Chương 36, 37
-
Nhà Giả Kim
- Paulo Coelho
- 2074 chữ
- 2020-01-29 01:00:18
Dịch giả: Lê Chu Cầu
NXB Văn Học
36
Tôi đem điềm của sa mạc đến đây
, cậu nói với người đứng canh cửa một cái lều trắng to tướng nằm chính giữa ốc đảo,
nên muốn thưa chuyện với các tộc trưởng
Người gác không trả lời mà đi vào trong lều. Mãi sau hắn mới trở ra với một người Arập trẻ khoác áo hai màu trắng vàng. Cậu kể cho người Arập trẻ điều mình đã thấy. Anh ta yêu cầu cậu chờ rồi lại quay vào trong lều. Trời bắt đầu tối. Nhiều khách thương và dân ốc đảo vào ra cái lều ấy. Các đống lửa nối nhau tắt và ốc đảo lại yên ắng như sa mạc. Chỉ chiếc lều trắng to này là còn ánh đèn. Suốt thời gian đứng chờ cậu nghĩ đến Fatima và vẫn chưa hiểu rõ lắm những điều cô nói lúc xế trưa. Sau hàng giờ chờ đợi, người canh bảo cậu vào lều. Cậu choáng ngợp trước những gì mắt mình thấy. Làm sao có thể tưởng tượng nổi ngay giữa sa mạc lại có một cái lều tráng lệ đến thế. Nền phủ thảm quí mà đôi chân cậu chưa từng được đặt chân lên, trần treo loại đèn cắm nến bằng đồng thau trạm chổ. Phía trong lều, các tộc trưởng ngồi thành vòng cung trên nệm lụa thêu rất công phu, tay cũng tì trên nệm thêu như thế. Người hầu ra vào, kẻ bưng khay bạc đầy trà và những món thơm ngon, người lo tiếp than cho các ống điếu đừng tắt. Một mùi thơm dễ chịu lan khắp lều. Có tất cả tám tộc trưởng, song cậu nhận ra ngay người quan trọng nhất: đó là ông già Arập khoác áo trắng vàng ngồi giữa. Đứng cạnh ông là người Arập trẻ hồi nãy
Ai là người lạ đã kể về điềm báo?
Một tộc trưởng nhìn cậu hỏi
Chính tôi đây
, cậu đáp rồi thuật lại những gì đã thấy
Cớ sao sa mạc lại báo cho một người lạ như cậu biết điều này, chứ không báo cho chúng ta là những kẻ đã sống ở đây từ bao đời rồi?
Một tộc trưởng khác hỏi
Vì mắt tôi còn lạ lẫm với sa mạc nên tôi còn nhận ra những điềm mà các đôi mắt quá quen không thấy được nữa
, cậu đáp.
Và cũng vì tôi biết tâm linh vũ trụ
, cậu thầm nghĩ nhưng chỉ để bụng vì người Arập hẳn không tin chuyện này.
Ốc đảo là vùng trung lập
, tộc trưởng thứ ba nói.
Sẽ không ai dám tấn công nó cả
.
Tôi chỉ thuật lại những gì mình thấy. Nếu các ông không muốn tin thì thôi
Căn lều lặng như tờ một lúc, rồi các tộc trưởng tranh luận sôi nổi. Họ nói một thứ thổ ngữ Arập mà cậu không hiểu; nhưng khi cậu định ra khỏi lều thì bị người canh giữ lại. Lúc này cậu bắt đầu sợ. Có gì đó không ổn rồi. Cậu ân hận đã nghe lời người phu lạc đà. Chợt ông già ngồi giữa hơi hé miệng cười khiến cậu thấy yên tâm. Ông không tham gia cuộc tranh luận của những người kia và đến lúc này cũng chưa nói tiếng nào. Còn cậu, vì lúc này đã quen với thứ ngôn ngữ vũ trụ, nhận ra rằng từ ông toát ra một vẻ an bình. Trực giác cho cậu thấy mình đến đây là đúng. Cuộc tranh luận chấm dứt, ai nấy chăm chú lắng nghe phản ứng của ông già. Ông nhìn cậu; lúc này vẻ mặt ông lạnh lùng và khó gần
Hai nghìn năm trước ở một đất nước xa xôi có một chàng trai bị ném xuống giếng rồi bị bán làm nô lệ, vì hắn tin vào giấc mộng
, ông già nói.
Các khách thương nước ta đã mua rồi đem hắn đến Ai Cập. Mỗi người trong chúng ta đều biết ai tin vào giấc mộng thì cũng có thể giải mộng được
.
Không phải lúc nào cũng giải được đâu
, cậu liên tưởng đến bà già Zigeuner
Vì Pharao mơ thấy bò gầy và bò mập mà hắn lại giải được giấc mơ ấy nên đã cứu dân Ai Cập thoát khỏi nạn đói. Tên hắn là Josef. Hắn cũng ở trên một đất nước lạ, giống như cậu vậy và lúc ấy có lẽ cũng trạc tuổi cậu
. Ông ngừng nói, đôi mắt vẫn lạnh lùng.
Chúng ta luôn sống theo truyền thống. Thuở đó truyền thống đã cứu dân Ai Cập khỏi nạn đói và khiến họ trở thành dân tộc giàu có nhất thế gian. Truyền thống dạy đàn ông chúng ta cách vượt sa mạc và tổ chức hôn lễ cho con cái như thế nào. Truyền thống cũng dạy rằng ốc đảo là nơi trung lập, vì phe nào cũng có ốc đảo và chúng không được ai che chở cả
.
Trong khi ông nói thì không ai xen một lời nào.
Nhưng truyền thống cũng dạy chúng ta phải tin vào thông điệp của sa mạc. Mọi điều chúng ta biết đều là do học được từ sa mạc cả
.
Ông ra hiệu và mọi người đứng cả dậy. Buổi họp chấm dứt. Các ống điếu Nargileh được dụi tắt và đám người canh đứng vào vị trí.
Cậu định đi ra thì ông già nói:
Sáng mai chúng ta sẽ phạm vào lời thề rằng trong ốc đảo không ai được mang vũ khí. Suốt ngày mai chúng ta sẽ chờ đón quân địch. Khi mặt trời lặn thì mọi người nộp khí giới lại cho ta. Cứ mười kẻ địch bị giết thì cậu được thưởng một đồng tiền vàng. Tuy nhiên, vũ khí không được phép đem ra từ nơi cất giấu mà không được sử dụng. Chúng đồng bóng chẳng khác sa mạc, nếu đem ra mà không dùng đến thì lần sau có thể chúng sẽ không chịu để ta sử dụng nữa đâu. Do đó, nếu ngày mai không cần tới chúng thì ít nhất cũng phải có một cái dành cho cậu đó
.
37
Khi cậu ra khỏi lều họp thì ốc đảo chỉ còn ánh trăng soi sáng. cậu đi thêm hai mươi phút nữa mới về tới lều của mình. Những chuyện xảy ra mới đây khiến cậu hoảng sợ. Cậu đã nhập vào tâm linh vũ trụ và có thể sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình. Ván bài đắt quá. Nhưng từ ngày bán đi bầy cừu để theo đuổi chính vận mệnh mình lúc nào cậu cũng đánh cuộc với giá cao. Người phu lạc đà đã nói sao nhỉ: chết vào ngày mai thì cũng chẳng khác chết vào bất cứ một ngày nào khác. Mỗi ngày là để ta sống hoặc để từ giã cõi đời. Mọi sự tùy vào một chữ thôi:
Maktub
Cậu bình thản đi, lòng không ân hận gì. Nếu ngày mai cậu chết thì cũng chính bởi vì Thượng đế không thích thay đổi tương lai. Dù cậu có chết thì cũng là chết sau khi đã vượt eo biển, để làm việc trong cửa hàng pha lê, đã được biết sự yên ắng của sa mạc và đôi mắt Fatima. Đã từ lâu, từ khi rời nhà đi, mỗi một ngày cậu đều đã sống hết mình. Nếu ngày mai có chết thì mắt cậu đã được thấy rất nhiều, hơn hẳn những người chăn cừu khác và cậu rất hãnh diện về điều này. Chợt có tiếng vó ngựa và cậu bị một làn gió cực mạnh hất ngã xuống đất. Quanh cậu bụi tung mù mịt, che khuất cả mặt trăng. Trước mặt cậu một con ngựa khổng lồ cất cao hai vó trước, hí vang khiếp đảm. Khi đã bớt bụi thì hình ảnh cậu nhìn thấy khiến cậu sợ choáng người, chưa bao giờ sợ đến thế: một kị sĩ mặt toàn đen ngồi trên mình ngựa, một con chim ưng đậu trên vai trái. Người ấy đội khăn xếp, che kín mặt chỉ hở hai mắt, giống như những
sứ giả của sa mạc
nhưng oai phong hơn nhiều. Người kị sĩ đầy bí mật kia rút từ yên ngựa một thanh kiếm cong; thép lấp lánh dưới ánh trăng.
Kẻ nào đã cả gan giải đoán đường bay của chim bồ cắt?
Tiếng người ấy như sấm dậy, vang vọng giữa năm vạn gốc chà là của ốc đảo El Fayum
Tôi đấy
, cậu đáp và liên tưởng tới tượng thánh Santiago de Compostela trên mình ngựa phóng qua đầu lũ ngoại đạo. Khác chăng là giờ đây kẻ ngoại đạo kia như tượng thánh trên mình ngựa, còn cậu nằm lăn dưới đất.
Tôi đấy
, cậu đáp rồi cúi đầu để tránh nhát kiếm.
Nhiều mạng người sẽ được tâm linh vũ trụ cứu thoát; đó là điều mà ông đã không ngờ tới
.
Nhưng lưỡi kiếm không chém xả xuống cậu mà cánh tay người lạ chỉ hạ xuống từ từ cho đến khi mũi kiếm chạm vào trán cậu. Kiếm sắc làm trán cậu rỉ máu. Người kị sĩ bất động. Cậu cũng bất động. Cậu không nghĩ đến chạy trốn mà thấy trong lòng rạo rực một niềm vui kì lạ: mình sẽ chết vì đã quyết tâm theo vận mệnh của mình. Và vì Fatima. Thế có nghĩa là các điềm báo không sai. Hiện cậu đối mặt với kẻ thù và chẳng việc gì phải bận tâm về cái chết vì tâm linh vũ trụ đang chờ đón mình. Cậu sẽ nhanh chóng trở thành một phần của linh hồn ấy. Và ngày mai kẻ thù kia cũng sẽ thành một phần của nó nốt. Người lạ vẫn dí kiếm trên trán cậu.
Tại sao mi lại giải đoán đường bay của chim?
Tôi chỉ đọc những gì chim muốn báo thôi. Chim muốn cứu ốc đảo còn các người sẽ phải chết. Ốc đảo đông hơn lũ các người
.
Mũi kiếm vẫn không rời trán cậu.
Mi là ai mà táo gan muốn thay đổi số phận đã được Allah quyết định?
Allah tạo dựng các đạo quân cũng như người sinh ra lũ chim kia. Người đã dạy tôi ngôn ngữ của loài chim. Mọi điều đều do một bàn tay viết nên cả
, cậu nói, dùng từ ngữ của người phu lạc đà.
Người lạ thu kiếm về. Cậu thấy nhẹ cả người nhưng vẫn không có ý bỏ chạy.
Đừng có đoán mò
, người lạ nói.
Điều gì đã được bàn tay nọ ghi sẵn rồi thì không cản được đâu
.
Tôi chỉ trông thấy một đạo quân chứ không biết được trận đánh kết thúc thế nào
, cậu đáp
Người lạ có vẻ hài lòng với câu trả lời, song vẫn lăm lăm thanh kiếm trong tay.
Một người lạ như mi đến xứ lạ này để làm gì?
Tôi đi theo vận mệnh của mình. Nhưng ông không thể hiểu được đâu
.
Người kị sĩ tra kiếm vào vỏ; con chim ưng trên vai ông ta bỗng kêu lên nghe rất lạ. Cậu thấy bớt căng thẳng
Ta muốn thử lòng can đảm của cậu đó thôi
, người lạ nói.
Vì can đảm là điều thiết yếu để hiểu được ngôn ngữ vũ trụ
.
Cậu ngạc nhiên. Người lạ này nói về những điều mà rất ít người biết.
Không được phép sao nhãng, dù đã tiến rất xa
, ông ta nói tiếp.
Phải yêu quí sa mạc, nhưng không bao giờ được tin nó tuyệt đối, vì sa mạc luôn thử thách con người: nó sẽ giết những kẻ nào lơ là, không cân nhắc từng bước đi một
. Những điều ông ta nói khiến cậu liên tưởng đến vị vua già.
Nếu đạo quân ấy đến đây thật và khi mặt trời lặn mà đầu cậu vẫn chưa rụng thì hãy tìm ta
, người lạ nói.
Bàn tay mới đây vung kiếm giờ vung một cái roi. Con ngựa bạch lại tung hai vó trước làm cát bụi bay mù.
Ông ở chỗ nào?
Cậu gọi với theo khi kị sĩ phóng ngựa đi.
Bàn tay cầm roi chỉ về hướng Nam. Thế là cậu đã gặp nhà luyện kim đan.