Chương 22


Dịch giả: Trương Đắc Vỵ
NXB Văn Học
Bottom:
Chúng ta đã tới đông đủ chưa?

Quince:
Rồi, rồi, và đây là một nơi thuận tiện tuyệt vời cho buổi diễn tập của chúng ta.
[59]
• SHAKESPEARE
[59] Giấc mộng đêm hề (hồi 3, cảnh một) của William Shakespeare.
Chúng tôi thấy mô tả sự ngạc nhiên của Heyward chắc sẽ không đầy đủ bằng để độc giả tự tưởng tượng lấy. Vì những bóng đen ẩn ẩn hiện hiện mà anh nghĩ là người Anh điêng bỗng nhiên biến thành những con vật bốn chân; mặt hồ là một đầm nước của giống hải ly, dòng thác hóa ra bờ đất do những con vật khéo léo và chăm chỉ này tạo nên; và người mà anh cứ nghĩ là một tên địch lại chính là thầy quản hát David Gamut, người bạn trung thành của anh. Trông thấy chàng, biết bao hy vọng về hai chị em Cora bỗng bừng lên trong anh; không chút do dự, anh nhảy ra khỏi chỗ nấp và chạy đến chỗ hai nhân vật chính trong khung cảnh lúc bấy giờ.
Mắt Chim Ưng không sao nén được nỗi vui mừng. Chẳng giữ ý tứ và không một chút nương nhẹ, bác nhấc bổng thân hình mềm yếu của chàng Gamut rồi xoay tròn, miệng trầm trồ nhắc đi nhắc lại là cách ăn mặc của chàng Gamut làm dân Huron thêm tự hào về kiểu quần áo của mình. Rồi bác vừa khen ngợi cách hóa trang của David vừa nắm tay anh siết chặt làm anh đau ứa nước mắt. Bác nói:

Có phải anh sắp sửa lấy giọng dạy bầy hải ly ngâm nga đấy không? Giống vật tinh khôn này cũng am hiểu việc ca Thánh kinh đấy, anh chẳng vừa nghe thấy chúng vẫy đuôi đánh nhịp là gì; hơn nữa, chúng cũng lặn đi rất đúng nhịp, nếu không tiếng nổ của khẩu Sát Hươu này đã là âm thanh đầu tiên mở đầu bài thánh ca của chúng rồi. Tôi thấy nhiều người biết đọc biết viết hẳn hoi nhưng vẫn không tinh khôn bằng một con hải ly già, duy có việc hò hét là giống vật này chịu vì chúng sinh ra đã câm rồi. Nhưng anh thấy điệu nhạc này thế nào?

Nói rồi bác bắt chước tiếng quạ kêu lên ba lần. David vội bịt đôi tai khó tính của anh lại, còn Heyward tuy hiểu đó chỉ là ám hiệu, vẫn không khỏi ngước mắt nhìn lên trời xem có con quạ nào bay qua không.

Thấy chưa,
Mắt Chim Ưng vừa cười vừa nói tiếp, tay chỉ vào tốp người đang theo ám hiệu đi tới,
đấy mới là âm nhạc với một đặc tính tự nhiên của nó, nó đã đưa hai tay súng cừ khôi lại bên tôi, chưa nói đến dao găm và rìu trận của họ. Nhưng thôi, anh vẫn bình yên như thế là được; giờ hãy cho biết các cô thiếu nữ ra sao.


Các cô bị bọn vô thần bắt rồi,
David đáp,
họ rất hoang mang lo lắng nhưng thể xác vẫn được thoải mái, an toàn.


Cả hai cô à?
Heyward vội hỏi, cảm động tưởng ngừng thở.

Đúng thế. Ngoài việc đi đường vất vả, ăn uống thanh đạm, chúng tôi không có gì phải phàn nàn lắm. Chỉ có việc bị cưỡng bức đi đến một nơi xa lạ làm chúng tôi đau đớn trong lòng thôi.


Cầu Chúa phù hộ cho anh vì những lời tốt lành đó.
Munro run run nói,
Vậy là tôi sẽ được gặp lại các con tôi, vẫn trinh bạch ngây thơ như lúc chúng bị bắt đi.


Tôi e rằng việc giải thoát cho hai cô không chóng vánh đâu,
David nói, vẻ nghi hoặc.
Thủ lĩnh của bọn man rợ này độc ác vô cùng, chỉ có Thượng đế, Chúa của muôn loài, mới trị được thôi. Suốt ngày, lúc ngủ cũng như khi thức, tôi đã dùng đủ mọi cách nói với hắn, nhưng lời nói cũng như thánh ca đều chẳng làm hắn mủi lòng.


Thằng khốn kiếp bây giờ ở đâu?
người trinh sát lỗ mãng ngắt lời.

Hôm nay, hắn cùng với bọn chiến binh trẻ đi săn hươu; theo tôi biết, ngày mai chúng sẽ còn đi sâu hơn nữa vào trong rừng và tiến gần thêm về phía biên giới Canada. Chúng đã chuyển cô chị đến một bộ tộc lân cận ở phía sau ngọn núi đá đen thẫm kia, còn chúng để cô em ở cùng với đám phụ nữ Huron.


Làng của chúng chỉ cách đây chừng hai dặm, trên một khoảng đất phẳng, cây cối đã được đốt trụi. Đám phụ nữ hiện đang chuẩn bị để đón chúng về.


Alice, em Alice dịu hiền của anh! Không có chị Cora thì ai là người an ủi em?
Heyward lẩm bẩm.

Không được gần chị nhưng nỗi đau buồn trong tâm hồn Alice cũng dịu bởi nhờ những bài thánh ca và những lời cầu Chúa!


Alice còn bụng dạ để tâm đến âm nhạc kia à?


Phải, loại âm nhạc nghiêm trang, trịnh trọng. Nhưng cũng phải nhận rằng tuy tôi đã cố gắng an ủi, Alice vẫn khóc lóc luôn, ít khi tươi tỉnh. Những lúc đó, tôi ngừng các bài thánh ca. Nhưng cũng có nhiều lúc êm đềm thoải mái đồng cảm với nhau, những lúc dân Anh điêng ngây người lắng nghe tiếng hát vút cao của chúng tôi.


Thế tại sao anh được phép đi lại tự do, không bị ai theo dõi?

David cố giữ vẻ mặt khiêm nhường nhũn nhặn, nhỏ nhẹ đáp:

Không nên quá lời khen ngợi một kẻ hèn mọn như tôi về việc đó. Tuy thánh ca không có tác dụng đối với những sự việc khủng khiếp mà chúng ta đã trải qua trên chiến trường đầy máu, nó đã phát huy ảnh hưởng ở đây, ngay cả đối với tâm hồn của những người vô thần, vì thế tôi mới được phép đi lại tự do.

Người trinh sát vừa cười vừa gõ tay vào trán mình với vẻ hóm hỉnh, rồi giải thích sự rộng rãi đặc biệt của bọn Huron đối với David một cách có lẽ thỏa đáng hơn như sau:

Dân Anh điêng không bao giờ làm hại người nào có cái này không được lành mạnh. Nhưng tại sao đường chạy trốn mở rộng trước mặt mà anh không đi theo vết cũ trở về đưa tin tức cho pháo đài Edward? Vết chân anh phải dễ nhận thấy hơn vết chân con sóc chứ?

Người trinh sát chỉ nghĩ đến sức vóc khỏe mạnh như sắt đá của mình nên không biết là đã đòi hỏi David làm một việc mà chắc không bao giờ anh ta có thể làm được. Nhưng David vẫn giữ vẻ khiêm nhường, đáp lại:

Thâm tâm tôi sẽ rất vui sướng nếu được trở về anh em bổn đạo, nhưng chừng nào hai cô thiếu nữ tôi có trách nhiệm chăm sóc còn héo hắt trong cảnh giam cầm buồn khổ thì dù phải đi sang tận xứ sở của người dòng Tên, hai chân tôi cũng đi theo các cô chứ không chịu lùi bước.

Lời nói bóng bẩy của David không được dễ hiểu lắm, nhưng vẻ kiên quyết thật thà trên đôi mắt và vẻ trung thực trong dáng điệu của anh thì không sao có thể nhầm được, Uncas bước đến cạnh David và nhìn anh đầy khâm phục, còn Chingachgook hài lòng ra mặt, chỉ reo lên một tiếng đồng tình theo cách thông thường của người Anh điêng. Người trinh sát cũng bước lên, lắc đầu nói:

Thượng đế không bao giờ muốn anh bạn này chỉ trau dồi cái cổ họng mà không quan tâm đến các năng khiếu quý báu khác. Nhưng không may, anh ta đã rơi vào tay mấy mụ đàn bà ngu dốt; đáng lý anh ta phải được giáo dục dưới bầu trời xanh và trong khung cảnh đẹp đẽ của núi rừng. À này anh bạn, tôi đã định dùng ống sáo này để nhóm lửa nhưng lại thấy anh bạn quý nó lắm; vậy hãy cầm lấy và thổi cho thật hay nhé! Chàng Gamut đón lấy cây sáo, vẻ vui sướng hiện rõ trên nét mặt. Anh thử đi thử lại xem có hỏng âm thanh nào không, rồi nghiêm trang dạo vài đoạn của một bài thánh ca dài trong quyển sách nhỏ đã nhiều lần được nhắc tới.

Nhưng Heyward đã vội ngăn ý định ngoan đạo của David lại; anh hỏi dồn dập về tình trạng đã qua và hiện nay của hai cô thiếu nữ. Các câu hỏi bây giờ đã có hệ thống hơn lúc đầu câu chuyện vì khi đó anh còn đang bồng bột xúc động. David buộc phải trả lời (đôi mắt thèm thuồng của anh vẫn không rời ống sáo quý báu), nhất là khi người cha đáng kính của hai cô gái cũng đặt những câu hỏi một cách rất tha thiết, không thể không trả lời được. Ngay người trinh sát khi có dịp cũng chen vào mấy câu hỏi liên quan. Cứ như vậy, mọi người đã nắm được những điểm chính của tình hình, rất bổ ích cho việc thực hiện nhiệm vụ quan trọn đang thu hút tâm trí mọi người là tìm cho ra hai chị em Cora và Alice. Tuy nhiên, cuộc hỏi chuyện vẫn luôn luôn bị đứt quãng vì tiếng sáo của David nhiều lần đe dọa mở đầu một bài thánh ca. Câu chuyện của David kể đơn giản, sự việc không có mấy, đại khái như sau:

Magua đã ở trên núi đợi đến lúc rút lui được an toàn mới xuống, theo con đường ven bờ phía Tây hồ Horican đi về hướng xứ Canada. Vì tên Huron tinh quái thông thuộc con đường này và lại biết chắc là trước mắt chưa có ai đuổi theo nên hắn đi tốc độ phải chăng, không vất vả lắm. Theo lời nói mộc mạc của David, Magua không ưa gì sự có mặt của anh, nhưng không làm thế nào khác được vì hắn chưa hoàn toàn mất hẳn sự kính nể của dân Anh điêng đối với những người đã được Thượng đế thâm nhập vào đầu óc. Ban đêm, vừa để giữ cho mấy người bị bắt khỏi bị ốm vì khí ẩm nơi rừng rú, vừa đề phòng họ trốn, chúng coi sóc hết sức cẩn thận. Như ta đã biết, đi đến con suối, chúng thả ngựa và tuy đường còn xa, đi còn lâu, chúng vẫn cẩn thận làm các việc như đã mô tả để cắt đứt mọi manh mối khiến kẻ địch có thể tìm ra chỗ rút lui của chúng. Khi về đến nơi đồn trú của bộ lạc, Magua giam riêng mỗi tù nhân một nơi, việc mà không mấy khi hắn quên thực hiện. Hắn cho đưa Cora sang một bộ lạc đang tạm thời chiếm cứ thung lũng bên cạnh, nhưng vì chẳng hề hiểu biết phong tục và lịch sử của thổ dân nên David không cung cấp được tin tức gì thỏa đáng về tên gọi và tính chất của bộ lạc này cả. Anh chỉ biết bộ lạc này không tham gia vào cuộc tấn công pháo đài William Henry vừa qua và cũng như dân Huron, họ là đồng minh của Montcalm. Do hoàn cảnh xui nên, trong một thời gian họ phải miễn cưỡng tiếp xúc với dân Huron dã man hiếu chiến; họ vẫn giữ quan hệ thân thiện nhưng luôn cảnh giác đề phòng.

Lời tường thuật của David thiếu sót và không liên tục nhưng hai cha con Uncas và Mắt Chim Ưng vẫn lắng nghe, càng về sau càng chăm chú. David đang cố nói rõ về hoạt động của bộ lạc giam giữ Cora thì người trinh sát đột nhiên hỏi:

Anh có trông thấy kiểu dao của họ không? Dao Pháp hay dao Anh?


Tôi chỉ lo an ủi mấy cô thiếu nữ, có để ý đến những vật phù phiếm ấy đâu.


Rồi có lúc anh sẽ không cho con dao của thổ dân là vật phù phiếm đáng khinh.
Người trinh sát trả lời, vẻ coi thường sự khù khờ của David lộ ra nét mặt,
Họ có mở hội mùa không? Hoặc giả anh có biết gì về totem của bộ lạc này không?

Về hội mùa thì họ tổ chức nhiều và ăn uống no nê, họ cho mì vào sữa, ăn vừa ngọt miệng vừa dễ chịu cho dạ dày. Còn về totem thì tôi không hiểu ý nghĩa thế nào, nhưng nếu nó có mặt nào liên quan đến nghệ thuật âm nhạc Anh điêng thì không cần phải tìm hiểu gì cả. Họ không bao giờ cùng nhau cầu nguyện; có lẽ họ là những người vô thần nhất trong những người vô thần đấy.

Thế là anh đã xuyên tạc bản chất người Anh điêng rồi. Ngay cả dân Mingo cũng chỉ thờ chúa sống và có thật thôi. Tôi lấy làm xấu hổ về sự bịa đặt của người da trắng nói rằng chiến binh da đỏ thờ những hình ảnh do chính tay họ vẽ nên. Đúng là người Anh điêng có tìm cách hòa hoãn với quỷ ác, (phải, với một kẻ thù mà mình không chiến thắng nổi thì ai chả muốn hòa hoãn), nhưng họ chỉ cầu xin sự phù hộ và sự giúp đỡ của Thượng đế nhân từ vĩ đại mà thôi.


Có thể như thế,
David đáp,
nhưng tôi thấy khi bôi sơn lên mình, họ vẽ những hình vật lạ lùng kỳ quặc, thế mà họ lại tỏ ra hãnh diện, trân trọng, tôn kính hình vật đó, đặc biệt là có một con vật nom thật bẩn thỉu xấu xí.


Con rắn phải không?
người trinh sát vội hỏi.

Cũng na ná. Trông giống như một con rùa bò chậm chạp thiểu não.

Hai cha con Uncas đang chăm chú nghe, đồng thanh kêu:
À!
còn người trinh sát chỉ lắc đầu với dáng điệu của một người vừa khám phá ra một điều gì quan trọng nhưng không vui. Rồi Chingachgook nói tiếng Delaware; vẻ trịnh trọng, bình tĩnh của bác tức khắc làm cho cả những người không hiểu tiếng cũng phải chú ý. Cử chỉ của bác biểu lộ ý nghĩ, đôi lúc có vẻ kiên quyết. Bác giơ cao tay rồi lại hạ xuống làm phanh chiếc áo mỏng, bác chỉ một ngón tay vào ngực như muốn qua cử chỉ đó nói lên ý nghĩ của mình. Duncan theo dõi cử chỉ đó và nhận thấy trên ngực sạm nắng của người thủ lĩnh có hình vẽ một con rùa màu xanh, không đậm nét nhưng rất đẹp. Tất cả mọi điều anh đã được nghe về sự chia rẽ đáng buồn của bộ lạc Delaware đông đảo lại vụt qua trong trí óc anh. Anh đợi một lúc thích hợp để phát biểu; sự quan tâm của anh đến vấn đề làm phút chờ đợi hầu như không sao chịu được. Nhưng người trinh sát đã đi trước ý định của anh; bác quay lại người bạn da đỏ và nói:

Điều chúng ta vừa phát hiện có thể là điều lành hoặc điều dữ đối với chúng ta tùy Thượng đế an bài. Thủ lĩnh thuộc dòng máu cao quý của dân tộc Delaware và đứng đầu tất cả mọi giống Rùa của bộ lạc. Theo lời thầy quản hát, trong bộ lạc vừa nói đến nhất định có một vài người thuộc dòng giống Rùa. Nhưng giá anh ta dành một nửa hơi sức phí phạm vào việc ca hát để chịu khó học hỏi một vài câu thì có phải chúng ta đã biết được bọn chúng có bao nhiêu chiến binh rồi không. Chúng ta sắp đi vào một đoạn đường nguy hiểm vì khi một người bạn trở thành thù thì tư tưởng người đó thường còn khát máu hơn một kẻ đang tìm cách cắt chỏm tóc của chúng ta đấy.


Xin giải thích rõ hơn,
Duncan nói.

Đó là một truyền thống đáng buồn có từ lâu đời mà tôi không muốn nghĩ đến nhiều vì không thể phủ nhận rằng tai ương lại chủ yếu do người da trắng gây nên. Vấn đề đã kết thúc bằng việc anh em quay rìu trận bổ vào nhau và dân Mingo lại đi cùng đường với dân Delaware.


Thế bác nghĩ là Cora hiện đang ở cùng một nhóm của bộ lạc đó à?

Người trinh sát gật đầu tuy vẫn có vẻ còn muốn tiếp tục bàn thêm về vấn đề đau đớn đó. Duncan sốt ruột đã nhiều lần cương quyết đề nghị tiến hành ngay việc giải thoát hai chị em Cora. Còn Munro như đã mất hết vẻ lờ đờ, ông chăm chú nghe và ra vẻ đồng tình với những kế hoạch táo tợn của người sĩ quan trẻ mà đáng lý ra ông phải bác bỏ vì tuổi cao và sức yếu của ông sẽ không cho phép thực hiện. Nhưng sau khi để cho chàng thanh niên đang yêu bộc lộ phần nào sự hăng hái của mình, người trinh sát tìm được lời lẽ phân tích cho anh ta thấy rằng hấp tấp lúc này là điên rồ, và trong vấn đề này phải hết sức bình tĩnh suy xét và gan dạ phi thường.

Có lẽ cứ nên để David trở lại làng như thường. Anh ấy sẽ la cà trong các lều để báo cho các cô gái biết là chúng ta sắp đến, và sẽ đợi chúng ta làm hiệu gọi ra bàn bạc. Anh bạn phân biệt được tiếng chim kêu với tiếng quạ chứ?


Giống chim dễ thương ấy có tiếng kêu nghe dịu tai và buồn buồn, nhưng nhịp điệu hơi nhanh và không đều.
David trả lời.

Anh ta nói về giống chim đêm đấy.
Người trinh sát nói tiếp,
Này, anh ưa tiếng hót của nó, vậy ta lấy tiếng ấy làm ám hiệu. Nhớ khi nào nghe chim đêm kêu ba lần thì ra chỗ bụi cây nhé.


Khoan đã,
Heyward ngắt lời,
tôi sẽ đi cùng với David.


Anh ư?
Mắt Chim Ưng ngạc nhiên kêu lên,
Anh không muốn nhìn mặt trời mọc và lặn nữa à?


David chẳng là một bằng chứng sinh động rằng dân Huron cũng còn lòng thương người đó sao?


Đúng, nhưng David còn có thể sử dụng cổ họng của mình, không ai tỉnh táo lại dùng sai tài năng.


Tôi cũng có thể đóng vai điên, vai hề, vai anh hùng được, nghĩa là có thể làm bất cứ việc gì để cứu người tôi yêu. Bác đừng phản đối nữa, tôi đã quyết tâm rồi.

Mắt Chim Ưng ngây người ngạc nhiên nhìn chàng sĩ quan trẻ một lát. Từ trước đến giờ, vì trọng nể tài ba và công lao của Mắt Chim Ưng, Duncan vẫn mặc nhiên phục tùng ý kiến của bác; bây giờ anh nói với tư cách cấp trên, giọng nói làm người ta khó lòng cưỡng lại. Anh khoát tay tỏ vẻ không ưa những lời trách móc, rồi nói tiếp với lời lẽ ôn hòa hơn:

Bác có phương tiện để hóa trang, vậy hãy thay hình đổi dạng cho tôi; nếu muốn thì vẽ cả sơn nữa; muốn biến tôi thành gì cũng được, một tên hề ngô nghê chẳng hạn.


Phận như tôi đâu dám nói rằng một người đã được Thượng đế đầy uy lực tạo nên cũng cần phải đổi dạng.
Mắt Chim Ưng bực dọc lẩm bẩm nói,
Khi cử đoàn quân xuất trận, ít nhất anh cũng thấy cần cẩn thận quy định dấu hiệu và thu xếp nơi đồn trú cho những người cùng chiến đấu biết được thời gian và địa điểm đợi quân bạn chứ?


Thế này nhé,
Duncan ngắt lời,
bác đã thấy anh bạn trung thành đi theo các cô gái bị bắt đây nói là bọn Anh điêng thuộc hai bộ lạc nếu không phải là thuộc hai dân tộc. Cô gái bác gọi là
cô tóc đen
hiện đang ở cùng bộ lạc mà theo ý bác là một chi của người Delaware. Còn cô em chắc chắn ở trong tay bọn Huron thâm thù chúng ta. Việc tìm kiếm cô em thích hợp với tuổi trẻ và cấp bậc của tôi. Vì vậy, trong khi bác bàn bạc với các bạn của bác để giải thoát cô chị thì hoặc tôi sẽ giải thoát được cô em hoặc tôi sẽ chết.

Tinh thần sôi nổi của người quân nhân trẻ biểu hiện trong đôi mắt long lanh, và cả con người anh toát ra một vẻ kiên quyết khiến không ai cưỡng lại được. Mắt Chim Ưng vốn biết rất rõ các mưu mẹo của dân Anh điêng nên không thể không thấy trước nguy hiểm của công việc đó. Nhưng bác không biết làm thế nào để gạt được quyết định đột ngột này. Có lẽ phần nào ý kiến của Heyward có điểm phù hợp với bản chất gan dạ của bác, với lòng ưa thích thầm kín những chuyện phiêu lưu nguy hiểm ngày một mạnh mẽ thêm theo kinh nghiệm của bác, và đến nay nguy hiểm và may rủi trong chừng mực nào đã trở thành cần thiết để bác thấy cuộc đới thú vị. Bác không phản đối kế hoạch của Duncan nữa, tâm trạng bác đột nhiên thay đổi, và bác cũng góp sức mình vào việc thực hiện kế hoạch đó.

Thôi được,
bác vui vẻ mỉm cười nói,
khi con nai sắp xuống nước, ta phải đón đầu chứ không chạy theo đuôi nó. Bác Chingachgook cũng có nhiều bột màu chẳng kém gì bà vợ ông sĩ quan công binh; bà ta thu gọn cảnh thiên nhiên trên những tờ giấy làm núi non trông giống như đống rơm màu nhạt, và trời xanh hạ thấp ở ngay cạnh tay ta. Bác Chingachgook cũng biết sử dụng màu. Anh hãy ngồi lên khúc gỗ này, tôi cược là bác ấy sẽ biến ngay anh thành tên hề ngu ngốc thực sự theo ý thích của anh.

Duncan ngồi xuống, Chingachgook từ nãy vẫn chăm chú theo dõi câu chuyện, liền bắt tay vào việc. Với bàn tay thành thạo mọi nghệ thuật tế nhị của dân Anh điêng, bác thoăn thoắt khéo léo vẽ lên người Duncan những nét kỳ lạ mà thổ dân vẫn coi là dấu hiệu của một tính tình thân ái vui vẻ. Bác cẩn thận tránh những đường nét có thể làm người ta cho rằng, đó là biểu hiện của một khuynh hướng hiếu chiến thầm kín, mặt khác bác nghiên cứu cách vẽ sao cho người ta nghĩ tới tình bạn bè thân thiện. Tóm lại, bác hoàn toàn bỏ qua mọi biểu hiện của một chiến binh để hóa trang Duncan thành một anh hề. Vẽ màu như vậy không phải là chuyện gì lạ lùng đối với dân Anh điêng. Khi Duncan đã trá hình xong trong tấm áo của anh, lại thêm biết nói tiếng Pháp, người ta có căn cứ để tưởng anh là một tên hề ở pháo đài Ticonderoga đi lang thang trong các bộ lạc đồng minh bạn bè.
Thấy Duncan đã được vẽ màu xong xuôi, người trinh sát thân mật dặn dò anh nhiều điều, thỏa thuận mật hiệu, ấn định địa điểm sẽ gặp lại nhau sau khi thành công. Cảnh Munro chia tay với người bạn trẻ lâm ly hơn. Tuy ông vẫn giữ một vẻ bình thản nhưng với bản chất nhiệt tình và chân thực, chắc ông không thể giữ được thái độ như thế nếu tâm trạng ông thư thái hơn. Người trinh sát kéo Heyward ra xa một chút và nói là bác có ý định để Munro ở lại một chỗ an toàn do Chingachgook trông nom, còn bác và Uncas sẽ tiến hành điều tra về bộ lạc mà mọi người tin là dân Delaware. Sau khi căn dặn và khuyên bảo một lần nữa, bác kết thúc bằng những lời lẽ vừa nhiệt tình vừa trịnh trọng làm Duncan hết sức cảm động:

Bây giờ thì cầu Chúa phù hộ cho anh! Anh đã biểu lộ một tinh thần mà tôi rất quý vì đó là đặc tính của tuổi trẻ, nhất là của một người có tấm lòng quảng đại và bầu máu nóng. Nhưng hãy tin vào lời căn dặn của một người có đủ lý do để biết rằng những điều mình nói đều đúng cả. Anh sẽ có dịp vận dụng tối đa lòng dũng cảm của mình và phải có một tài trí sác sảo hơn những điều đã thu hoạch trong sách vở trước khi thắng được mưu mô xảo quyệt và vượt được lòng can đảm của một tên Mingo. Chúa phù hộ cho anh! Nếu bọn Huron cắt mất chỏm tóc của anh, xin hãy tin vào lời hứa của một người có hai chiến binh can đảm làm trợ thủ, rằng bọn chúng sẽ phải trả giá đắt thắng lợi của chúng. Mỗi sợi tóc chúng cắt được, chúng sẽ phải đền một mạng. Xin Thượng đế phù hộ việc làm hoàn toàn đúng của anh. Hãy nhớ rằng để thắng trong cuộc đấu trí với bọn khốn kiếp thì làm những việc có thể không phù hợp với đặc tính tự nhiên của người da trắng vẫn là chính đáng đấy.

Duncan siết chặt tay người cộng sự tận tình đã miễn cưỡng phải để anh đi. Một lần nữa, anh dặn bác trông nom cẩn thận ông bạn già Munro, đáp lại những lời chúc của bác, rồi ra hiệu cho David lên đường. Mắt Chim Ưng nhìn theo rất lâu người thanh niên hăng hái và can trường, vẻ khâm phục hiện ra nét mặt. Đoạn bác lắc đầu lo lắng, quay lại dẫn bộ phận của mình đi khuất vào trong rừng.
Duncan và David đi con đường cắt ngang khu đất trống của loài hải ly và chạy dọc theo bờ đầm nước của chúng. Còn lại một mình với David, một người đơn giản và ít có khả năng giúp đỡ được gì trong những trường hợp khẩn cấp, Duncan bây giờ mới cảm thấy hết khó khăn của công việc anh đảm nhiệm. Ánh sáng mờ nhạt càng làm tăng thêm cảnh ảm đạm của nơi hoang dã trải rộng ra bốn phía xung quanh, và trong không khí im lặng của những lều nhỏ trước đây hải ly ở đông đúc có cái gì rờn rợn đáng sợ. Trong khi ngắm cấu trúc tuyệt diệu của các tổ hải ly và những công trình kỳ khôi của những con vật tinh khôn này, anh lấy làm lạ rằng ngay giống vật ở nơi hoang vu mênh mông này cũng có được bản năng gần ngang với lý trí của bản thân anh. Anh không khỏi e ngại nghĩ đến cuộc đọ sức chênh lệch mà anh đã liều lĩnh chuốc lấy. Rồi anh lại tưởng tượng đến hình ảnh tươi sáng của Alice, đến nỗi đau buồn của nàng, mối nguy hiểm nàng đang trải qua hiện nay. Thế là anh quên hết hoàn cảnh hiểm nghèo của bản thân; anh động viên David, tiến lên với những bước đi nhẹ nhàng hăm hở của tươi trẻ xông xáo.
Đi được gần nửa vòng đầm nước, hai người rẽ sang phía khác và leo lên một khu đất cao hơn. Chừng nửa giờ sau, họ tới rìa một khoảng trống khác. Các vết tích còn lại chứng tỏ nơi đây cũng do loài hải ly tạo nên, nhưng chắc vì một tai họa nào đấy, những con vật tinh khôn này đã phải chuyển sang chỗ khác thuận lợi hơn. Một cảm giác tự nhiên làm Duncan ngập ngừng một lát không muốn rời khỏi con đường mòn kín đáo có bụi cây che chở, anh như một người dừng lại để tập trung nghị lực trước khi tiến hành một việc nguy hiểm mà người đó thầm biết là sẽ đòi hỏi mọi cố gắng của mình. Nhân lúc dừng lại, anh đưa mắt rất nhanh nhìn tứ phía xem có gì khả nghi không.
Phía bên kia khoảng trống, cao hơn chỗ anh đứng, gần nơi dòng suối đổ trên mấy tảng đá, có chừng năm sáu chục gian lều thô kệch làm bằng những khúc gỗ và cành cây có trét đất sét, sắp xếp không theo một trật tự nào, hình như người làm rất ít chú ý đến sạch sẽ và mỹ thuật. So với cái làng hải ly anh vừa gặp, các gian lều này thua kém nhiều về hai mặt đó; anh đoán thế nào cũng còn được thấy điều ngạc nhiên mới nữa. Quả nhiên, qua ánh sáng mờ mờ, anh thấy ở phía trước các gian lều có hai ba chục hình thù lần lượt nhô lên khỏi ngọn cỏ cao và cứng, rồi lại biến đi như lẩn mình dưới đất vậy. Chợt nhìn thoáng những hình thù đó, anh tưởng như là những bóng ma thẫm màu hoặc những con vật không phải ở nơi trần thế này nên không có thân hình bình thường bằng xương bằng thịt. Một hình dáng gầy gò, trần trụi, giơ tay lên trời một cách man rợ rồi vụt biến mất, để lại khoảng đất trống. Rồi đột nhiên lại thấy hiện ra ở một chỗ đằng xa, cái nọ tiếp theo cái kia, tính chất vẫn bí mật như nhau. Thấy Heyward trì chậm, mắt tiếp tục nhìn về phía anh đang theo dõi, David cất tiếng nói để kéo bạn về với thực tại:

Đất chỗ này phì nhiêu mà bỏ hoang quá! Không phải khoe khoang, tôi có thể nói rằng ở cùng những người vô thân chưa được mấy ngày, tôi đã gieo được vô khối hạt giống tốt ra hai bên đường đấy.


Các bộ lạc ở địa phương này ưa đi săn hơn là làm công việc của người lao động.
Duncan bất giác trả lời, mắt vẫn không rời những hình thù kỳ lạ.

Đối với tinh thần, ca ngợi Chúa là điều vui hơn lao động, nhưng những đứa trẻ ở đây quả đã phí phạm tài năng một cách đáng buồn. Ít khi tôi thấy trẻ con trạc tuổi chúng có nhiều khả năng tự nhiên để hát thánh ca như chúng, và cũng không thấy có đứa nào bỏ mặc không trau dồi tài năng bằng chúng. Ba đêm tôi ở đây ba lần tôi tập hợp trẻ con lại để hát thánh ca, và ba lần chúng đáp lại cố gắng của tôi bằng cách gào thét làm tôi rợn cả người.


Anh nói ai thế?


Nói những đứa trẻ con đang phung phí thời giờ nghịch như quỷ sứ kia. Ôi chao! Dân tộc này không hề biết đến tác dụng tốt lành của sự kiềm chế trong kỷ luật mà chỉ phó mặc cho tự nhiên thôi. Trong một xứ có toàn cây bulô thì làm sao tìm được một cái roi con. Do đó, không lấy làm lạ là những lời chúc phước lành của Thượng đế phí công toi giữa những tiếng kêu thét như thế này.

David bịt tai khi tiếng thét của trẻ con vang lên the thé khắp cánh rừng, còn Duncan thì bĩu môi như chế nhạo sự mê tín của bản thân và cứng cỏi nói:

Chúng ta tiến lên.

Tay vẫn bưng lấy tai, thầy quản hát làm theo, và cả hai người cùng nhau tiến bước về nơi David đôi khi quen gọi là
những gian lều của bọn trần tục
.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Người Cuối Cùng Của Bộ Tộc Mohican.