết, đầu ngài sẽ đỡ.»
Tên thư ký trố mắt nhìn kẻ bị bắt và không chép hết lời.
Pilat ngước đôi mắt lộ vẻ đau đớn lên nhìn người bị bắt và nhận thấy mặt trời đã lên khá cao phía trên trường đua ngựa, nắng đã chiếu rọi vào dãy cột tròn và đang bò dần đến bên đôi dép đã cũ mòn của Iesua, còn anh ta đang tìm cách đứng tránh ra khỏi các tia nắng.
Quan tổng trấn chợt rời ghế bành đứng dậy, hai tay ôm lấy đầu, trên khuôn mặt da vàng tái cạo nhẵn của ngài hiện ra vẻ kinh hoàng. Nhưng ngài lập tức dùng ý chí của mình chế ngự nỗi sợ hãi và lại buông người xuống ghế bành.
Trong lúc đó người bị bắt vẫn tiếp tục nói, nhưng tên thư ký không ghi chép gì thêm, mà chỉ vươn dài cổ ra như một con ngỗng, cố không bỏ sót một lời nào.
„Thế đấy, tất cả đã qua rồi
, người bị bắt nói, nhìn Pilat với vẻ đầy thiện ý, «và tôi rất vui mừng với điều đó. Tôi muốn khuyên ngài, thưa ighêmôn, là ngài hãy tạm rời cung điện một thời gian và đi dạo ở một nơi nào đó, cho dù là ở núi Eleon [20] . Cơn giông sẽ bắt đầu
, người bị bắt quay đi nhìn lên mặt trời, «muộn hơn, vào buổi chiều. Cuộc đi dạo sẽ rất có lợi cho ngài, và tôi sẵn sàng đi theo ngài. Trong đầu tôi vừa nảy ra một vài suy nghĩ mới mà tôi cho rằng sẽ làm ngài quan tâm, tôi sẵn sàng chia xẻ cùng ngài, hơn nữa ngài đã gây cho tôi ấn tượng là một con người rất thông minh.»
Tên thư ký tái nhợt người kinh hoàng, đánh rơi cuộn giấy xuống sàn.
„Tai họa là ở chỗ
, không bị ai ngắt lời, kẻ bị trói vẫn tiếp tục nói, «ngài là người quá cô độc và đã hoàn toàn mất hết lòng tin vào mọi người. Mà lẽ ra, chắc ngài cũng đồng ý, là không nên dồn toàn bộ sự quyến luyến vào một con chó. Cuộc sống của ngài quá đạm bạc, thưa ighemon
, nói đến đây người bị bắt tự cho phép nở một nụ cười mỉm.
Tên thư ký lúc này chỉ nghĩ mỗi một điều, là có nên tin ở tai mình nữa hay không. Có lẽ buộc phải tin. Và gã cố hình dung ra cơn giận dữ của quan tổng trấn tính nóng như lửa sẽ bùng ra dưới hình thức đáng sợ nào khi nghe những lời táo tợn chưa từng thấy như vậy của kẻ bị bắt. Nhưng điều này thì tên thư ký không thể hình dung nổi, mặc dù gã đã biết khá rõ quan tổng trấn.
Vừa lúc đó vang lên giọng khàn khàn đứt quãng của quan tổng trấn, ngài nói bằng tiếng Latinh:
„Cởi trói cho hắn.»
Một trong số những tên lính vệ tống thúc cán giáo xuống đất, trao nó cho tên đứng bên cạnh, bước đến cởi sợi dây thừng trên tay kẻ bị bắt. Tên thư ký nhặt tấm giấy lên, quyết định bây giờ sẽ chưa ghi chép gì và không tỏ vẻ ngạc nhiên trước bất cứ chuyện gì xảy ra.
„Hãy nói thực đi
, Pilat hỏi khẽ bằng tiếng Hy Lạp, «nhà ngươi là một thầy thuốc đại tài phải không?»
„Không, thưa quan tổng trấn, tôi không phải là thầy thuốc
, người bị bắt đáp, khoan khoái xoa bóp những ngón tay bị trói chặt sưng bầm lên.
Ðột ngột, Pilat trừng mắt nhìn xoáy vào mặt người bị bắt, trong ánh nhìn giờ đây không còn vẻ đờ đẫn nữa, mà đã xuất hiện những tia lửa quen thuộc với tất cả mọi người.
„Ta chưa hỏi nhà ngươi
, Pilat nói, «có thể nhà ngươi biết cả tiếng Latinh nữa?»
„Vâng, tôi có biết
, người bị bắt đáp.
Một màu hồng hiện ra trên đôi má vàng nhạt của Pilat, và ngài hỏi bằng tiếng Latinh:
„Làm sao nhà ngươi biết là ta muốn gọi chó?»
„Ðiều đó rất đơn giản
, người bị bắt đáp bằng tiếng Latinh,
ngài đưa tay trong không khí
, người bị bắt lặp lại cử động của Pilat. „dường như vuốt ve, và môi ngài... »
„Ðúng thế
, Pilat nói.
Cả hai đều im lặng một lúc lâu. Rồi Pilat hỏi bằng tiếng Hy Lạp:
„Nhưng ngươi là thầy thuốc chứ [21] ?»
„Không, không
, người bị bắt vội vàng đáp, «xin ngài hãy tin tôi, tôi không phải là thầy thuốc.»
„Thôi được. Nếu nhà ngươi muốn giữ bí mật điều đó thì cứ giữ. Ðiều đó không liên quan trực tiếp đến công việc. Vậy là nhà ngươi khẳng định rằng nhà ngươi không xúi giục phá... hay là đốt, hay là bằng một cách nào đó hủy diệt Ðền Thờ, phải không?»
„Thưa ighemon, tôi xin nhắc lại là tôi không hề xúi giục ai làm những việc như vậy cả. Chẳng lẽ tôi lại trông giống như một thằng ngốc sao?»
„Ồ không, nhà ngươi không giống một thằng ngốc
, quan tổng trấn đáp khẽ và nhếch mép tạo thành một nụ cười đáng sợ, «thế thì nhà ngươi hãy thề là không có điều đó đi.»
„Ngài muốn tôi lấy gì ra mà thề ạ?„ người bị bắt vừa được cởi trói linh hoạt hẳn lên, hỏi.
„Hừ, thì cứ lấy cuộc đời của nhà ngươi ra mà thề
, quan tổng trấn đáp, «nhà ngươi lấy nó mà thề là đúng lúc đấy, vì bây giờ nó đang treo trên sợi tóc, hãy nhớ lấy điều đó!»
„Thưa ighemon, ngài không nghĩ là ngài treo nó lên đấy chứ?„ người bị bắt hỏi. „Nếu ngài nghĩ thế thì ngài rất lầm đấy ạ.»
Pilat rùng mình và nói qua kẽ răng:
„Ta có thể cắt đứt sợi tóc đó.»
„Và cả điều đó ngài cũng lầm
, người bị bắt mỉm cười rạng rỡ, lấy bàn tay che nắng, đáp lại, «ngài hãy công nhận rằng, có lẽ chỉ người nào treo nó lên thì mới có thể cắt đứt được nó mà thôi.»
„Thế, thế đấy
, Pilat mỉm cười nói
, bây giờ ta không nghi ngờ rằng bọn vô công rồi nghề ở Iersalaim đã đi theo ngươi sát gót. Ta không biết ai treo lưỡi [22] của nhà ngươi lên, nhưng treo khá đấy. Nhân thể, hãy nói ta nghe, có đúng là nhà ngươi đã cưỡi lừa đi vào thành Iersalaim qua cổng Suz [23] cùng với một đám dân đen hò hét chào mừng ngươi như một vị tiên tri không?„ nói đến đây quan tổng trấn chỉ vào cuộn giấy da cừu.
Người bị bắt ngơ ngác nhìn quan tổng trấn:
„Thưa ighemon, tôi không có con lừa nào cả
, anh ta đáp. „Ðúng là tôi vào Iersalaim qua cổng Suz nhưng đi bộ với một mình Levi Matvei thôi, và không ai kêu hét gì với tôi cả, vì lúc đó ở Iersalaim chưa có ai biết tôi.»
„Thế nhà ngươi có biết
, Pilat hỏi tiếp, mắt vẫn không rời người bị bắt, «những tên sau đây không: một tên là Dismas, một tên khác là Hestas, còn tên thứ ba là Var-ravvan?»
„Tôi không hề biết những con người nhân từ này
, kẻ bị bắt đáp.
„Thật chứ?»
„Thật ạ!»
„Còn bây giờ nhà ngươi hãy nói nghe, có phải bao giờ nhà ngươi cũng nói
những con người nhân từ
không? Tất cả mọi người nhà ngươi đều gọi như thế sao?»
„Tất cả
, kẻ bị bắt đáp, «những người ác không có ở trên đời.»
„Lần đầu tiên ta được nghe nói về điều đó đấy
, Pilat cười khẩy, nói, «nhưng, cũng có thể, ta biết đời còn quá ít! Có thể không phải ghi chép
, quan tổng trấn quay sang nói với tên thư ký, mặc dù gã này đã từ lâu không ghi chép lấy một lời nào, rồi ngài tiếp tục nói với người bị bắt: „Nhà ngươi đã đọc được điều đó trong một cuốn sách Hy Lạp nào à?»
„Không, tôi tự mình nghiệm ra điều đó.»
„Và nhà ngươi truyền giảng điều đó?»
„Vâng.»
„Thế nhưng, chẳng hạn tên kenturion Mark, người ta gọi hắn là Crưsoboi, cũng là người nhân từ à?»
„Vâng
, kẻ bị bắt đáp, «tuy nhiên, anh ta là một người bất hạnh. Từ khi anh ta bị những con người nhân từ làm cho tàn tật, anh ta trở nên dữ tợn và tàn nhẫn. Không biết ai đã làm tàn tật anh ta như vậy?»
„Ta sẵn lòng cho ngươi biết điều đó
, Pilat trả lời, «bởi vì chính ta đã chứng kiến việc ấy. Những người nhân từ xông vào hắn ta như một bầy chó săn xông vào con gấu. Bọn German bâu vào cổ, vào tay, vào chân hắn. Manipulus bộ binh bị rơi vào vòng vây và nếu như không có turma kỵ binh [24] do ta chỉ huy đánh thọc sườn vào, thì nhà ngươi, triết gia ạ, không có dịp để nói chuyện với Crưsoboi đâu. Ðó là trong trận Idistaviso [25] , ở thung lũng Trinh Nữ.»
„Nếu như tôi được nói chuyện với anh ta
, người bị bắt bỗng nói một cách mơ mộng,
thì tôi tin rằng anh ta sẽ thay đổi nhiều.»
„Ta cho rằng
, Pilat nói,
quan legat [26] của legio sẽ chẳng lấy gì làm vui mừng, nếu như nhà ngươi nghĩ đến việc nói chuyện với các sĩ quan hoặc binh lính của ông ta. Nhưng thật may là điều đó sẽ không xảy ra, và người đầu tiên lo cho việc ấy sẽ là ta.»
Vừa đúng lúc đó có một con chim én bay vụt vào dãy cột tròn của hàng hiên, lượn vòng dưới mái trần mạ vàng, sà xuống thấp đến nỗi đầu cánh nhọn suýt nữa quệt vào mặt của pho tượng đồng ở hốc khám trong tường, rồi mất hút sau đỉnh cột. Có thể, nó dự định sẽ làm tổ ở trên đó.
Vào khoảnh khắc con én bay, trong mái đầu giờ trở nên nhẹ nhõm và sáng sủa của quan tổng trấn đã kịp hình thành một quyết định. Nó như sau: ighemon đã xem xét vụ án nhà triết học đi chu du đây đó Iesua có biệt hiệu Ha-Notxri, và không tìm ra cấu thành tội phạm trong đó. Chẳng hạn, không thấy một mối liên hệ nhỏ nào giữa các hành động của Iesua và những vụ lộn xộn xảy ra ở Iersalaim cách đây không lâu. Nhà triết học lang thang là một người bị bệnh tâm thần. Vì vậy, quan tổng trấn không chuẩn y bản án tử hình Ha-Notxri do Hội đồng thượng thẩm của Giudea đệ trình lên. Nhưng xét thấy những câu nói điên dại không tưởng của Ha-Notxri có thể gây nên những xáo động ở Iersalaim, quan tổng trấn trục xuất Iesua ra khỏi Iersalaim và quản thúc tại Kesana St'ratonova [27] ở Ðịa Trung Hải, tức là chính ở nơi có dinh của quan tổng trấn.
Chỉ còn lại việc đọc cho tên thư ký ghi quyết định đó.
Con én vẫy cánh ngay sát trên đầu ighemon, rồi nó bay vụt ra đài phun nước và biến mất ngoài trời.
Quan tổng trấn ngước mắt lên nhìn người tù và thấy một cột bụi cháy đỏ cạnh anh ta.
„Ðã hết chưa?„ Pilat hỏi tên thư ký.
„Thưa, rất đáng tiếc là chưa ạ
, tên thư ký đột ngột đáp và trao cho Pilat một cuộn giấy cừu khác.
„Còn cái gì ở đấy nữa?„ Pilat hỏi và cau mày lại.
Ðọc xong mẩu giấy da cừu, nét mặt ngài càng thay đổi. Không biết có phải vì máu đen dồn lên cổ và mặt, hay có chuyện gì khác xảy ra, chỉ thấy da mặt ngài đã mất đi màu vàng tái, chuyển sang màu tím thẫm, còn đôi mắt như trũng sâu xuống.
Có lẽ vẫn là do máu, nó lại dồn lên thái dương và đập giần giật ở đó, nhưng có chuyện gì đấy đã xảy ra với đôi mắt của quan tổng trấn. Ngài có cảm tưởng như đầu của người bị bắt đã trôi tuột đi đâu mất, thay vào đó xuất hiện một cái đầu khác. Trên chiếc đầu hói này là vành mũ miện bằng vàng, răng thưa; trên trán có một nốt loét tròn ăn sâu vào da bôi thuốc cao; chiếc miệng móm không còn răng với vành môi dưới trễ xuống một cách đỏng đảnh. Pilat cảm thấy đã biến đi đâu mất những chiếc cột tròn màu hồng của ban công, những mái nhà của thành phố Iersalaim ở phía dưới xa sau khu vườn, và tất cả chung quanh chìm ngập trong màu xanh rậm rì của những khu vườn Kápreia. Và bên tai nghe vẳng lên một cái gì đó kỳ lạ, dường như từ một nơi nào rất xa vọng lại tiếng kèn đồng không to lắm nhưng đầy đe dọa và một giọng mũi ngạo mạn kéo dài những từ:
Luật trừng trị tội phạm thượng...
.
Trong đầu vụt lướt qua những ý nghĩ ngắn ngủi, rời rạc và khác thường:
Hắn ta chết rồi!
rồi tiếp đó:
Tất cả chết rồi...
và cùng với chúng là một ý nghĩ kỳ quái nào đó về sự bất tử nhất thiết cần phải xảy ra „với ai?„ nhưng không hiểu sao sự bất tử đó lại gợi nên một nỗi buồn không thể chịu đựng nổi.
Pilat tập trung ý chí, xua đuổi ảo giác, bắt ánh mắt nhìn trở lại ban công, và trước mặt ngài lại hiện ra đôi mắt của người bị bắt.
„Này Ha-Notxri, nghe đây
, quan tổng trấn cất tiếng, nhìn chằm chằm vào Iesua một cách lạnh lùng; vẻ mặt ngài đằng đằng sát khí, nhưng đôi mắt lại bồn chồn lo âu, «nhà ngươi có bao giờ nói về đức Hoàng Ðế [28] vĩ đại không? Trả lời đi? Có nói không?... Hay là... không... nói?„ Pilat kéo dài từ
không
, hơi dài hơn so với mức cần thiết ở trên phiên tòa xét xử, và trong ánh mắt gửi cho Iesua, dường như ngài muốn gợi lên trong đầu người bị bắt một ý nghĩ nào đó.
„Nói sự thật bao giờ cũng nhẹ nhõm và dễ chịu
, người bị bắt nhận xét.
„Ta không cần biết
, Pilat đáp lại bằng giọng dữ tợn cố nén lại, «là nhà ngươi dễ chịu hay không dễ chịu khi nói sự thật. Nhưng nhà ngươi buộc phải nói sự thật đó ra. Tuy nhiên khi nói hãy cân nhắc từng từ, nếu như nhà ngươi không muốn một cái chết không những không tránh khỏi mà còn đau đớn.»
Không ai biết có chuyện gì đã xảy ra với quan tổng trấn xứ Giudea, nhưng ngài cho phép mình giơ bàn tay lên làm như để che nắng, và từ phía sau bàn tay đó, như sau chiếc mộc chắn, ngài gửi cho người bị bắt một cái nhìn đầy hàm ý.
„Thế nào
, ngài nói, «trả lời đi, nhà ngươi có biết một tên Giuda nào đó ở Kiriaph [29] , và nhà ngươi đã nói gì với hắn, nếu như là có nói về đức Hoàng Ðế La Mã?»
„Sự thể như sau
, người kia bắt đầu kể một cách thích thú, «chiều ngày hôm kia, ở cạnh Ðền Thờ, tôi làm quen với một người tự xưng là Giuda quê ở thành phố Kiriaph. Anh ta mời tôi về nhà ở Hạ Thành [30] và giữ tôi lại thết cơm...»
„Một người nhân từ?„ Pilat hỏi, và một tia lửa quỷ quái lóe lên trong cặp mắt của ngài.
„Một người rất nhân từ và ham hiểu biết.„ người bị bắt khẳng định. „Anh ta tỏ ra hết sức quan tâm tới những suy nghĩ của tôi, đón tiếp tôi rất chu đáo...»
„Rồi thắp đèn lên [31] ...„ Pilat nói qua kẽ răng theo giọng của người bị bắt, đồng thời đôi mắt của ngài ánh lên lấp lánh.
„Vâng, đúng thế
, hơi ngạc nhiên trước việc quan tổng trấn đã biết điều đó, Iesua nói tiếp, «và đề nghị tôi nói ra những ý kiến về chính quyền nhà nước. Anh ta hết sức quan tâm đến vấn đề đó.»
„Thế nhà ngươi đã nói những gì?„ Pilat hỏi, hay là nhà ngươi sẽ trả lời rằng nhà ngươi đã quên mất mình đã nói những gì?„ nhưng trong giọng nói của Pilat đã cảm thấy vẻ thất vọng.
„Trong số những chuyện khác, tôi có nói rằng
, người bị bắt kể, «bất kể thứ quyền lực nào cũng là bạo lực đối với con người, và sẽ đến một lúc sẽ không còn quyền lực của các hoàng đế lẫn bất kỳ thứ quyền lực nào khác. Con người sẽ đến được vương quốc của sự thật và công lý, nơi nói chung sẽ không cần một quyền lực nào cả.»
„Tiếp đó?...»
„Tiếp đó không có gì cả
, người bị bắt nói, «vừa lúc đấy mọi người chạy vào, bắt trói tôi và dẫn vào ngục.»
Tên thư ký cố không bỏ sót một lời nào, ghi nhanh lên tấm giấy da cừu.
„Trên thế giới đã, đang và sẽ không bao giờ có một quyền lực nào vĩ đại và tuyệt vời đối với mọi người hơn là quyền lực của Hoàng Ðế Tiberi!„ giọng nói ốm yếu và đứt quãng của Pilat run lên.
Quan tổng trấn, không hiểu sao, với vẻ căm thù liếc nhìn tên thư ký và đội vệ tống.
„Và nhà ngươi, tên tội phạm điên rồ, không có quyền bàn luận về điều đó!„ Pilat quát lên. „Ðưa đội vệ tống ra khỏi ban công!„ Rồi quay lại phía tên thư ký, nói tiếp: „Ðể ta lại một mình với tên bị bắt này, đây là việc quốc gia đại sự.»
Ðội vệ tống nhấc những ngọn giáo lên, gõ những đôi giày bịt sắt, rời ban công bước xuống vườn; theo sau đội vệ tống là tên thư ký.
Trong một lúc lâu, sự im lặng trên ban công chỉ bị tiếng nước reo trong đài phun nước phá vỡ. Pilat nhìn thấy nước trào lên phía trên vòi phun thành hình một chiếc đĩa, mép của chiếc đĩa gãy vụn ra biến thành vô vàn dòng nước nhỏ.
Người bị bắt lên tiếng trước:
„Tôi thấy vì những điều tôi nói với chàng thanh niên quê ở Kiriaph này mà đã xảy ra một tai họa nào đó. Tôi linh cảm là, thưa ighemon, anh ta sẽ gặp một bất hạnh lớn, và tôi rất thương anh ta.»
„Ta nghĩ
, quan tổng trấn cười khẩy một cách lạ lùng, nói, «rằng trên đời còn có những kẻ đáng để nhà ngươi thương nhiều hơn là cái gã Giuda quê ở Kiriaph kia, và có những kẻ sẽ còn bất hạnh hơn hắn nhiều! Vậy thì, Mark Crưsoboi, một tên đao phủ lạnh lùng và trung thành, những người, mà như ta thấy
, quan tổng trấn chỉ vào khuôn mặt đầy thương tích của Iesua, «đã đánh nhà ngươi vì những lời thuyết giáo của ngươi, những tên cướp Dismas và Hestas cùng với đồng đảng đã giết chết bốn tên lính, và cuối cùng là tên phản bội Giuda bẩn thỉu, tất cả bọn chúng đều là những người nhân từ sao?»
„Vâng
, người bị bắt đáp.
„Và thời của vương quốc chân lý sẽ đến?»
„Vâng sẽ đến, thưa ighemon
, Iesua tin tưởng đáp lời.
„Nó sẽ không bao giờ đến cả!„ Pilat bỗng gầm lên bằng một giọng đáng sợ làm Iesua bất giác lùi lại, như nhiều năm trước đây trong thung lũng Trinh Nữ Pilat đã gầm lên với các kỵ sĩ của mình:
Chém hết chúng đi! Chém sạch! Tên khổng lồ Crưsoboi đã bị vây rồi!
Và bằng cái giọng đã khản đặc vì phải thường xuyên hô mệnh lệnh, ngài còn cao giọng hét thêm để dưới vườn có thể nghe thấy: „Quân tội phạm! Quân tội phạm! Quân tội phạm!»
Rồi, hạ thấp giọng, ngài hỏi:
„Iesua Ha-Notxri, nhà ngươi có tin vào những vị chúa nào đó không?»
„Chúa Trời chỉ có một
, Iesua đáp, «và tôi tin vào Người.»
„Thế thì nhà ngươi hãy cầu nguyện Chúa của nhà ngươi đi. Cầu nguyện thật thành tâm đi! Mà thực ra
, giọng Pilat đến đây như nghẹn lại, «điều đó cũng chẳng giúp được gì. Ngươi có vợ không?„ Chẳng hiểu sao Pilat rầu rĩ hỏi, tự mình không hiểu điều gì đang xảy ra với mình.
„Không, tôi chỉ có một mình.»
„Cái thành phố đáng ghét
, không hiểu vì sao quan tổng trấn lẩm bẩm, so vai lại như bị lạnh và cọ tay vào nhau như đang rửa chúng, «giá như người ta cắt cổ nhà ngươi trước khi nhà ngươi gặp tên Giuda quê ở Kiriaph thì có lẽ tốt hơn.»
„Thưa ighemon, ngài nên thả tôi ra
, người bị bắt bất chợt cất tiếng cầu xin, và giọng của anh ta trở nên lo lắng, «tôi thấy là người ta muốn giết tôi.»
Khuôn mặt Pilat méo đi vì những cơn co giật, ngài hướng cặp mắt nẩy lửa, lòng trắng vằn những mạch máu đỏ, về phía Iesua và nói:
„Nhà ngươi, đồ bất hạnh, cho rằng quan tổng trấn La Mã sẽ tha cho kẻ nói những điều mà nhà ngươi đã nói ư? Ôi, hỡi các thần linh! Hay là nhà ngươi nghĩ rằng ta sẵn sàng thay chỗ cho nhà ngươi? Ta không chia xẻ những ý nghĩ của nhà ngươi đâu! Và hãy nghe ta nói: nếu từ giây phút này nhà ngươi còn thốt lên dù chỉ một lời, bắt chuyện với ai đó, thì hãy coi chừng ta! Ta nhắc lại: hãy coi chừng!»
„Thưa ighemon...»
„Câm miệng!„ Pilat hét lên và đưa ánh mắt điên dại nhìn theo con chim én lại vừa chấp chới bay lên ban công. „Quân bay đâu?„ Pilat gọi lớn.
Khi tên thư ký và đội vệ tống quay trở lại chỗ của mình, Pilat tuyên bố rằng ngài duyệt y bản án mà phiên họp Hội đồng thượng thẩm đã thông qua „tử hình tên tội phạm Iesua Ha-Notxri.» Tên thư ký chép lại những lời của Pilat.
Một phút sau, Mark Crưsoboi đã đứng trước mặt quan tổng trấn. Pilat ra lệnh cho anh ta giao tội phạm cho viên chỉ huy đội đặc vụ, đồng thời truyền lại mệnh lệnh của quan tổng trấn cho giam Iesua Ha-Notxri tách khỏi những tội nhân khác, cấm những người trong đội đặc vụ trao đổi bất cứ chuyện gì hoặc trả lời bất cứ câu hỏi nào của Iesua, nếu trái lệnh sẽ bị trừng phạt nặng nề.
Theo hiệu lệnh của Mark, đội vệ tống quây kín xung quanh Iesua và dẫn anh ta xuống ban công.
Rồi sau đó trước mặt quan tổng trấn xuất hiện một người đàn ông thân hình cân đối, đẹp đẽ, râu màu vàng sáng, với những hình đầu sư tử lấp lánh trên ngực, những chiếc lông chim ưng gắn trên đỉnh mũ trụ, những tấm vàng dát trên đai đeo kiếm, đôi giày đế ba lớp quấn dây lên tận đầu gối, áo choàng đỏ thắm vắt ngang vai trái. Ðó là legat chỉ huy trưởng legio. Quan tổng trấn hỏi legat là kogort những người Sebasti [32] hiện nay đang ở đâu. Legat thông báo rằng họ đang vây quanh bãi trống trước trường đua ngựa, nơi sẽ tuyên cáo cho dân chúng biết về bản án đối với những tên tội phạm.
Quan tổng trấn liền ra lệnh cho legat điều từ kogort La Mã ra hai kenturia do Crưsoboi chỉ huy sẽ phải hộ tống những tội nhân và đoàn xe chở hình cụ cùng đao phủ lên Núi Trọc [33] , và khi đến nơi thì dàn thành vòng vây ở phía trên núi. Một kenturia khác ngay bây giờ phải đến Núi Trọc và lập tức phong tỏa toàn bộ khu vục. Cũng với mục đích đó, tức là để bảo vệ Núi Trọc, quan tổng trấn đề nghị legat phái thêm kỵ binh „một ala Siri» đến giúp sức.
Khi legat đã rời khỏi ban công, quan tổng trấn ra lệnh cho tên thư ký mời người đứng đầu Hội đồng thượng thẩm, hai thành viên của Hội đồng và chỉ huy đội cấm vệ của Ðền Thờ Iersalaim đến cung điện, đồng thời nói thêm rằng phải bố trí sao cho trước khi hội kiến với tất cả những người đó, ngài có thể nói chuyện tay đôi trước với người đứng đầu Hội đồng thượng thẩm.
Những mệnh lệnh của quan tổng trấn được thi hành nhanh chóng và chính xác; và khi mặt trời, trong những ngày đó thiêu đốt Iersalaim gay gắt khác thường, còn chưa kịp lên đến thiên đỉnh, thì trên hiên thượng của khu vườn cạnh hai con sư tử trắng bằng cẩm thạch đứng cạnh cầu thang, quan tổng trấn đã gặp người đứng đầu Hội đồng thượng thẩm, đại tư tế xứ Giudea Jozeph Kaipha [34] .
Trong vườn rất im ắng. Nhưng vừa rời khỏi hàng cột đi ra khoảng sân thượng lóa nắng của khu vườn với những cây cọ đứng trên những chân voi khổng lồ, từ đây quan tổng trấn trông rõ toàn bộ thành phố Iersalaim mà ngài căm ghét trải rộng với những cây cầu treo, pháo đài, và „cái chủ yếu nhất „một khối đá cẩm thạch không thể nào mô tả nổi với chiếc vảy rồng bằng vàng thay cho mái „Ðền Thờ Iersalaim
, thì bằng đôi tai tinh tường của mình, quan tổng trấn nghe thấy ở phía dưới xa, nơi bức tường đá ngăn cách dãy hiên dưới của khu vườn cung điện với quảng trường thành phố, tiếng ì ầm trầm trầm thỉnh thoảng xen lẫn những âm thanh khẽ khàng yếu ớt „không hẳn là tiếng kêu, mà cũng không hẳn là tiếng rên.
Quan tổng trấn hiểu rằng ở đó, trên quảng trường, đã tập trung lại một đám đông rất lớn những người dân Iersalaim bị kích động bởi các vụ lộn xộn xảy ra trong thời gian gần đây, và đám đông này đang nóng lòng đợi nghe lời tuyên cáo bản án, còn những tiếng kêu kia là của những người bán nước rong đang chạy đi chạy lại khắp nơi.
Quan tổng trấn bắt đầu bằng việc mời viên đại tư tế ghé vào ban công để tránh cái nóng dữ dội, nhưng Kaipha xin lỗi một cách lịch thiệp, và giải thích rằng không thể làm như thế được vào ngày hôm trước của tuần đại lễ Vượt Qua [35] . Pilat đội chiếc mũ trùm lên mái đầu đã chớm hói của mình và bắt đầu câu chuyện. Cuộc nói chuyện này diễn ra bằng tiếng Hy Lạp.
Pilat nói rằng ngài đã xem xét vụ án Iesua Ha-Notxri và đã duyệt y bản án tử hình.
Như vậy, trong cuộc hành hình sắp phải diễn ra hôm nay sẽ có ba tên kẻ cướp bị xử treo: Dismas, Hestas, Var-ravvan, và ngoài ra, cả tên Iesua Ha-Notxri này nữa. Hai tên đầu mưu toan xúi giục dân chúng chống lại Hoàng Ðế La Mã, bị binh lính La Mã vây đánh bắt được, là thuộc quyền quan tổng trấn, và như thế có nghĩa ở đây sẽ không phải bàn đến. Còn hai tên sau, Var-ravvan và Ha-Notxri, bị chính quyền bản xứ bắt và Hội đồng thượng thẩm xử. Theo luật pháp và tục lệ, một trong hai tên này sẽ được ân xá nhân dịp đại lễ Vượt Qua đến đúng vào ngày hôm nay.
Vì vậy, quan tổng trấn muốn biết là trong số hai tội nhân, Hội đồng thượng thẩm định tha tên nào: Var-ravvan hay Ha-Notxri? Kaipha nghiêng đầu tỏ ý đã hiểu rõ câu hỏi và đáp:
„Hội đồng thượng thẩm xin tha cho tên Var-ravvan.
Quan tổng trấn biết trước rất rõ rằng viên đại tư tế sẽ trả lời đúng như thế, nhưng ngài lại muốn tỏ ra rằng câu trả lời như vậy làm ngài rất ngạc nhiên.
Pilat đã làm điều đó một cách vô cùng khéo léo. Cặp lông mày trên khuôn mặt ngạo mạn nhướn lên, quan tổng trấn nhìn thẳng vào mặt viên đại tư tế với vẻ kinh ngạc:
„Thú thật là ta sửng sốt trước câu trả lời như vậy! „Quan tổng trấn nhẹ nhàng cất tiếng. „Ta e rằng ở đây có sự nhầm lẫn chăng?
Pilat nói rõ ý kiến của mình. Chính quyền La Mã không hề can thiệp chút nào vào quyền lực của chính quyền tăng lữ bản xứ, điều đó ngài đại tư tế phải biết rất rõ, nhưng trong trường hợp này rõ ràng là có sai lầm. Và chính quyền La Mã, tất nhiên, quan tâm đến việc sửa chữa sai lầm đó.
Quả vậy, các tội của Var-ravvan và Ha-Notxri không thể so sánh với nhau về mức độ nặng nhẹ. Nếu như tên thứ hai, rõ ràng là một kẻ điên, có tội đã nói những lời vô nghĩa làm rối loạn dân chúng ở Iersalaim và một vài chỗ khác, thì tên thứ nhất phạm tội nặng hơn nhiều. Hắn không chỉ tung ra những lời trực tiếp xúi giục nổi loạn, mà còn giết chết binh sĩ khi hắn bị vây bắt. Tên Var-ravvan nguy hiểm hơn Ha-Notxri.
Vì tất cả những điều đó, quan tổng trấn đề nghị ngài đại tư tế xét lại quyết định và thả tên ít nguy hiểm hơn trong số hai tên bị kết án, mà tên đó, hoàn toàn không có gì phải nghi ngờ, là Ha-Notxri.
„Vậy thì?...
Kaipha nhìn thẳng vào mắt Pilat và nói bằng giọng khe khẽ nhưng cứng rắn, rằng Hội đồng thượng thẩm đã xem xét tỉ mỉ vụ án và lần thứ hai thông báo rằng vẫn dự định tha tên Var-ravvan.
„Sao? Thậm chí cả sau khi ta đã có ý kiến như vậy? Cái ý kiến của người thay mặt chính quyền La Mã? Ngài đại tư tế, hãy nhắc lại lần thứ ba.
„Và lần thứ ba chúng tôi thông báo là chúng tôi xin thả tên Var-ravvan.„ Kaipha nói khẽ.
Tất cả thế là hết, và không còn gì để nói thêm nữa. Ha-Notxri đã đi khỏi vĩnh viễn, và không còn ai để chữa những cơn đau đầu dữ dội, khủng khiếp của quan tổng trấn; không còn cách nào để thoát khỏi chúng, ngoài cái chết. Nhưng không phải ý nghĩ đó bây giờ làm Pilat sửng sốt. Một nỗi buồn khó hiểu, mà lúc nãy đã xuất hiện trên ban công, chợt bao trùm lấy toàn bộ tâm hồn ngài. Ngài lập tức cố tìm cách giải thích nó, và lời giải thích thật lạ lùng: quan tổng trấn mơ hồ cảm thấy rằng có một cái gì đó ngài chưa nói hết với người bị kết án, hay cũng có thể, còn chưa nghe hết một điều gì đấy.
Pilat xua đuổi ý nghĩ đó đi, và nó vụt bay mất trong khoảnh khắc, cũng như lúc đến. Nó đã bay mất, nhưng nỗi buồn vẫn còn lại không được giải thích, bởi vì nó cũng không thể được giải thích bởi một ý nghĩ khác, rất ngắn, vụt lóe lên như tia chớp, rồi lại tắt ngay:
Bất tử... Sự bất tử đã đến...
Sự bất tử của ai? Ðiều này quan tổng trấn không hiểu nổi, nhưng ý nghĩ về sự bất tử bí hiểm đó làm ngài chợt cảm thấy lạnh người đi dưới làn ánh nắng gay gắt.
„Thôi được
, Pilat nói,
mọi việc sẽ y như thế.
Nói đến đấy quan tổng trấn đưa mắt nhìn quanh, ánh mắt trùm lên cái thế giới ngài nhìn thấy được, và ngài ngạc nhiên trước sự thay đổi vừa diễn ra. Ðã biến mất bụi hồng nặng trĩu hoa, đã biến mất những cây trắc bá diệp mọc bao quanh hàng hiên thượng, đã biến mất cả cây lựu, cả bức tượng trắng trong khu vườn, cả khu vườn xanh rờn cây lá. Thay vào đó là một khối đậm đặc có màu đỏ rực trôi bồng bềnh, trong đó những chùm tảo đang chuyển động đi đâu đấy và cùng với chúng là chính Pilat [36] . Giờ đây ngài đang bị một cơn giận dữ khủng khiếp nhất „cơn giận dữ của sự bất lực„ bóp nghẹt, thiêu đốt tâm can mà mang đi.
„Khó chịu quá.„ Pilat thốt lên. „Ta khó chịu quá!
Bàn tay ẩm ướt và lạnh ngắt của Pilat giật mạnh chiếc khóa trên cổ tấm áo choàng, và nó rơi xuống cát.
„Hôm nay trời oi thật, ở đâu đó đang có cơn giông
, Kaipha đáp, không rời mắt khỏi khuôn mặt đỏ bừng của quan tổng trấn và thấy trước tất cả những điều khốn khổ sẽ còn đến.
Ôi, năm nay cái tháng Nisan sao mà kinh khủng thế!
„Không phải
, Pilat nói
, đây không phải là do trời oi nực đâu, mà ta khó chịu với nhà ngươi đấy, Kaipha ạ
, nheo cặp mắt lại thành một khe hẹp, Pilat cười nhạt rồi nói thêm: „Coi chừng, hãy giữ lấy mình, hỡi ngài đại tư tế!
Cặp mắt tối sẫm của đại tư tế chợt lóe lên, và không hề kém quan tổng trấn lúc nãy một chút nào, ông ta để lộ ra trên khuôn mặt mình một vẻ kinh ngạc.
„Tôi vừa nghe thấy cái gì đây, thưa quan trấn?„ Kaipha kiêu hãnh và bình thản nói. „Ngài đe dọa tôi sau cái bản án do chính ngài duyệt y ư? Ðiều đó là có thể được sao? Chúng tôi đã quen với việc quan tổng trấn La Mã cân nhắc từng lời trước khi nói ra một điều gì đấy. Thưa ighemon, không có ai nghe thấy chúng ta đấy chứ ạ?
Pilat nhìn ngài đại tư tế bằng cặp mắt chết lặng và nhe răng tạo ra một nụ cười.
„Ngươi nói gì thế, đại tư tế? Ai có thể nghe thấy chúng ta ở đây? Chẳng lẽ ta lại giống cái gã lang thang trẻ tuổi hôm nay sẽ bị treo cổ sao? Ta là con nít ư, Kaipha? Ta biết ta nói gì và nói ở đâu chứ. Cả khu vườn đã được canh phòng, cung điện cũng được canh phòng đến không còn một khe hở nào để chuột nhắt có thể lọt qua! Mà không chỉ chuột, thậm chí đến cả cái tên, cái tên... quê ở Kiriaph ấy, cũng không qua được! Mà này, đại tư tế, ngươi có biết hắn không? Ðúng... nếu một kẻ như hắn lọt được vào đây, hắn sẽ phải đau khổ mà tiếc cho mình, điều này thì ngươi tin ta chứ? Vậy thì nhà ngươi, đại tư tế, hãy biết rằng từ nay nhà ngươi sẽ không được yên ổn mà sống đâu. Cả ngươi, cả dân chúng của nhà ngươi
, và Pilat đưa tay chỉ về phía xa bên tay phải, nơi ngôi đền đang bốc lửa trên đồi cao, «đấy là ta nói với ngươi, ta Ponti Pilat, kỵ sĩ Ngọn Giáo Vàng.»
„Tôi biết, tôi biết
, Kaipha với bộ râu đen rậm đáp lời không hề sợ hãi, và cặp mắt của ông ta long lên. Ông ta giơ một tay lên trời, nói tiếp: „Dân chúng Giudea biết rằng ngài căm thù họ bằng một lòng căm thù tàn bạo và ngài sẽ mang lại cho họ nhiều tai họa đau khổ, nhưng ngài sẽ không giết chết hết được họ đâu. Ðức Chúa Trời sẽ che chở họ. Ðức Hoàng Ðế toàn năng sẽ nghe thấy chúng tôi, sẽ che chở chúng tôi khỏi bàn tay của Pilat nguy hại!»
„Ồ, không đâu!„ Pilat thốt lên, và cùng với mỗi lời nói ra, ngài càng cảm thấy nhẹ nhõm hơn: không cần phải giả vờ, không cần phải dè dặt chọn lời nữa. „Nhà ngươi đã kêu ca với Hoàng Ðế quá nhiều về ta, và bây giờ đến lượt ta, Kaipha ạ! Bây giờ ta sẽ gửi tín thư đi, mà không phải cho quan thống đốc ở Antiokhia [37] và cũng không phải về La Mã, mà thẳng tới Kapreia cho chính Hoàng Ðế, trình báo rằng nhà ngươi đã che giấu những tên phiến loạn hiển nhiên ở Iersalaim khỏi cái chết như thế nào. Và lúc đó ta sẽ cho thành Iersalaim uống không phải nước hồ Solomon như ta đã muốn vì lợi ích của các ngươi [38] . Không, không phải nước! Hãy nhớ lại, ta đã vì các ngươi mà phải gỡ từ trên tường xuống các tấm khiên khắc chữ kết của Hoàng Ðế, đã điều binh khiển tướng, đã phải thân chinh, như các ngươi thấy đấy, đến tận nơi đây để xem chuyện gì đang xảy ra với các ngươi. Ðại tư tế, hãy nhớ lấy lời ta! Nhà ngươi sẽ được trông thấy ở Iersalaim không chỉ một kogort, ồ không! Ðến dưới chân thành này sẽ có cả toàn bộ legio Phulminato [39] , sẽ đến cả đoàn kỵ binh ả Rập, và lúc đó ngươi sẽ nghe thấy những tiếng kêu than khóc lóc cay đắng! Lúc đó nhà ngươi hãy nhớ tới tên Var-ravvan được cứu sống và sẽ phải hối hận vì đã bắt nhà triết học với những lời truyền giảng hòa bình phải chết!»
Khuôn mặt đại tư tế nổi lên những chấm đỏ, đôi mắt bốc lửa. Ông ta, cũng hệt như quan tổng trấn, nhe răng, mỉm cười và đáp:
„Thưa quan tổng trấn, ngài có tin vào những điều ngài vừa nói ra không đấy? Không, ngài không tin! Kẻ quyến rũ dân chúng kia không mang hòa bình đến cho chúng tôi ở Iersalaim, và ngài, thưa ngài kỵ tướng, ngài hiểu rất rõ điều đó. Ngài muốn thả hắn ra là để hắn xúi giục dân chúng, lăng nhục đức tin, và đẩy dân chúng vào dưới lưỡi gươm La Mã! Nhưng tôi, đại tư tế của nước Giudea, chừng nào còn sống tôi sẽ không để cho đức tin bị lăng nhục và sẽ bảo vệ dân chúng! Ngài nghe thấy không, hỡi Pilat?„ Nói đến đây, Kaipha với vẻ đe dọa giơ tay lên trời: „Hãy lắng nghe, hỡi quan tổng trấn!»
Kaipha dừng lời, và quan tổng trấn lại nghe như có tiếng sóng biển ì ầm lăn đến tận chân tường của khu vườn Herod Ðại Ðế. Tiếng động đó từ phía dưới nổi lên dội vào chân và vào mặt quan tổng trấn. Còn sau lưng, phía sau hai cánh hiên của cung điện, nghe vẳng đến những tiếng kèn hiệu bồn chồn, tiếng rầm rập của hàng trăm bước chân, tiếng thép khua loảng xoảng, và quan tổng trấn hiểu rằng theo lệnh của ngài đoàn bộ binh La Mã đã bắt đầu cho bọn phiến loạn và bọn trộm cướp diễu hành trước lúc chết.
„Ngài có nghe thấy không, thưa ngài tổng trấn?„đại tư tế khẽ nhắc lại. „Chẳng lẽ ngài lại sẽ còn nói với tôi rằng
, đến đây đại tư tế giơ cả hai tay lên trời, và chiếc mũ trùm màu thẫm tuột xuống khỏi đầu Kaipha, «tất cả những cái này là do một tên kẻ cướp thảm hại Var-ravvan gây nên sao?»
Quan tổng trấn đưa mu bàn tay lau mảng trán lạnh và ẩm ướt, nhìn xuống đất, rồi lại nheo mắt nhìn lên trời. Thấy quả cầu lửa đã gần như treo thẳng phía trên mái đầu ngài, và bóng của Kaipha co lại chỉ còn một tí ở đuôi con sư tử đá, ngài nói khẽ và thản nhiên:
„Sắp trưa rồi. Chúng ta mải nói chuyện mà việc thì còn phải làm tiếp.»
Sau khi xin lỗi viên đại tư tế bằng những câu lịch sự, Pilat mời ông ta ngồi vào chiếc ghế dài dưới bóng râm của cây mộc liên, đợi ngài gọi những người khác cần cho cuộc thương nghị ngắn gọn cuối cùng và ra thêm một mệnh lệnh cho việc chuẩn bị hành hình.
Kaipha lễ phép nghiêng mình, áp một bàn tay lên ngực trái và ở lại trong khu vườn, còn Pilat trở lên ban công. Ở đó ngài ra lệnh cho tên thư ký mời xuống vườn quan legat chỉ huy legio, quan tribunus [40] chỉ huy kogort cùng với hai thành viên của Hội đồng thượng thẩm và quan chỉ huy đội cấm vệ đang đứng chờ lệnh gọi trong ngôi đình tạ hình tròn có đài phun nước ở dãy hàng hiên dưới phía bên kia của khu vườn. Pilat còn nói thêm rằng chính ngài sẽ ra ngay bây giờ, rồi đi sâu vào phía trong cung điện.
Trong khi tên thư ký đang đi mời những người đến dự cuộc thương nghị, tại căn phòng được những tấm màn vải đen che tối quan tổng trấn đã có cuộc hội kiến với một người nào đó, khuôn mặt của người này bị chiếc mũ trùm che kín một nửa, mặc dù trong căn phòng những tia nắng mặt trời không thể quấy rầy anh ta được. Cuộc hội kiến diễn ra hết sức ngắn gọn. Quan tổng trấn nói khẽ với người nọ vài lời, sau đó anh ta đi ngay, còn Pilat theo lối hàng hiên có dãy cột tròn bước ra vườn.
Ở đó, trước mặt tất cả những ai ngài muốn gặp, quan tổng trấn trịnh trọng và lạnh lùng khẳng định rằng ngài chuẩn y bản án tử hình Iesua Ha-Notxri, và chính thức hỏi ý kiến các thành viên của Hội đồng thượng thẩm là họ muốn tha mạng sống cho ai trong số các tội phạm. Nhận được câu trả lời rằng kẻ đó là Var-ravvan, quan tổng trấn nói:
„Rất tốt
, và ngài ra lệnh cho tên thư ký ghi ngay điều đó vào biên bản; rồi nắm chặt trong bàn tay chiếc khóa móc cổ áo được tên thư ký nhặt từ cát lên, ngài trịnh trọng nói: „Bắt đầu!»
Lập tức tất cả những người có mặt rời chỗ bước xuống phía dưới theo chiếc cầu thang rộng bằng đá hoa cương giữa những bức tường hoa hồng tỏa hương ngây ngất; họ đi xuống mỗi lúc một thấp hơn đến bên bức tường của cung điện, về phía cổng dẫn ra một quảng trường lớn đầm phẳng lì, phía cuối quảng trường hiện lên những dãy cột và những bức tượng của sân vận động Ieresalaim.
Chỉ đến khi cả đoàn người đã rời khỏi khu vườn ra đến quảng trường, leo lên chiếc bệ đài bằng đá rộng lớn nổi cao trên đó, Pilat, nhìn qua cặp mi mắt nheo hẹp, mới nắm hiểu được toàn bộ tình hình. Cái khoảng không gian mà ngài vừa mới vượt qua, từ bức tường của cung điện đến bệ đài, thì trống không; còn ở phía trước mặt mình Pilat không trông thấy mặt đá quảng trường ở đâu nữa, nó đã bị đám đông dân chúng ken đặc che lấp. Ðám đông có lẽ đã tràn lên cả bệ đài, cả khoảng không gian trống sau lưng kia, nếu như không có ba hàng lính Sebasti ở bên trái và lính của kogort Itureia [41] tăng cường ở phía bên phải Pilat ngăn giữ.
Rồi Pilat leo lên bệ đài, bóp chặt một cách máy móc trong nắm tay chiếc khóa móc cổ áo giờ chẳng cần để làm gì, và nheo mắt nhìn. Quan tổng trấn nheo mắt không phải vì bị chói nắng, không phải thế! Ngài, không hiểu sao, lại không muốn nhìn thấy đám tù nhân, mà ngài biết rất rõ là ngay bây giờ sẽ được chở ra theo và đưa lên bệ đài.
Tấm áo choàng trắng lót vải đỏ tía vừa mới xuất hiện trên bệ đá cạnh biển người, lập tức một đợt sóng âm thanh đập dồn vào tai Pilat:
Ha-a-a...
Nảy sinh ra ở một nơi nào đó phía xa cạnh trường đua ngựa, đợt sóng âm bắt đầu không lớn lắm, nó rền lên như sấm, kéo dài mấy giây, rồi lắng xuống dần.
Dân chúng đã trông thấy ta
, quan tổng trấn nghĩ thầm. Ðợt sóng chưa giảm xuống đến điểm thấp nhất, thì đột nhiên nó lại dâng lên, ngả nghiêng, chao đảo, cao hơn cả đợt sóng thứ nhất. Và như bọt nước sôi lên trên đỉnh con sóng biển bạc đầu, trên đợt sóng thứ hai này cũng sôi lên những tiếng huýt gió và những tiếng rú của phụ nữ nghe rõ qua tiếng ầm ầm như sấm.
Ðó là chúng bị đưa lên bệ đài...„ Pilat nghĩ thầm, «còn tiếng rú là vì một số phụ nữ bị đè bẹp khi đám đông dồn về phía trước
.
Ngài đứng yên một lúc chờ đợi, vì biết rằng không có sức mạnh nào có thể bắt đám người kia im tiếng cho đến khi nó chưa phát tán ra ngoài hết những gì tích dồn lại bên trong nó và chưa tự mình ngừng lặng.
Và khi cái khoảnh khắc đó đã đến, quan tổng trấn vung cánh tay phải lên cao, lập tức những tiếng ồn cuối cùng tan biến.
Liền đó Pilat lấy hết sức hít vào đầy lồng ngực mình làn không khí nóng rẫy rồi hét lớn, giọng nói lạc đi của ngài lướt bay trên hàng nghìn mái đầu:
„Thừa mệnh Hoàng Ðế vĩ đại!»
Ngay lúc đó quân lính trong các kogort vung thẳng những mũi giáo lên trời và hét lên dữ dội, tiếng hét như những đợt sóng đập vào màng tai quan tổng trấn:
„Hoàng Ðế vạn tuế!»
Pilat ngửa mái đầu lên nhìn thẳng vào mặt trời. Dưới hàng mi trong mắt ngài loé lên một ánh lửa xanh, nó đốt cháy não, và những lời nói khản đặc bằng tiếng Aramei bay ra trên đám đông:
„Bốn tên tội phạm bị bắt ở Iersalaim vì tội giết người, xúi giục nổi loạn, lăng miệt pháp luật và tín ngưỡng, đã bị kết án ô nhục ‘treo cổ’! Bản án này sẽ được thực hiện ngay bây giờ ở Núi Trọc! Họ tên của bốn tên bị kết tội là Dismas, Hestas, Var-ravvan và Ha-Notxri. Bọn chúng đang ở kia!»
Pilat giơ bàn tay chỉ về bên phải, tuy không nhìn thấy một phạm nhân nào, nhưng ngài biết rằng chúng đang đứng ở đó, nơi chúng phải đứng.
Ðám đông dân chúng đáp lại bằng một đợt sóng ồn ào kéo dài có vẻ như ngạc nhiên hoặc nhẹ nhõm.
Khi tiếng ồn đã lắng xuống, Pilat nói tiếp:
„Nhưng trong số bốn tên chỉ có ba tên sẽ bị hành hình, bởi vì theo pháp luật và tục lệ, nhân ngày lễ Vượt Qua, một tên trong số những tên đã bị kết án tử hình, theo sự lựa chọn của Hội đồng thượng thẩm bản hạt và sự duyệt y của chính quyền La Mã, sẽ được đức Hoàng Ðế nhân từ ban mạng sống!»
Pilat hét to từng từ, đồng thời lắng nghe tiếng ồn ào lắng xuống dần, rồi thay vào đó là một sự im lặng hoàn toàn. Bây giờ không còn nghe vẳng đến một tiếng sột soạt hay tiếng thở mạnh nào, thậm chí có một khoảnh khắc Pilat cảm thấy như tất cả xung quanh đã vụt biến mất. Thành phố mà ngài căm ghét chết lặng, chỉ còn một mình ngài đứng đó, dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, mặt hướng thẳng lên trời cao. Pilat lắng nghe sự im lặng thêm một lúc, rồi hét lớn:
„Tên của kẻ bây giờ sẽ được ân xá là... »
Ngài ngừng lại thêm một lát, chưa nói ngay họ tên kẻ được tha, kiểm tra xem tất cả những điều cần thiết đã được nói hết chưa, vì ngài biết rằng cái thành phố chết lặng kia sẽ sống lại sau khi tên của kẻ may phúc được nói ra, và tiếp theo sẽ không ai còn nghe được thêm một từ nào nữa.
Xong cả chưa?„ Pilat thì thầm với mình không thành tiếng. „Xong cả rồi. Tên ấy là...
Và ném phụ âm
r
ra như một tràng sấm xuống thành phố đang câm lặng, ngài gầm lên:
„Var-ravvan!»
Nói vừa dứt lời, Pilat tưởng chừng như mặt trời chợt ngân lên, kêu loảng xoảng, nổ tung ra và rót lửa vào hai tai ngài. Trong ngọn lửa đó sôi sục những tiếng gào thét, tiếng rên rỉ, tiếng reo cười, tiếng rú rít.
Pilat quay ngược bước theo bệ đài đi trở lại phía bậc thềm lên xuống, mắt không nhìn bất cứ một vật gì khác ngoài những viên đá lát nhiều màu dưới chân để khỏi sảy bước. Ngài biết rằng, giờ đây sau lưng ngài, những quả chà là, những đồng tiền đồng đang bay như mưa lên bệ đài, và trong đám đông gào hét kia mọi người chen lấn nhau, leo lên vai nhau để mong tự mắt mình nhìn thấy điều kỳ diệu cái người vừa mới đây còn nằm trong móng vuốt thần chết giờ đã thoát ra khỏi. Những tên lính legio cởi dây trói trên người hắn xuống, vô tình gây cho hắn những cơn đau nhức nhối trên cánh tay đã trật khớp vì bị trói trong lúc hỏi cung; và hắn, vừa nhăn nhó, vừa rên rỉ, vẫn mỉm một nụ cười vô nghĩa và mất trí.
Ngài biết rằng cũng vào lúc này đoàn vệ tống đang dẫn ba tên lĩnh án tử hình bị trói chặt đi xuống bậc thềm đá ở hai bên bệ đài để dẫn chúng ra con đường chạy về phía Tây đến Núi Trọc. Vừa bước xuống khỏi bệ đài ra phía sau, Pilat liền mở to mắt, vì ngài biết rằng giờ đây ngài đã được an toàn „ngài không thể nào còn trông thấy ba tên tội phạm kia nữa.
Hòa vào tiếng ồn ào đã bắt đầu lắng xuống của đám đông, giờ lại vang lên rất rõ những tiếng rao lanh lảnh của bọn mõ tòa đang lặp lại bằng tiếng Aramei và tiếng Hy Lạp tất cả những gì quan tổng trấn vừa mới tuyên cáo trên bệ đài. Thêm vào đó, tai ngài còn nghe vẳng đến tiếng vó ngựa phi rầm rập đang đến gần và tiếng kèn đồng nổi lên từng hồi ngắn gọn và vui vẻ. Ðáp lại những âm thanh đó là tiếng huýt gió chói tai của đám trẻ con ngồi trên các mái nhà của dãy phố chạy từ chợ ra trường đua ngựa và những tiếng hét
Tránh ra!
.
Một người lính, cầm thẻ hiệu trong tay đứng một mình trên khoảng trống của quảng trường, lo lắng giơ tấm thẻ lên vẫy vẫy, và lúc đó quan tổng trấn, legat chỉ huy legio, tên thư ký và đoàn vệ tống mới dừng lại.
Một ala kỵ binh phi nước kiệu mỗi lúc một nhanh hơn, thúc ngựa phóng như bay ra quảng trường, cắt chéo góc, vòng tránh qua đám đông dân chúng, rồi theo lối ngõ hẹp dưới bức tường đá phủ đầy những giàn nho, chạy theo con đường ngắn nhất thẳng đến Núi Trọc.
Viên chỉ huy ala kỵ binh, người Siri, vóc dáng bé nhỏ như một cậu thiếu niên và da đen như người lai, khi phi nước kiệu ngang qua chỗ Pilat đứng, hét lên lanh lảnh một câu gì đó và rút thanh kiếm ra khỏi vỏ. Con ngựa ô dữ tợn ướt đẫm mồ hôi nhảy lồng lên quay ngang sang bên. Tra mạnh thanh kiếm vào vỏ, viên chỉ huy quất một roi lên cổ ngựa, bắt nó quay về hướng cũ và phóng nước đại vào lối ngõ hẹp. Theo sau là đoàn kỵ binh phi hàng ba trong lớp bụi mù mịt, những mũi giáo nhẹ bằng tre dập dờn, những khuôn mặt trông có vẻ càng đen thẫm hơn dưới lớp khăn quấn đầu rìu trắng toát với bộ răng lấp lánh nhe ra vui vẻ lần lượt diễu qua trước mặt quan tổng trấn.
Cuốn bụi bốc lên tận trời, ala kỵ binh xông vào lối ngõ nhỏ, và tên lính cuối cùng với chiếc kèn đồng sáng loáng dưới ánh mặt trời đeo sau lưng đã phóng qua trước mặt quan tổng trấn Pilat.
Ðưa bàn tay lên che bụi và cáu kỉnh nhăn mặt, Pilat bước đi tiếp, về phía cổng khu vườn của cung điện; theo sau ngài là legat, tên thư ký và đoàn vệ tống.
Lúc đó là vào khoảng mười giờ sáng.
[1]Tháng Nisan: khoảng cuối tháng Ba, đầu tháng Tư Dương lịch, tháng có lễ Vượt Qua.
[2]Quan tổng trấn: dịch chữ Latinh Procurator „viên quan dưới thời Đế quốc La Mã thay mặt Hoàng Đế (Caesar) cai trị một xứ lớn. Trong lần in (bản tiếng Việt) trước, chức này được dịch là quan toàn quyền, nay xin sửa lại. Ponti Pilat (không rõ năm sinh và năm mất): quan tổng trấn của La Mã ở Giudea từ năm 26 đến năm 36 sau Công nguyên, khét tiếng tàn bạo. Theo truyền thuyết Thiên Chúa giáo, chính Ponti Pilat đã ra lệnh hành hình Giesu. Nhân vật này được nhắc đến nhiều trong văn học thế giới. Xem thêm các sách Phúc Âm tiểu thuyết Và hòn đá ấy đã trở thành Đấng Cứu Thế của S. Otero... Tên Pilat có lẽ có gốc từ Latinh pilom „ngọn giáo.
[3]Herod Đại Đế (74-4 trước Công nguyên): vua Giudea, người chiếm được ngai vàng nhờ sự trợ giúp của quân La Mã. Theo truyền thuyết của đạo Thiên Chúa, ông ta được ghi là đã tàn sát trẻ con khi có tin về sự ra đời của Chúa Giesu, ông ta cũng là người đã xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở Jerusalem. Giudea là một lãnh thổ ở phía Nam Palestin, trước kia đã từng là vương quốc độc lập, từ năm 6 là một tỉnh của La Mã. Trung tâm là thành Jerusalem.
[4]Sau đây là các đơn vị chính trong quân đội La Mã (theo phiên âm Latinh): legio „đơn vị tổ chức chiến thuật chính của quân đội La Mã, chia ra thành mười kogort. Một kogort gồm từ ba trăm sáu mươi đến sáu trăm lính, chia thành ba manipulut. Một manipulut chia làm hai kenturia. Một kenturia lúc đầu gồm một trăm người (một bách), sau có thay đổi. Chỉ huy kenturia là kenturion, còn cơ thể dịch là bách trưởng.
[5]Tác giả cố ý gọi trệch tên thành phố Jerusalem, thủ phủ xứ Giudea, theo một cách phiên âm khác ra tiếng Nga.
[6]Hemikrania: chứng đau nửa đầu.
[7]Giấy da cừu: thời bấy giờ chưa có giấy viết như ngày nay, phải dùng da cừu làm giấy, cũng như ở Trung Quốc xưa dùng thẻ
tre.
[8]Galile: trước là một tỉnh ở Bắc Palestin, theo Phúc Âm là nơi giảng đạo chính của Giesu Christ.
[9]Tiểu vương: ở đây chỉ Herod Antipa, con Herod Đại Đế, giữ chức tetrarch, tiếng Hi Lạp nghĩa là
người cai trị một phần tư xứ
(thời đó Palestin bị chia làm bốn phần nhỏ).
[10]Hội đồng thượng thẩm: dịch từ chữ
Sinedron
, tiếng Hi Lạp có nghĩa là Hội đồng, Tòa án tối cao, cơ quan chính trị và luật pháp cao nhất ở Giudea hoạt động dưới sự kiểm soát của quan tổng trấn La Mã.
[11]Tiếng Aramei: ngôn ngữ chính của người Palestin thời đó.
[12]Đền Thờ: ở đây là ngôi đền chính của đạo Do Thái ở Jerusalem, lần đầu tiên do vua Solomon xây, sau nhiều lần bị phá hủy và được Herod Đại Đế xây lại.
[13]Crưsoboi: tiếng Nga có nghĩa là người đánh chuột, săn chuột.
[14]Ighemon: tiếng Hy Lạp có nghĩa là người đứng đầu, thủ lĩnh (như đại vương, đại nhân...).
[15]Iesua Ha-Notxri: một cách phiên âm khác của tên Giesu. Iesua trong tiếng Aramei có nghĩa là Đức Chúa „Sự cứu vớt; Ha-Notxri có nghĩa là
quê ở Nazaret
. Nazaret là thành phố quê của Giesu.
[16]Levi Matvei: theo truyền thuyết, là một trong những môn đồ của Giesu Christ, tác giả của sách Phúc âm của thánh Matvei (hay Mathêu).
[17]Viphaghia: một làng nhỏ ở Palestin, hiện không còn dấu tích.
[18]Mặt trời Iersalaim buổi sớm nắng gắt: lưu ý tính biểu tượng của mặt trời và mặt trăng trong tiểu thuyết của Bulgakov. Có nhà nghiên cứu đã thống kê trong cuốn tiểu thuyết của Nghệ Nhân (về Iesua và Ponti Pilat), mặt trời được nhắc đến 26 lần khi diễn ra bi kịch (cuộc hỏi cung, hành hình...), mặt trăng được nhắc đến 13 lần khi bi kịch đã kết thúc. Trong phần nói về Nghệ Nhân, mặt trăng được nói đến 68 lần, còn mặt trời chỉ 18 lần (chủ yếu liên quan tới các sự kiện thần bí).
[19]Chân lý là cái gì: trong tiếng Nga, từ истина có thể dịch là
chân lý
hoặc
sự thật
, hai từ này trong tiếng Việt có những trường hợp đồng nghĩa hoàn toàn, nhưng cũng có khi mang các sắc thái nghĩa khác nhau (xin lưu ý đến điều này khi đọc đoạn đối thoại giữa Pilat và Iesua). Đây chính là câu Pilat hỏi Giesu được ghi lại trong Tân Ước (Sách Phúc âm của thánh Joan, 18, 28).
[20]Núi Eleon: ngọn núi nằm ở phía Đông thành Jerusalem, thường được nhắc tới trong Tân Ước. Theo truyền thuyết, chính trên ngọn núi đó Giesu Christ hiển thánh sau khi bị hành hình trên cây thập giá.
[21] ... Thầy thuốc chứ: lưu ý liên tưởng: theo Tân Ước, Giesu có phép màu chữa bệnh và tiên tri.
[22]Treo lưỡi: ở đây tác giả chơi chữ. Nghĩa thành ngữ tiếng Nga
lưỡi được treo rất khá
có nghĩa là có tài ăn nói, hùng biện.
[23]Cổng Suz: cửa thành ở bức tường phía Đông, đối diện với núi Eleon (còn gọi là Cổng Vàng). Theo Tân Ước, Chúa Christ cưỡi lừa vào thành Jerusalem qua cổng Suz và được dân chúng reo hò chào đón.
[24]Turma kỵ binh: một bộ phận của eskadron trong quân đội La Mã. Dưới thời đế chế, kỵ binh tách ra khỏi thành phần của legio và chủ yếu gồm những người không phải dân La Mã. Một turma bằng 1/10 ala. Một ala lúc đầu gồm 300 kỵ sĩ, sau lên đến 500, 1000 người.
[25]Idistaviso: (tiếng Latinh nghĩa là Trinh Nữ): thung lũng, nơi diễn ra trận đánh giữa quân đội La Mã với người German ở hữu ngạn sông Veser vào năm 16. German: một chủng người Ấn „Âu.
[26]Quan legat: thời cổ từ legat có 2 nghĩa: a) quan toàn quyền ở địa phương (thí dụ quan tổng trấn xứ Giudea trực thuộc legat Siri); b) chức chỉ huy, đội trưởng.
[27]Kesaria St'ratonova: thành phố ven biển ở phía Tây Bắc thành Jerusalem, nơi đóng dinh của các quan tổng trấn La Mã ở Giudea.
[28]Hoàng Đế: ở đây dịch chữ Kesar (Sezar, Caesar) vốn là họ của Juli Caeser, về sau dùng để chỉ các hoàng đế La Mã nói chung. Đoạn này nói về bạo chúa Klavdi Neron Tiberi (năm 42 trước C.N „37), từ năm 26 dời đến ở đảo Kapreia trong vịnh Neapolitan. Những năm cuối đời, bị bệnh tật hành hạ, Tiberi trở nên tàn bạo, dùng
luật trừng trị tội phạm thượng
tàn sát rất nhiều người.
[29]Giuda ở Kiriaph: theo Tân Ước, Giuda là một trong mười hai tông đồ của Chúa Giesu, đã phản Chúa để lấy ba mươi đồng bạc.
[30]Hạ Thành: tức phần Đông Nam của Jerusalem, ngăn cách với Thượng Thành bởi một bức tường.
[31]... thắp đèn lên: theo quy định thời đó, đèn được thắp lên để những kẻ làm chứng ẩn kín có thể nhìn rõ mặt người phạm tội.
[32]Sebasti: một trung tâm thương mại ở Tiểu Á.
[33]Núi Trọc: tức Golgotha (tiếng Do Thái nghĩa là sọ dừa). Theo Kinh Thánh, Giesu bị hành hình ở núi này.
[34]Joseph Kaipha: đại tư tế xứ Giudea, nhân vật lịch sử, được nhắc đến trong Tân Ước, cuồng tín, gian giảo, kỳ thị tôn giáo.
[35]Đại lễ Vượt Qua: hội lễ mùa xuân của đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa. Trong đạo Do Thái, lễ Vượt Qua được tổ chức để kỷ niệm ngày
đưa
dân Do Thái ra khỏi Ai Cập và chờ đợi Đấng Cứu Thế xuất hiện. Trong đạo Thiên Chúa, ngày hội này gọi là lễ Phục Sinh và gắn liền với huyền thoại về việc Chúa sống lại. Ngày lễ được tổ chức vào chủ nhật đầu tiên sau ngày có đêm và ngày dài bằng nhau và ngày rằm (tiến hành vào thời kỳ từ 22 tháng Ba đến 25 tháng Tư theo lịch cũ).
[36]Theo truyền thuyết, về sau Pilat chết đuối. Đây là một cảnh thần bí, Pilat nhìn thấy trước cái chết của mình.
[37]Antiokhia: thành phố ở Oronta thủ phủ của Siri, nơi đóng dinh của quan toàn quyền La Mã ở địa phương.
[38]Hồ Solomon: mấy chiếc hồ chứa nước cách Jerusalem chừng 25 km, người La Mã dự định dẫn nước từ hồ này về cung cấp cho thành phố Jerusalem.
[39]Legio Phulminato: (tiếng Latinh): legio Tia Chớp.
[40]Tribunus (tiếng Latinh): tên chỉ các chức chỉ huy ở La Mã cổ đại, ở đây là chỉ huy kogort.
[41]Itureia: một vùng núi ở phía Bắc Palestin.