Quyển 10 : Hồ linh hồn - Chương 16


Số từ: 2041
dịch : Đặng Phi Bằng
nguồn : NXB trẻ
Chúng tôi phải chặt những thân cỏ dày đặc, cao mấy mét, như mở đường trong rừng rậm.
Công việc khó khăn và chậm chạp nên trước khi chúng tôi tới đền trời đã vào đêm. Quan sát
đền dưới ánh trăng, chúng tôi ngỡ ngàng trước kích cỡ của nó. Được làm bằng đá thô sơn
trắng, đền hình vuông, cao khoảng ba mươi lăm bốn chục mét. Những bức tường kéo dài cả
trăm mét nâng đỡ một mái bằng. Chúng tôi đi hết vòng ngoài, chỉ có một lối vào: một cổng đồ
sộ rộng chừng năm mét, cao tám chin mét, bên trong có ánh nến bập bùng.
Spits làu bàu:

Tôi không yên tâm chút nào trước cảnh này.

Tôi thở dài:

Tôi cũng vậy. Nhưng nếu đây là Đền Quái Nhân, chúng tôi phải vào tìm nước thánh theo
lời bà Evanna.


Nếu thích, hai người cứ việc tin lời phù thủy, còn tôi không can dự vào những sức mạnh
của bóng tôi. Tôi chờ ngoài này. Chúc may mắn.

Harkat cười:

Ông sợ à?


Aaaa! Anh cũng nên sợ thì hơn. Nếu muốn, các người cứ gọi là Đền Quái Nhân, nhưng tôi
biết thật sự nó là gì...Đền Tử Thần!

Nói xong, ông ta ào ào chạy tìm chỗ núp trong bụi cỏ.
Harkat và tôi cùng đồng quan điểm u ám của Spits, nhưng chúng tôi phải mạo hiểm vào
trong. Rút dao, chúng tôi bò tới cổng, bỗng nghe tiếng ngân nga trầm bỗng vang vọng trong
đêm thanh vắng. Bối rối, chúng tôi ngừng lại, rồi bò ngược lại chỗ Spits đang ẩn mình trong cỏ.
Ông ta hỏi:

Đổi ý rồi hả?

Harkat nói:

Chúng tôi nghe nhũng tiếng...như tiếng người...đang tụng niệm.


Từ phía nào?


Bên trái.


Tôi đi kiểm tra, trong khi hai người thăm dò ngôi đền, được chứ?


Tôi nghĩ...cả ba chúng ta cùng đi. Nếu ở đây có người, chắc chắn ngôi đền ngày...phải là
của họ. Chúng ta có thể hỏi...về ngôi đền và có thể họ sẽ giúp.

Spits cười chế nhạo:

Đúng là một con ma ngây thơ. Nên nhớ, đừng bao giờ tin một kẻ xa lạ.

Một lời khuyên có lý. Chúng tôi ghi nhớ, rồi lách qua đám cỏ - nơi này không quá rậm rạp -
tiến gần đến tiếng ngân nga. Qua khỏi ngôi đền một đoạn đường ngắn, chúng tôi tới bờ một
khoảng rừng đã được phát quang. Bên trong trông như một ngôi làng nho nhỏ, khác thường.
Những túp lều cỏ thấp lè tè, không tới một mét. Không biết đây là làng của người Pygmy, hay
những túp lều chỉ để chui vào nằm ngủ? Những chiếc áo thô kệch màu xám chất thành đống
chính giữa làng. Gần đống áo, những con vật trông giống như trừu chồng chất lên nhau.
Khi chúng tôi đang chăm chú nhìn, một người đàn ông trần truồng xuất hiện từ đám cỏ bên
phải chúng tôi. Khổ người trung bình, da nâu sang, nhưng tóc hồng thưa thớt và đôi mắt trắng
đục. Anh ta bước tới đống xác trừu, lôi ra một con, rồi nắm chân sau kéo lê xác con vật trở lại
đường cũ. Harkat và tôi, lẳng lặng theo Spits, lẩn lút trong cỏ, men theo rìa làng.
Khi chúng tôi tới nơi người đàn ông vừa mất dạng vào trong cỏ, tiếng ngân nga lại trổi lên.
Chúng tôi đi theo một đường mòn với nhiều dấu chân trên đất ẩm, tới một bãi đất trống nhỏ
hơn. Chính giữa bãi đất, ba mươi bảy người – tám đàn ông, mười lăm đàn bà và mười bốn đứa
trẻ - đứng quanh một cái ao. Tất cả đều trần truồng, da nâu, tóc hồng, mắt trắng.
Hai người đàn ông căng rộng bốn chân con trừu, treo trên cọc trong khi một người đàn ông
khác dùng một con dao bằng đá – hay xương - mổ toang bụng con vật. Máu và ruột lõm bõm
rơi xuống ao. Tôi vươn cổ nhìn nước ao đỏ ngầu. Họ giữ con trừu trên ao cho đến khi hết máu,
rồi quăng xác sang một bên, và ba người đàn bà bước tới.
Đó là ba bà già da nhăn nheo, vẻ hung dữ, với những ngón tay xương xẩu. Ngâm nga lớn
hơn tất cả những người chung quanh, ba bà già nhúng tay xuống, ngoáy đảo nước trong ao, rồi
lấy đầy ba bình da. Đứng dậy, họ vẫy tay ra hiệu cho những người kia tiến lên. Khi họ nối nhau
đi qua bà già thứ nhất, bà ta nâng cao bình, rót thứ nước đỏ máu lên đầu họ. Bà già thứ hai
nhúng ngón tay vào nước, vẽ một vòng tròn lên ngực mỗi người. Bà già thứ ba, nâng bình sát
môi cho họ uống thứ nước ghê tởm bên trong.
Sau khi hoàn tất, tất cả xếp thành một hang, nhắm mắt, ngâm nga nho nhỏ, trở lại làng.
Chúng tôi lẩn sang một bên, bám theo sau họ, vừa sợ vừa khó hiểu, nhưng quá sức rò mò.
Tới làng, mọi người mặc lại cái áo choàng xám, cắt trước ngực, để lộ ra dấu hiệu đỏ lòm
hình tròn. Chỉ một người vẫn trần truồng - một đứa bé trai, khoảng mười hai mười ba tuổi. Khi
tất cả đã mặc áo xong, họ xếp thành một hàng ba dài. Ba bà già cầm bình nước và đứa bé trần
truồng đi trước mọi người. Ngâm nga lớn tiếng, họ bắt đầu tạo thành một đám rước, tiến tới
ngôi đền. Chờ cho họ qua khỏi, chúng tôi âm thầm đi theo.
Tại lối vào đền, đám rước ngược lại, tiếng ngân nga tăng cao. Tôi không thể hiểu họ nói gì -
một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ - nhưng một từ được lặp lại và nhấn mạnh nhiều lần:
Kulashka
.
Tôi hỏi Harkat và Spits:

Biết Kulashka là gì không?


Không.

Harkat trả lời, còn Spits vừa định lắc đầu, bỗng trợn mắt hốt hoảng quì gối, nói:

Các vị thánh của thủy thủ!

Harkat và tôi trố mắt nhìn Spits, rồi ngước lên, chúng tôi thấy nguyên nhân là ông ta sợ hãi.
Miệng há hốc, chúng tôi lom lom nhìn sinh vật kinh khiếp nhất, mà một cơn ác mộng có thể tạo
ra, đang vặn vẹo tiến ra khỏi ngôi đền như một con giun đột biến.
Vật đó chắc đã từng là người, hay do người tạo ra. Nó có mặt người, nhưng đầu lớn gấp sáu
bảy người bình thường. Nó có cả chục bàn tay. Nhưng không có cánh tay, không đùi. Không bàn
chân. Chỉ tua tủa toàn bàn tay. Bề ngang của nó khoảng vài mét, dài có thể hơn mười mét. Thân
hình thuôn thuôn như một con ốc sên khổng lồ. Nó bò chầm chậm trên mấy trăm ngón tay,
nhưng trông nó hình như, nếu muốn, có khả năng di chuyển nhanh hơn. Xề xệ dưới mặt trái là
con mắt độc nhất, to đùng, đỏ ngầu như máu. Khắp đầu là những cái tai, quay ra đủ hướng.
Trên môi, hai lỗ mũi rộng, lồi ra. Da nó trắng lem nhem, xếp nếp thành những túi nhão nhẹt,
lủng lẳng mỗi khi nó di chuyển.
Bà Evanna đã đặt tên chính xác cho quái vật này. Đúng là một quái nhân. Không từ nào khác
có thể diễn tả những đặc tính kinh tởm của nó đơn giản và rõ ràng đến thế.
Khi hết bàng hoàng, tôi tập trung vào những gì đang diễn ra. Đứa nhỏ trần truồng đang quì
gối bên Quái Nhân, hai tay dang rộng, liên tục gào lên:
- Kalushka! Kalushka! Kalushka!
Khi đứa con trai gào lớn và mọi người ngân nga, Quái Nhân ngừng lại, ngóc đầu lên. Như
một con rắn, nó cong người ra sau, ưỡn cao thân trước. Từ chỗ núp tôi nhìn rõ mặt nó hơn. Mặt
nó đầy cục u, hình dáng xấu xí, như được một nhà điêu khác nặn bằng bột với hai bàn tay run
rẩy. Những búi đen nham nhở, giống da nổi khối u hơn là lông, mọc khắp người. Tôi không thấy
cái răng nào trong cái mồm há hốc, ngoài hai cái nanh cong.
Quái Nhân hạ sát thân mình, trườn quanh đoàn người, để lại phía sau một vệt mồ hôi nhầy
nhụa. Mồ hôi ứa ra từ những lỗ chân lông khắp người nó. Tôi ngủi thấy mùi mằn mặn, dù không
mạnh như mùi con cóc khổng lồ, nhưng cũng đủ để tôi phải bịt mũi và miệng để tránh nôn
mửa. Những người – chính xác hơn là những Kalushka – không quan tâm tới mùi đó. Họ quì gối
khi... thần linh? nhà vua? vật cưng?... của họ tiến qua và lau mặt họ bằng mồ hôi của nó. Thậm
chí, có người còn lè lưỡi liếm láp thứ mồ hôi đó.
Khi Quái Nhân trườn hết một vòng qua những kẻ sùng bái, nó trở lại thằng bé trên hàng
đầu. Lại ngóc cao đầu, nó vươn tới trước, thè lưỡi (một phiến màu hồng) nhỏ ra những giọt
nước dãi sền sệt. Nó liếm mặt thằng bé. Thằng bé không nao núng, nó mỉm cười hãnh diện.
Quái Nhân liếm thêm lần nữa, rồi cuốn thân mình khác thường quanh thằng bé, một lần, hai
lần, ba lần rồi xiết mạnh như cách một con trăn giết nạn nhân của nó. Khi thấy thằng bé tiến
vào trong lớp thịt đẫm mồ hôi của Quái Nhân, phản ứng đầu tiên của tôi là xông ra cứu, nhưng
tôi không thể. Hơn nữa, rõ ràng thằng bé không muốn được cứu. Nụ cười chứng tỏ nó coi đây là
một vinh dự.
Quái Nhân bóp chết thằng bé – nó chỉ bật kêu lên một tiếng nhỏ khi bị bóp vụn xương – rồi
nới lỏng vòng xiết, sửa soạn nuốt chửng nạn nhân.
Một lần nữa, nó hành động như một con rắn. Hàm dưới mềm có thể há rộng đủ để quái vật
ngoạm gọn cả đầu và hai vai thằng bé. Dùng lưỡi, hàm, mấy cái tay, nó từ từ đẩy toàn thân
thằng bé qua cái họng háu ăn.
Trong khi Quái Nhân ăn tươi nuốt sống đứa trẻ, hai người đàn bà đi vào đền, rồi trở ra với
hai bình thủy tinh dày, có nắp, cao chừng bốn mươi phân. Mỗi chai chứa khoảng ba phần tư
một chất lỏng màu đen – chắc đó là
thuốc thánh
của bà Evanna.
Khi Quái Nhân ngấu nghiến xong đứa trẻ, một người đàn ông bước tới, cầm một chai, lại
gần Quái Nhân, nâng cao chai và ngâm nga nho nhỏ. Quái Nhân lạnh lùng nhìn hắn. Tôi tưởng
nó định giết luôn người đàn ông này. Nhưng rồi, nó cúi đầu há cái miệng khổng lồ. Người đàn
ông mở nắp chai, đưa sát một trong hai cái nanh của nó. Đặt đầu nanh vào trong chai, hắn ép
mạnh thành chai vào nanh. Một chất nhầy từ nanh ứa ra, nhỏ giọt vào chai. Tôi đã từng thấy
Evra nặn nọc rắn nhiều lần,giống hệt như thế này. Khi chất lỏng không tiết ra nữa, người đàn
ông đóng nắp chai, đưa cho người đàn bà, lấy chai thứ hai và chuyển qua cái nanh kia. Sau khi
hoàn tất công việc, hắn lùi một bước và miệng quái vật khép lại. Người đàn ông trao lại cái
chai, rồi trở lại với cả nhóm, bắt đầu cùng lên giọng ngân nga tụng niệm. Quái nhân quan sát họ
bằng con mắt đỏ độc nhất. Cái đầu-người-không-là- người lắc lư theo tiếng ngân nga. Rồi quay
người, nó chạy bằng những ngón tay, trở vào đền. Mọi người xếp hàng ba, theo sau, ngân nga
nho nhỏ, rồi biến vào trong bóng tối âm u của đền. Chúng tôi run rẩy rút lui, bàn tán về quang
cảnh độc ác vừa chứng kiến.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Những câu chuyện kỳ lạ của Darren Shan.