Chương 1
-
Người Cuối Cùng Của Bộ Tộc Mohican
- James Fenimore Cooper
- 4814 chữ
- 2020-01-30 01:00:06
Nguyên tác: The last of the Mohicans
Dịch giả: Trương Đắc Vỵ
NXB Văn Học
Nguồn: diendanlequydon
Chớ ghét tôi vì màu da của tôi,
Bộ chế phục đen bóng ánh mặt trời.[1]
Tai ta mở to và tim ta đã sẵn sàng;
Tin dữ nhất ngươi mang đến cũng chỉ là tổn thất nhỏ nhặt.
Nói đi, phải chăng vương quốc ta đã mất?[2]
• SHAKESPEARE
Một đặc điểm của những cuộc chiến tranh thuộc địa ở Bắc Mỹ là các bên đối phương, trước khi giáp mặt, phải đương đầu với những gian lao nguy hiểm của một vùng hoang dã. Một dải rừng biên giới bao la, bề ngoài như thể bất khả xâm phạm, ngăn cách các thuộc địa của hai nước thù địch Pháp và Anh.
Những người khẩn hoang[3] gan dạ cùng những lính Âu thiện chiến sát cánh bên họ, thường phải mất hàng tháng trời vật lộn với những thác nước hoặc vượt qua những đèo hiểm trở để tìm cơ hội phô bày lòng can đảm trong một cuộc chiến đấu có tính võ dũng hơn. Nhưng, noi gương kiên nhẫn và hy sinh của các chiến binh thổ dân lão luyện, họ đã học được cách vượt qua mọi khó khăn; và dường như cùng với thời gian, không một nơi thâm sơn cùng cốc nào có thể tự cho là thoát khỏi sự xâm nhập của những người đã nguyện đem xương máu để rửa thù hoặc để duy trì chính sách tàn nhẫn và ích kỷ của các bậc vua chúa bên trời Âu xa xôi.
Trên khắp dải biên giới bao la ấy, có lẽ không nơi nào có thể cung cấp một bức tranh sinh động về sự tàn ác khốc liệt của cuộc chiến tranh man rợ thời đó hơn khu vực nằm giữa thượng nguồn sông Hudson và những hồ nước lân cận.
Nơi đây, thiên nhiên đã tạo cho việc hành quân của các chiến binh những thuận lợi quá rõ rệt khiến họ không thể bỏ qua. Hồ Champlain[4] trải dài từ biên giới Canada và ăn sâu vào địa phận bang New York kế cận, hình thành một lối đi thiên tạo trên một nửa quãng đường quân Pháp bắt buộc phải chiếm được để đánh kẻ địch. Gần cuối phía Nam hồ Champlain có một hồ khác chảy vào: nước hồ này trong đến nỗi đã được các nhà truyền giáo dòng Tên đặc biệt chọn để làm lễ rửa tội và xin đặt tên cho nó là hồ
Thánh Lễ
. Những người Anh kém mộ đạo hơn nghĩ rằng họ đã làm vinh dự cho dòng nước trong vắt khi lấy tên hoàng tử đương vị, ông hoàng thứ hai dòng họ Hanover để đặt tên cho hồ này. Các nhà truyền giáo và người Anh đã liên kết lại để tước đoạt của những chủ nhân ngờ nghệch vùng rừng rú này cái quyền tự nhiên được duy trì tên gốc của hồ là
Horican
[5].
Lượn khúc giữa vô vàn hòn đảo, núi non bao bọc xung quanh,
hồ thiêng liêng
chạy dài thêm mười hai dặm về phía Nam. Tới đây có một cao nguyên chặn đứng dòng nước lại. Bắt đầu một cuộc chuyên chở đường bộ cũng trên chừng ấy dặm đưa nhà thám hiểm tới bờ sông Hudson; từ quãng này, thuyền bè đi lại được theo nước triều, trừ những khúc có thác nước ngăn cản - gọi theo danh từ địa phương là kẽ nứt.
Để thực hiện những kế hoạch quấy rối táo bạo, với một tinh thần gan dạ không mệt mỏi, người Pháp dám vượt cả những đèo xa xôi và hiểm trở của rặng núi Alleghany[6]; cho nên ta có thể dễ dàng hình dung được rằng sự sắc sảo nổi tiếng xưa nay của họ sẽ không bỏ qua những thuận lợi thiên nhiên của miền đất mà chúng tôi vừa tả ở trên. Nơi đây thật sự đã trở thành một võ trường đẫm máu diễn ra hầu hết những cuộc giao tranh giành quyền bá chủ các thuộc địa. Đồn lũy được dựng lên tại những điểm trấn ngự mạch máu giao thông, bị chiếm đi chiếm lại, bị phá trụi rồi lại được dựng lên mỗi khi chiến thắng ngời sáng trên lá cờ đối phương. Trong khi người nông phu phải chùn bước trước những đèo hiểm trở và rút vào các phần đất an toàn hơn của những vùng định cư cũ thì những đạo quân lớn hơn cả những đạo quân đã từng lật đổ ngai vàng ở mẫu quốc, dấn mình trong rừng sâu để hãn hữu có trở về thì chỉ còn cái khung, quân tướng phờ phạc vì lo âu, chán nản vì bại trận.
Tuy miền đất oan nghiệt này không hề biết tới nghệ thuật hòa bình, các khu rừng vẫn nhộn nhịp bóng người; đường đi lối lại và các thung lũng vang lên khúc quân nhạc, núi non vọng về tiếng cười hoặc tiếng hò reo nghịch ngợm của các chàng trai dũng cảm, táo bạo khi họ băng mình lao qua với niềm hưng phấn tràn đầy để rồi thiếp ngủ trong đêm dài của quên lãng.
Chính trong khung cảnh giao tranh đổ máu ấy đã diễn ra những sự kiện mà chúng tôi muốn kể lại sau đây. Khi ấy đã là năm thứ ba cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp nhằm chiếm một xứ sở mà không bên nào giữ được.
Sự ngu xuẩn của những người chỉ huy quân sự ở ngoài nước cộng với sự thiếu kiên quyết của các hội đồng trong nước đã hạ thấp thanh danh của nước Anh, một nước từng giữ một địa vị cao nhờ tài năng và trí can trường của các tướng lĩnh và chính khách trước đây. Không còn được kẻ thù khiếp sợ, chẳng bao lâu những người phụng sự cho nước đó mất cả lòng tự tin và tự trọng. Tuy bản thân không chịu trách nhiệm về sự ngu xuẩn này, và lại quá thấp hèn để có thể gây nên những sai lầm cho nước Anh, những người khẩn hoang đương nhiên đã phải chịu đựng lây sự suy sụp nhục nhã đó. Mới gần đây, họ chứng kiến một đạo quân tinh nhuệ của nước Anh mà họ sùng kính như mẹ đẻ và tin một cách mù quáng là vô địch, một đạo quân đứng đầu là một vị tướng[7] đã được lựa chọn trong đám những nhà cầm quân lão luyện vì thiên tài quân sự hiếm có của ông - bị một dúm người Pháp và người da đỏ đánh cho thất điên bát đảo. Và đạo quân đó chỉ thoát khỏi sự tiêu diệt nhờ tinh thần bình tĩnh và quả cảm của một thanh niên xứ Virginia. Từ đó, uy danh của chàng trai này ngày một lẫy lừng và được truyền tụng với ảnh hưởng mạnh mẽ của sự thật tinh thần, tới những biên giới tận cùng của các nước theo đạo Thiên Chúa[8].
Sau cuộc thua trận bất ngờ này, một dải biên giới bao la bị bỏ trống và trước những tai họa lớn hơn sẽ đến, người ta tưởng tượng ra hàng ngàn hiểm nguy quái dị. Những người khẩn hoang hốt hoảng tưởng như đã nghe thấy tiếng gào thét của giống người dã man lẫn trong từng cơn gió từ những khoảng rừng vô tận phía Tây thổi về. Tính chất khủng khiếp của kẻ thù tàn bạo của họ làm tăng vô hạn độ những sự việc rùng rợn thường xảy ra trong chiến tranh. Những cuộc tàn sát nhiều vô kể mới gần đây hãy còn in sâu trong ký ức họ; khắp trong vùng, người nào nặng tai đến đâu cũng phải chăm chú lắng nghe kể một vài chuyện hãi hùng về những vụ giết chóc giữa đêm khuya mà những người thổ dân là vai chính dã man. Trong khi người khách du hành cả tin sôi nổi kể lại những chuyện may rủi ở nơi rừng rú hoang vu, máu của những kẻ nhát gan đông cứng vì khiếp sợ, và tuy đang sống giữa những thành phố an toàn, các bà mẹ cũng phải đưa cặp mắt lo âu nhìn con mình đang ngủ. Nói tóm lại, ảnh hưởng ngày một tăng của sự sợ hãi bắt đầu làm lu mờ những toan tính của lý trí và biến những con người lẽ ra phải giữ nhân cách của mình thành nô lệ của những dục vọng thấp hèn nhất. Ngay cả những người can đảm và tự tin nhất cũng đâm ra hoài nghi kết quả cuộc chiến đấu; đám người hèn hạ này ngày một tăng, và theo họ nghĩ thì rồi ra tất cả những thuộc địa của Anh hoàng tại châu Mỹ sẽ bị những kẻ thù theo đạo Cơ Đốc chiếm đoạt hoặc bị những đồng minh tàn bạo của những kẻ đó kéo đến tàn phá.
Bởi vậy khi pháo đài bảo vệ phần cực Nam con đường bộ chuyên chở từ sông Hudson tới vùng hồ nhận được tin báo là tướng Montcalm[9] đang đi ngược hồ Champlain với một đạo quân
đông như lá trên cây
, mọi người đều nghĩ là thật, nhưng với một sự miễn cưỡng hãi hùng của kẻ hèn nhát hơn là với niềm vui thích khắc khổ mà một chiến binh cảm nhận khi thấy quân thù đã trong tầm bắn của mình. Tin đó do một liên lạc viên da đỏ mang tới vào lúc xế chiều một ngày hè, cùng với một yêu cầu khẩn cấp của Munro, chỉ huy một pháo đài ở bên bờ
hồ thiêng liêng
, xin gửi cấp tốc một lực lượng tiếp viện hùng hậu. Ở trên đã nói hai vị trí này cách xa nhau không tới năm dặm. Con đường thô sơ trước kia dùng liên lạc giữa hai vị trí đã được mở rộng cho xe cộ đi lại; cho nên, quãng đường mà người con của núi rừng vừa vượt qua trong hai tiếng đồng hồ, một đơn vị đủ quân trang quân dụng cần thiết có thể dễ dàng đi qua trong khoảng thời gian mặt trời mọc và lặn của một ngày hè. Những bầy tôi trung thành của vua nước Anh đã lấy tên hai ông hoàng được triều đình đương vị sủng ái để đặt tên cho hai pháo đài nằm giữa chốn rừng sâu này là William Henry và Edward. Người quân nhân kỳ cựu xứ Scotland vừa nói ở trên chỉ huy pháo đài thứ nhất cùng với một trung đoàn quân chính quy và một số ít quân địa phương, một lực lượng quả là nhỏ bé để chống lại quân lực khủng khiếp mà tướng Montcalm dẫn tới chân những chiến lũy đất. Nhưng tại pháo đài Edward có tướng Webb, chỉ huy quân đội nhà vua tại các tỉnh phía Bắc, với một đạo quân trên năm ngàn người. Nếu tập trung lại tất cả những đơn vị thuộc quyền chỉ huy của mình, tướng Webb có thể tung ra một số quân gần gấp đôi để đối chọi với viên tướng Pháp táo bạo dám đi quá xa những căn cứ tiếp viện với số quân sĩ chỉ đông hơn chút ít.
Nhưng do ảnh hưởng của những sự việc không may, cả quân lẫn lính tỏ ra chỉ muốn nằm lì trong công sự chờ đối thủ lợi hại của họ tới chứ không chịu xông ra chặn bước tiến của kẻ địch để giáng một đòn ngay trên đường tiến quân của chúng, noi gương tốt đẹp của quân Pháp tại pháo đài Quesne.
Khi những phút kinh hoàng ban đầu đã dịu đi đôi chút, trong khắp các đồn lũy trải dài trên bờ sông Hudson, tạo thành một dãy công sự phụ bảo vệ pháo đài chính, có tin truyền đi là một cánh quân gồm một ngàn rưỡi người đã được tuyển lựa để sáng sớm hôm sau đi tăng viện cho pháo đài William Henry, vị trí nằm ở phía cực Bắc con đường chuyên chở. Thoạt tiên còn là tin đồn, nhưng khi có lệnh từ bản doanh của tổng chỉ huy gửi cho các đơn vị đã được chỉ định đi làm nhiệm vụ phải chuẩn bị cấp tốc lên đường thì tin đó đã thành sự thật. Mọi nghi ngờ về ý đồ của tướng Webb đã tiêu tan. Trong khoảng một hai tiếng đồng hồ, binh lính chạy hối hả, nét mặt lo âu. Những anh lính mới chạy loăng quăng, sốt sắng quá mức, cuống quýt, khiến cho công việc chuẩn bị của chính họ bị chậm lại; đám kỳ cựu thành thạo hơn thu xếp hành trang một cách từ tốn, không biểu lộ một cử chỉ vội vàng nào; tuy nhiên, nét mặt trầm tư và cặp mắt lo lắng của họ cũng đủ nói lên rằng họ không cảm thấy một thích thú nghề nghiệp gì lớn đối với một cuộc chiến tranh khủng khiếp trong rừng mà họ chưa được thử thách. Mặt trời lặn trong một vùng hào quang chói lọi sau những ngọn núi xa xa phía Tây; màn đêm bao phủ chốn cô tịch, và tiếng người sửa soạn hành lý thưa dần; ánh đèn cuối cùng trong căn lều gỗ của viên sĩ quan nào đó cũng đã tắt, bóng cây in thẫm lên các chiến lũy và trên dòng sông gợn sóng; doanh trại im ắng như tờ, im ắng như cánh rừng bao la vây bọc lấy nó.
Theo lệnh đêm trước, khi bình minh in hình những cây thông cao vút và xù xì trên nền trời phía Đông rực sáng, êm ả và không gợn áng mây, tiếng trống hiệu nổi lên dồn vang khắp các nẻo rừng, trong không khí ẩm ướt ban mai, khiến binh lính bừng tỉnh khỏi giấc ngủ nặng nề. Lát sau, cả doanh trại trở nên nhộn nhịp; anh lính kém cỏi nhất cũng đã rời nơi trú ẩn để chứng kiến đồng đội lên đường, chia sẻ không khí sôi động và tham gia vào những sự kiện của buổi xuất quân. Chẳng bao lâu, hàng ngũ của đoàn quân được phái đi đã tề chỉnh. Trong khi những người lính chính quy do nhà vua tuyển mộ kiêu hãnh bước sang bên phải hàng quân, những người khẩn hoang khiêm tốn hơn đứng vào vị trí hèn kém của mình ở phía trái với một vẻ phục tùng do được rèn luyện lâu ngày. Trinh sát viên lên đường trước, kế tiếp là một lực lượng hùng hậu đi bảo vệ phía trước và phía sau đoàn xe ì ạch chở đồ quân dụng; và trước khi những tia nắng mặt trời làm dịu ánh sáng mờ xám ban mai, bộ phận binh mã chủ chốt trùng trùng kéo đi, rời khỏi doanh trại với một tư thế hùng dũng, dẹp tan những lo lắng thầm kín của một số lính mới lần đầu xuất trận. Chừng nào đồng đội còn đứng nhìn đầy thán phục, họ giữ vẻ hiên ngang, hàng ngũ tề chỉnh, cho tới khi tiếng sáo xa dần. Rồi rừng rú hiện ra nuốt chửng khối người đang chậm chạp tiến vào.
Đoàn quân đã khuất xa và, trong hơi gió thoảng về, người ta không còn nghe thấy tiếng chuyển động nặng nề của nó; anh lính chậm chân nhất cũng đã mất hút trong khi đuổi theo đơn vị; nhưng trước một căn nhà gỗ to và khang trang hơn các nhà khác, trước cửa có lính gác đi đi lại lại để bảo vệ viên tướng Anh, thấy có dấu hiệu một cuộc xuất phát khác. Tại đây tập trung sáu con ngựa; những bộ yên cương cho thấy ít nhất cũng có hai con dành riêng để mang những phụ nữ quý phái thường ít gặp trong chốn thâm sơn này. Con thứ ba đeo yên cương và vũ khí của một sĩ quan tham mưu; ba con còn lại, với những tấm vải mộc trên lưng và hành lý chất đầy, rõ ràng để cho ba người theo hầu đã túc trực tại đó chờ lệnh của chủ nhân. Cách nơi diễn ra cảnh tượng khác thường này chừng một quãng vừa phải có mấy tốp người vô công rồi nghề tụ tập; người thì trầm trồ khen con chiến mã đầy sinh khí là giống ngựa nòi, kẻ đứng xem cuộc chuẩn bị với vẻ ngạc nhiên đần độn của thói tò mò thô lỗ. Tuy nhiên có một người có nét mặt và cử chỉ khác hẳn loại khán giả kia, không nhàn rỗi và lại có vẻ như biết ít nhiều về cuộc xuất phát này.
Con người anh ta nom vụng về đến tột bậc tuy không đui què mẻ sứt chút nào. Cũng đủ đầu mình chân tay như ai, nhưng thiếu hẳn cân đối. Khi đứng, thân hình anh cao vượt hẳn mọi người, lúc ngồi lại chỉ bằng người bình thường. Sự thiếu cân đối này còn thể hiện trên toàn thân. Đầu thì to, hai vai hẹp, cánh tay dài lòng thòng, bàn tay nhỏ nếu không phải là mềm mại. Chân và đùi gầy guộc khẳng khiu nhưng lại dài quá khổ; đầu gối có thể nói là to một cách khủng khiếp nếu như không có đôi bàn chân còn to hơn phải mang vác một kiến trúc thượng tầng dị dạng gồm những bộ phận con người được ghép lại một cách cẩu thả. Cách ăn mặc nhố nhăng và luộm thuộm càng làm nổi bật sự vụng về của anh ta: áo vest xanh da trời, vạt ngắn rộng, cùng chiếc áo choàng chật ních để lộ một cái cổ dài ngẳng và đôi cẳng còn dài ngẳng hơn, trở thành mục tiêu cho những kẻ ác khẩu hết lời chê bai. Quần bằng trúc bâu màu vàng bó chặt lấy người, ở đầu gối tết những nút to tướng bằng ruy băng trắng nhờ nhờ vì dùng lâu ngày. Đôi bít tất sợi và đôi giày (một chiếc còn đinh thúc ngựa bằng sắt mạ) bổ sung cho bộ y phục hết sức nghèo nàn của nhân vật này. Không biết do tính khoe khoang hay giản dị, anh ta không che giấu một đường cong góc cạnh nào trên người mà còn cố tình phơi bày ra. Có một vật gì thò đầu ra khỏi miệng túi to tướng của tấm áo lấm láp bằng lụa nổi viền nhiều đăng ten bằng bạc xỉn màu; trong khung cảnh võ biền này, người ta dễ nhầm đó là một thứ vũ khí lợi hại và mới lạ nào. Tuy nhỏ bé, cái vật khác thường ấy cũng đã gợi trí tò mò hầu hết những người Âu trong doanh trại mặc dù người ta đã thấy nhiều dân địa phương sử dụng nó một cách rất quen thuộc không chút sợ hãi. Một chiếc mũ ba góc không vành, giống loại mũ các giáo sĩ vẫn đội trong ba chục năm trở lại đây, chụp lên toàn thân khiến cho gương mặt hiền hậu và có phần ngơ ngác của anh đượm một vẻ trang nghiêm; hiển nhiên chiếc mũ là một hỗ trợ nhân tạo cần thiết đối với trọng trách cao cả và phi thường mà anh ta phải gánh vác.
Trong khi đám đông đứng cách xa để tỏ lòng kính trọng hành dinh của tướng Webb, nhân vật vừa tả trên đây hiên ngang đi đi lại lại giữa những bọn người hầu và tự do khen chê những đặc tính của mấy con ngựa mà anh nhận xét là hay hay dở. Tiếng nói của anh có một âm thanh đặc biệt êm ái dịu dàng, cũng đặc biệt như những kích thước hiếm có của thân hình anh vậy, anh nói:
Này anh bạn, tôi dám kết luận rằng con vật này không phải nuôi ở đây mà từ nước ngoài đưa vào, có lẽ ngay từ hòn đảo nhỏ bé ở bên kia biển xanh. Tôi có thể phát ngôn về những vấn đề này mà không sợ mang tiếng khoác lác vì tôi đã từng tới cả hai hải cảng, một ở cửa sông Thames và được đặt theo tên của thủ đô nước Anh cổ, và một nơi nữa gọi là Haven có gắn thêm chữ
Tân
; và mắt tôi đã trông thấy những thuyền buồm và tàu biển chất đầy súc vật - như chất lên con thuyền của Noah[10] - nhổ neo đi tới đảo Jamaica để buôn bán trao đổi loài vật bốn chân; nhưng tôi chưa hề thấy có con vật nào phù hợp với lời miêu tả con chiến mã trong Thánh kinh như con này: ‘Nó đập vó xuống thung lũng và tự hào về sức mạnh của mình; nó lao tới các chiến binh. Nó hí vang giữa tiếng kèn vang dội và nó đã đánh hơi thấy chiến trận, tiếng thét như sấm của quân tướng và những tiếng hò reo.’ Tưởng đâu giống ngựa của Israel được truyền tới tận thời đại của chúng ta, phải không, anh bạn?
Không thấy ai đáp lại bài diễn văn hùng hồn của mình (quả thật nó đã được diễn tả với tất cả khí lực của một giọng nói to khỏe đáng được chú ý), nhân vật vừa sử dụng ngôn ngữ của Thánh kinh bèn quay về phía con người câm lặng mà anh không chủ tâm đối thoại thì lại thấy một cảnh tượng khác còn đáng ngạc nhiên hơn cả con ngựa đã thu hút sự chú ý của anh. Đôi mắt anh bắt gặp bóng hình lầm lũi, thẳng tắp và khắc khổ của
người liên lạc Anh điêng
đã mang những tin chẳng lành tới doanh trại chiều hôm trước. Tuy đang trong trạng thái hoàn toàn nghỉ ngơi, và bề ngoài có một vẻ nghiêm nghị khác thường như không quan tâm tới cảnh nhộn nhịp xung quanh, nét mặt dữ tợn lầm lì xen lẫn vẻ bình tĩnh của con người man dã ấy đáng để cho một người dày kinh nghiệm chú ý tới hơn là anh chàng đang chăm chú nhìn y bằng đôi mắt biểu lộ một sự kinh ngạc rõ rệt. Người thổ dân này đeo cả rìu trận và dao của bộ lạc, nhưng nhìn chung, không ra dáng một chiến binh. Trái lại, người y phờ phạc như vừa phải làm một việc gì nặng nhọc, sức lực chưa hồi phục. Màu sơn của những nét chiến họa hòa lẫn vẻ dữ dằn khiến cho khuôn mặt ngăm đen của y có một vẻ man rợ gớm ghiếc, tưởng đâu do tình cờ mà nghệ thuật tạo ra được một ấn tượng như vậy. Riêng đôi mắt sáng như những vì sao rực lửa giữa đám mây đen, biểu lộ tính chất man rợ của con người. Trong giây lát, cặp mắt soi mói nhưng kín đáo của y bắt gặp đôi mắt kinh ngạc của nhân vật đang ngắm y. Rồi, phần vì xảo quyệt phần vì khinh miệt, y quay mặt sang phía khác nhìn chằm chằm lên trời như muốn xuyên thủng không trung.
Thật khó có thể nói cuộc giao tiếp ngắn ngủi và lặng lẽ giữa hai nhân vật kỳ lạ như vậy sẽ làm cho người da trắng có nhận xét gì nếu như giữa lúc đó không có những sự việc khác thu hút tính hiếu kỳ của anh ta. Sự hoạt động của đám gia nhân và âm thanh nhở nhẹ của những tiếng nói dịu dàng báo hiệu rằng những nhân vật người ta đang chờ xem khởi hành đã tới. Anh chàng lúc nãy khen con chiến mã giờ đây đi lại chỗ con ngựa cái nhỏ bé, gầy còm, đuôi ve vẩy, đang điềm nhiên gặm cỏ úa gần đó; anh ta tì một khuỷu tay lên tấm chăn dạ thay thế cho yên ngựa và đứng xem cuộc khởi hành trong khi ở phía sườn bên kia con ngựa cái có một chú ngựa con đang thản nhiên điểm tâm bữa sáng.
Một thanh niên mặc quân phục sĩ quan dẫn hai thiếu nữ đến chỗ mấy con ngựa của họ; trông cách ăn mặc của hai cô cũng đủ biết họ đã được chuẩn bị đối phó với những khó nhọc của một chuyến đi rừng. Cả hai đều trẻ; cô nhỏ tuổi hơn đeo một tấm mạng màu xanh rủ từ trên mũ xuống; gió ban mai thổi tạt tấm mạng sang một bên, thoáng để lộ nước da trắng ngần, mớ tóc vàng óng và đôi mắt xanh long lanh. Sắc hồng còn vương trên những cây thông phía trời Tây cũng không rực rỡ và mịn màng hơn đôi má hồng tươi của nàng, và ánh bình minh cũng không tươi sáng hơn nụ cười rạng rỡ nàng tặng cho người sĩ quan trẻ khi anh đỡ nàng lên yên. Thiếu nữ thứ hai cũng được viên sĩ quan chăm sóc như cô em; nàng khéo léo che mạng không để cho quân lính ngắm nhìn dung nhan, tỏ ra là một người từng trải hơn em bốn, năm tuổi. Thân hình nàng cũng rất cân đối và không bị trang phục đường trường làm mất một nét duyên dáng nào, song, so với cô em, trông nàng già dặn và chín chắn hơn.
Hai thiếu nữ vừa ngồi lên ngựa xong thì chàng sĩ quan cùng đi nhẹ nhàng nhảy lên lưng con chiến mã; cả ba người cúi chào tướng Webb lịch sự đứng tiễn họ trên thềm nhà, rồi quay ngựa lại cho phi nước kiệu về phía cổng Bắc của doanh trại, theo sau là đám tùy tùng. Trên đoạn đường ngắn đó, không ai nói câu nào, chỉ có thiếu nữ trẻ tuổi hơn bỗng thốt lên một tiếng kêu khẽ khi người liên lạc da đỏ thình lình lướt bên nàng, vượt lên để dẫn đầu trên đường hành quân. Hành động đột ngột của người da đỏ không làm cô chị thốt lên tiếng kêu nào nhưng, trong cơn kinh ngạc, nàng đã vén tấm mạng lên để lộ một vẻ vừa thương hại vừa kinh tởm thật khó tả, trong khi đôi mắt đen láy của nàng nhìn theo những động tác nhanh nhẹn của con người man rợ nọ. Tóc nàng óng mượt và đen nhánh. Nước da nàng không nâu mà mang đầy màu sắc một dòng máu dồi dào, tràn ngập sức sống. Tuy nhiên trên khuôn mặt cân đối, trang nghiêm và kiều diễm lạ thường, không tìm ra một nét thô thiển, kém thanh tú. Nàng nhếch miệng cười như tự trách mình đã thiếu ý tứ để lộ hàm răng trắng muốt khiến cho những miếng ngà đẹp nhất cũng phải hổ thẹn; rồi nàng che lại tấm mạng, cúi mặt lặng lẽ cưỡi ngựa như một người không quan tâm tới cảnh vật xung quanh.
Chú thích:
[1] Người lái buôn thành Venice (hồi 2, cảnh I) của William Shakespeare (1564 - 1616).
[2] Richard II (hồi 3, cảnh hai) của William Shakespeare.
[3] Họ là những người Anh hoặc Pháp di cư sang Bắc Mỹ để khai hoang lập nghiệp.
[4] Đông - Bắc nước Mỹ, dài 125 dặm, nằm giữa hai bang Vermont và New York, mang tên nhà thám hiểm Pháp Champlain, người sáng lập và thống đốc đầu tiên các thuộc địa Pháp ở Canada.
[5] Người dân da đỏ thường đặt những tên có tính miêu tả. Horican có nghĩa là
cái đuôi của hồ
, tên địa lý là hồ George.
[6] Dãy núi này cắt ngang thuộc địa Anh nằm trên bờ Đại Tây Dương và thuộc địa Pháp ở phía Tây, sâu trong lục địa.
[7] Tướng Edward Braddock, chết trong một trận giao chiến với quân Pháp năm 1755.
[8] Chàng trai này chính là George Washington, và sau chỉ huy quân đội Mỹ chống lại nước Anh và trở thành tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên (1732 - 1799).
[9] Hầu tước Montcalm chỉ huy đạo quân Pháp ở Bắc Mỹ từ năm 1755 tới 1759, chết trận tại Quebec, Canada.
[10] Theo Thánh kinh, đại giáo chủ Noah đã cứu được gia đình cùng các loài vật trên trái đất thoát khỏi nạn hồng thủy.