Chương 2: Tướng quân miền biển Lê Chân


Số từ: 4068
Nguồn: Nhà xuất bản Dân trí
Người con gái ấy tóc đen như mun, lông mày đen nhánh và có nước da hồng như hoa phù dung. Người con gái ấy đậm và chắc. Tên nàng là Lê Chân.
Nước biển xanh màu rêu. Nhưng Lê Chân nghĩ rằng biển đã hoà nước mình với máu con người. Máu những người Âu Lạc đã đổ ra tan trong sóng biển. Đứng giữa những tảng đá lớn như bầy voi quây quần, Lê Chân nhìn không chớp mắt người con trai vừa bị sóng biển đánh dạt vào.
Người ấy chống tay cố gượng dậy. Lê Chân đỡ lên cho ngồi tựa vào tảng đá, rồi nàng bước lên một mỏm đá cao, khum bàn tay kề miệng và cất tiếng hú.
Hú tới tiếng thứ ba thì có tiếng hú xa đáp lại.
Những người mới đến đều đeo vòng tai bằng đá, cả trai và gái. Họ cởi trần, cầm lao nhọn. Họ đưa người mà biển cả mang đến cho họ đặt vào một hốc đá rộng, lấy cỏ khô đốt lửa lên, và yên lặng chờ. Từ lúc đến theo tiếng hú của Lê Chân, họ cứ lặng lẽ làm, không ai nói một tiếng.
Người của biển là một anh con trai lực lưỡng, trán có một vết sẹo nằm chéo từ chân tóc bên phải tới đầu lông mày trái. Tay người ấy có dây buộc, loại dây chão dùng buộc thuyền lớn. Một bên chân hơi teo. Khi người ấy bắt hơi lửa ấm mở mắt ra nhìn xung quanh, cặp mắt đen thẳm ngơ ngác, đượm vẻ lo sợ.
Mọi người vất thêm cành khô vào đống lửa, lửa bốc cao, lửa nhảy nhót và mọi người đều thấy vui.Chàng là một trong số những người bị giặc bắt đi mò ngọc trai, đi đánh cá mực và mò san hô cho chúng. Họ đang làm ở đảo Ngọc, và tám người lừa khi biển động và gió mùa từ Đông Bắc thổi về đã rủ nhau trốn trong đêm qua.
Lê Chân bảo mọi người xung quanh:
- Hãy đưa người của biển về làng của chúng ta. Anh ấy sẽ ở lại và là người của làng!
Làng mới chưa có tên. Từ ngày làng đặt chiếc cột đầu tiên trên nền cát cho tới hôm nhận được người của biển đưa vào vừa tròn ba tháng. Tối hôm đó, làng họp nhận người mới và đặt tên làng.Họ đặt tên làng là An Biên, vì An Biên là tên làng cũ của họ và cũng là của chủ làng bây giờ: Lê Chân.
Làng mới ven biển chỉ là sáu túp lều nhỏ, cột lều mái lều là những thân cây, cành cây còn nguyên vỏ hoặc đẽo sơ sài. Làng nằm dựa rừng, núp vào rừng và đá lớn, và cát trải trắng làng, gió mặn thổi suốt ngày đêm qua làng, sóng biển ì ầm không bao giờ dứt tiếng hát với làng, nói chuyện với làng, ru làng ngủ và đánh thức làng dậy, gọi làng ra với biển.
Biết bao nhiêu công việc của một làng mới, và việc quan trọng nhất là làm ra lương ăn. Nơi đây chỉ có cát và sóng biển, có đá và cây rừng. Núi đá phủ cây từng mảng chạy ra biển như muốn chặn đứng biển lại. Biển tung sóng mạnh vào đá, thách thức.
Người con trai được Lê Chân cứu tên là Vạn. Vạn thuộc các mùa cá biển, các loài cá biển, thuộc các gỗ rừng, cây rừng ở quê cũ Đông Triều núi cao, rừng già. Lê Chân giao cho Vạn hướng dẫn mọi người đóng thuyền đóng mảng ra lộïng ra khơi, may buồm và dệt lưới. Lê Chân nói với mọi người : "Biển cả sẽ nuôi chúng ta như mẹ hiền nuôi các con mình".
Mười tám người dân làng mới toàn người trẻ tuổi nói với Lê Chân :
- Làng ta ít người quá ! Ít người thì không làm gì nổi. Làng ta không có người già. Không có người già là không có người dạy dỗ nên khôn.
Lê Chân nói:
- Các người nói đúng. Chúng ta hãy về quê cũ rủ về đây họ hàng và những người khổ cực. Chúng ta hãy tìm đón những người của biển đưa đến và tiếp đón tất cả những trốn tránh, lang thang.
Ngày tháng qua, những túp lều mới mọc lên. Ban đêm có tiếng chó sủa, sớm mai có tiếng gà gáy. Buổi chiều, trẻ con ríu rít đi đón lưới. Quanh làng trồng khoai, trên núi trồng lúa. Tết năm ấy, Lê Chân nói với mọi người : "Chúng ta ăn ba cái tết ở đây rồi. Làng ta đã ba tuổi. Năm đầu, tết không có bánh tét và thịt lợn. Bây giờ chúng ta có cả". Mọi người đều vui và một cụ già nhất làng nói : "Nàng chủ đã dựng lên làng này từ năm nàng 19 tuổi. Nàng là người vất vả nhất trong chúng ta, người lo nghĩ nhất làng, người con gái tài giỏi của rừng và biển. Sớm mai làng hãy ra khơi đánh mẻ cá đầu năm mừng tuổi chủ làng và lấy may cho cả làng".
Mười chín chiếc buồm in hình đen thẫm trên nền trời xanh. Chân trời đông hửng dần màu đỏ lửa và da cam. Mặt biển chuyển dần từ đen sang xanh lam như màu da trời. Trời biển một màu xanh thẳm. Đoàn thuyền cưỡi sóng ra khơi.
Cụ già nhất làng đã nói đúng. Lê Chân là người vất vả và lo nghĩ nhất làng, nhưng Lê Chân còn là người kiên nghị nhất. Khi 18 người trai gái theo nàng tới đây, họ chỉ thấy cát trắng và sóng biển. Cát và sóng biển thờ ơ với họ, và hình như còn đe dọa họ. Sống ở nơi đây? Bằng cách nào ?
Một vụ đói đã qua và thiếu đói kéo dài. Không có lúa, không có thịt và muối. Cát và núi đá không cho họ gạo. Biển cả bao nhiêu cá và của chìm nhưng nó đòi trả bằng máu con người.
Những lúc khó khăn, Lê Chân ngồi bên bờ sóng và nghĩ. Nàng thấy những con dã tràng xe cát ngày đêm không mỏi. Những con vật tí ti da màu cát ấy không sợ sóng biển hung dữ cứ xóa đi xóa mãi những công trình của chúng. Những con vật tí ti ấy không chịu thua biển cả. Và hóa ra chính là biển cả đã nhọc công mất sức vì không thắng nổi chúng, những con dã tràng bé tí tẹo.
Biển động, nuốt bớt số dân ít ỏi của làng mới. Mùa lúa nương đầu tiên không thu hoạch nhiều được vì không có thức gì ăn. Bão biển kéo đỗ những túp lều mảnh dẻ và xóa đi màu xanh của khoai và bí mới trồng.
Những người ở làng mới nhớ quê cũ làng xưa, nhớ mừi rơm tháng chín, mùi cỏ tháng giêng, nhớ làn khói trên những mái tranh và những cánh cò trắng liệng nắng lóe sáng.
Thế nhưng họ vẫn theo Lê Chân. Người con gái chủ làng nói với họ về những con dã tràng bé tí tẹo và nói lên những món nợ máu phải tính toán với quân đô hộ ngoại tộc. Họ theo Lê Chân và sẽ theo nàng tới cùng trời cuối đất bởi vì họ không thể sống chung một bầu trời với kẻ thù.
Và những người cũ ở làng mới kể với những người mới đến về người con gái là chủ làng.
Nàng đẹp và khỏe. Mùa xuân, con trai các nơi tìm đến hát với nàng và nàng thì chẳng hát với trai nào. Nàng chỉ hát một mình và hát với các bạn gái của nàng. Khi sáu người con trai không nhấc nổi đòn khiêng một cây thủy tùng, nàng ghé mình vào và cây gỗ nhẹ đi trên vai những người trai lực lưỡng. Có ai cấy nhanh hơn nàng ? Và có ai gói bánh chưng ngày tết khéo hơn nàng ? Bánh tét nàng gói tròn như ống mai ống vầu, đường sống lá chạy thẳng tắp chia đôi chiếc bánh. Nàng ngủ khi con cọp bắt đầu lần rừng và nàng thức trước khi con gà chuồng gọi mặt trời dậy.
Hãy nhìn nàng đi săn. Chiếc áo màu lá rừng bó sát người và chiếc váy ngắn gợn sóng trên đầu gối, tay nàng cầm lao và lưng đeo lao. Khi tiếng tù và rúc lên, nàng dẫn đầu đoàn người săn, bước chân thoăn thoắt. Theo hiệu lệnh của nàng, những chiếc lưới mở ra, và con thú hồng hộc chạy, con lợn rừng nanh sắc như mác xông thẳng vào nàng. Nàng chạy xuống mé chân rừng và ngoắt mình lại phóng một mũi lao. Lưới khép lại. Đẩy, nàng là người đã dử con thú vào lưới và phóng mũi lao đầu tiên đánh ngã thú. Mọi người nhảy và hát quanh con vật bị thương. Con lợn rừng có đôi nanh sắc như hai lưỡi kiếm nằm chềnh ềnh như một quả gò.
Các tên quan đô hộ trong địa hạt đều biết tiếng nàng và lui tới nhà nàng. Nhưng chúng biết bắt cọp dễ hơn bắt nàng. Và chúng " tâu "với Tô Định về Lê Chân, người con gái đẹp nhất Đông Triều, tóc đen như mun, mày đen như cánh nhạn và nước da hồng như hoa phù dung.
Khi viên thừa sai Phủ thái thú đến đưa lễ vật và nói với ông Lê Thái Bảo xin nàng về "hầu hạ" quan thái thú, ôn đã khéo léo lựa lời từ chối. Ba tháng sau Lê Thái Bảo bị bắt và bị giết. Lê Chân trốn được. Nàng tới mồ mẹ khóc lóc khấn xin mẹ phù hộ trả được thù nhà và cùng những người thân tín ra đi...
Đoàn thuyền ra khơi đầu năm đã trở về. Biển trao lễ vật cho đoàn thuyền đem về đưa nàng, người con gái kiên cường, người chủ làng anh hùng đang mài giáo cho sắc.
Nhà ở đây mái chấm gần sát đất, cửa ra vào ở đầu chái nhà. Cả làng chung một giếng. Lưới dăng quanh làng. Ban ngày làng quạnh vắng, chỉ chiều mới đem lại tiếng ồn ào, tiếng người và ngọn lửa ấm cúng. Nhưng làng mỗi ngày một đông vui hơn và bây giờ là năm thôn năm giếng nước ngọt. Nhà chủ làng ở thôn Giữa, bốn thôn Đông, Nam, Đoài, Bắc vây xung quanh. Thôn Bắc có lò rèn, thôn Nam vá lưới. Nhà chủ làng có treo đồi mồi trên vách và trống da trâu bên cửa. Làng có một ngôi đình nhỏ mái tranh thờ chung cả Sơn thần và Ông cá voi. Tháng giêng làng mở hội có đấu vật, trai gái kéo dèo (kéo co), tung quả còn qua vòng tre. Giết trâu tế thần, chủ làng tung búa cho trai làng cướp đánh đầu trâu, mổ trâu lấy da làm nồi nấu thịt.
Chủ làng lo mọi việc, lo mở rộng làng, lo cho làng thêm người thêm của. Cái lo nhất lúc này là lo đối phó với kẻ thống trị dị tộc.
Lẽ nào từ nay trai làng lại phải lui tới ở năm ở tháng trên các hòn đảo xa vắng để mò ngọc trai, săn cá biển và tìm san hô, sò huyết nộp cho kẻ thù?
Lẽ nào từ nay dân làng phải leo lên những vách đá cheo leo heo hút chìa ra biển để bắt những ổ yến về cho giặc tiệc yến phè phỡn với nhau trên xương máu của dân mình?
Lẽ nào từ nay lại phải nộp lúa nộp mình cho giặc? Và những ai sẽ từ bỏ An Biên đi theo đoàn cống phẩm vượt nơi "phân mao cỏ rẽ "về tới Tràng An?
Bọn chúng sẽ lại mò tới An Biên, nhâng nháo, hạch sách, nạt nộ tìm cách vét của hiếp người!
Con trăng mùa xuân treo cao trên bầu trời yên tĩnh gọi nước triều lên. Triều dâng ào ào cuộn sóng xô bờ. Đêm rộng vang tiếng biển. Tiếng biển cả đầy ngập không gian.
Lòng Lê Chân lúc này còn xao động hơn biển lớn.
Lê Chân vừa là người chủ làng vừa là người thủ lĩnh. Khi nàng mới lần đầu đặt chân tới đây, nàng chỉ gặp biển lớn và cát trắng. Ngày nay An Biên đã có lúa có khoai, có trâu có lợn, có bãi xú, có thuyền đi khơi, có mảng đi lộng.
Nhưng nàng đến nơi đây không phải là để trốn kẻ thù mà là để đánh chúng.
Đánh bằng cách nào?
Đã năm nay, từ khi lễ mồ mẹ và khấn vong bố ra đi, nàng vẫn nghĩ tới điều đó. Trả thù cho mình và cho nhân dân bằng cách nào?
Câu hỏi nóng bỏng đó lúc này như ngọn lửa cháy đỏ trong đầu óc nhữngngười trách nhiệm ở An Biên.
Sau khi bàn đi tính lại, mọi người đồng lòng cử cụ Họp, cụ già 70 tuổi có đôi lông mày trắng như bông và nước da đỏ như đất nung làm chủ làng thay Lê Chân để giao dịch với các quan chức của giặc. Lê Chân là con gái, gặp bọn kẻ cướp hiếu sắc tham lợi hàng ngày, rõ ràng là không tiện.
Cụ già Họp chỉ là người đứng ra giao dịch với giặc, còn mọi việc quyết định vẫn do Lê Chân.
Và một đội nghĩa dũng quân ra đời do Lê Chân đứng đầu với một chức mà dân tự đặt ra để phong cho Lê Chân : Đô lĩnh ! Cái chức ấy không thấy có trong hệ thống các võ chức hiện hành. Trong công việc hàng ngày, mọi người vẫn gọi Lê Chân là chủ làng hay chủ tướng.
Nghĩa dũng quân của An Biên ra đời chỉ có 31 người trong đó có 8 cô gái khỏe mạnh được chọn làm nữ vệ quân. Em gái họ Lê Chân là Lê Ngà, con ông chú cũng ở trong số này. Còn những nghĩa quân nam đều là những người được tuyển lựa kỹ càng, vừa gan dạ, vừa khỏe mạnh.
Bây giờ Lê Chân phải lo cho nghĩa quân tập dượt, lại lo gạo cho dân làng ăn lâu dài. Nghĩa quân vẫn đi biển, vẫn cắt cú nhưng tối tối lại cùng nhau tập vật, tập đao, tập múa khiên, tập đánh gậy. Họ tập rất hăng, rất say, và họ dạy lẫn nhau, ai biết thế nào dạy thế ấy.
Lê Chân lo nhất là khoản gạo. Đánh giặc lâu dài phải có gạo. Làng biển không có gạo, vẫn lấy cá đổi gạo. Lại còn phải tìm một chỗ nào cho nghĩa quân ẩn náu, bởi không thể đem cái làng biển An Biên nhỏ bé và trống trải này ra để chọi nhau với giặc.
Còn dân làng ? Dân chỉ thấy sung sướng khi đội nghĩa quân của mình ra đời. Đêm nào dân cũng đến xem " quân mình " tập, dân hởi lòng hởi dạ nhìn " quân mình "khoẻ biết bao, nhanh nhẹn biết bao, và mọi người trầm trồ khen anh này lăn khiên khéo, anh kia có đường gậy mới kín làm sao! Lê Chân sợ việc lộ, bèn ra lệnh cho dân không được xem "quân mình" luyện tập nữa, và nói rõ cho mọi người biết phải kín đáo như thế nào, phải cẩn thận như thế nào mới có thể chống chọi được với kẻ thù hung ác và xảo quyệt.
Làng biển lúc này vừa phải chống đỡ với những yêu sách nhũng nhiễu của giặc, vừa lo tìm cách đánh giặc và phòng giặc đánh.
Chính Lê Chân, người chủ làng gái 22 tuổi phải gánh những mối lo nặng nề đó.
Và cả làng cùng lo với Lê Chân.
Gió biển gầm suốt đêm. Gió mặn cuồng loạn chạy bốc cát cuộn mù trời và cát đập rào rào vào những túp lều mái úp sát đất. Gió thổi ù ù như có hàng ngàn chiếc cối xay đang cùng quay tít. Gió thổi thốc thổi quét, gió lồng lên, gió hồng hộc chạy, rít lên, xoáy tít rồi quật mạnh.
Và biển cả cũng giận dữ nổi sóng, sóng vỗ tung trời.
Không gian chuyển động trời đất rung lên.
Rồi bình minh đến trên những xe mây hồng phớt, da cam và đỏ lửa. Nào ai nhớ đích xác tiếng gầm dữ tợn của gió mặn và biển cả tắt tự lúc nào ? Có lẽ tất cả cảnh tàn phá và nổi hoảng sợ đêm qua chỉ là một giấc mơ ? Trời đất trong, biển rất xanh, và đàn hải âu lại tung những chiếc cánh trắng đùa với sóng biển.
Nhưng đâu có phải là cơn ác mộng ! Kìa làng biển đổ sập, úp sụp, chìm ngụp trong gió bão, làng biển nằm kia, tơi tả.
Bình minh đã ngạc nhiên biết bao khi ánh sáng trong trẻo hiền hậu của mình gặp những mái nhà bị quăng xa, bị xé ra, những con người ướt át, lấm láp, bơ phờ, mắt trĩu lo âu, mắt tối xầm giận dữ.
Lê Chân tóc chẩy xõa trên lưng, ướt bết vào lưng, Lê Chân người chủ làng kiên cường ấy lúc này đứng giữa đổ vỡ, lòng không khỏi bàng hoàng.
Họ lại dựng làng. Và những con dã tràng màu cát, bé tí ti cũng lại lăng xăng vê cát làm những căn nhà tí tẹo của chúng.
Con người không chịu thua thiên nhiên. Họ không chịu như những con dã tràng cứ để cho thiên nhiên phá mãi những công trình của mình. Họ học tập tính kiên nhẫn lạ lùng của dã tràng và khác hẵn với dã tràng là họ quyết làm cho những công trình của họ có thể chống được với tàn phá của thiên nhiên.
Làng mới lại cười với nắng biển gió biển, làng mới lại ấm tiếng người, hơi người. Làng trồng rất nhiều cây ngăn gió. Làng làm nhà chạy dọc với chiều ngang bờ biển để bớt sức gió phá. Mỗi nhà có một cái hố nhỏ, và các vò, chóe đựng lúa, đỗ được đặt xuống đó.
Đội nghĩa quân lại ra đi, đi để đón giặc bằng những mũi giáo của căm thù.
Nghĩa quân tìm giặc mà đánh. Sức còn mỏng, nghĩa quân không thể đánh thành lũy và đồn trại kẻ thù. Nghĩa quân đón những con đường giặc đi, đón những đoàn chuyển lương chuyển thuế, những đoàn cống phẩm, những đoàn giải tù, giải phu mà đánh.
Giặc tiến qua một khu rừng trúc. Đi đầu là một toán lính đô hộ cầm giáo dài, mang cung tên. Xe vận tải đi, theo sau chở toàn lúa mới, chúng chuyển về huyện thành. Một tên hộ tướng cưỡi trên mình ngựa tay cầm đại đao đi quãng giữa và rồi lại xe, lại lính.
Chúng tiến sâu vào rừng trúc, mệt mỏi, vội vã. Chúng thúc giục và quất roi vào mình những người phu đẩy xe. Tên tướng cưỡi ngựa mắt gườm gườm nhìn quanh. Chúng không sợ hãi gì. Rừng này không có thú dữ và vùng này vẫn là vùng an toàn. Dân đói kéo nhau đi ăn cướp thì không dám dại dột xông vào đoàn quân lương của huyện ; vả lại những toán cướp đường như thế ở vùng này cũng chưa có bao giờ.
Nhưng bỗng tiếng hét tiếng hò reo cất lên vang dậy, tù và rúc inh ỏi và những người mai phục từ mặt đất bốc lên, lao tới vung giáo mác, lia đao xông thẳng vào đoàn lính áp lương. Chỉ chốc lát, tên tướng đô hộ đã nằm lăn trên mặt đất. Bọn lính còn sống sót chạy thục mạng.
Ba chục xe lúa mới về với nghĩa quân cùng hơn trăm người phu áp tải.
Đó là trận đầu, chiến công đầu của làng biển, chiến công đã làm nức lòng những con người nung nấu căm thù bao lâu nín nhịn. Chiến công ấy có lẽ chỉ là một chiến công nhỏ nhưng nó đã mở đầu một cuộc vùng dậy của những người bị áp bức, cuộc vùng dậy đầy sức mạnh căm thù của những người dân Âu Lạc miền duyên hải quật cường.
Từ làng này sang làng khác, từ những làng ven biển vào tới những động và trại trong núi, người ta kể với nhau những chuyện thần kỳ về Lê Chân, người con gái anh hùng và về đoàn quân dũng mãnh của người con gái đó. Trận này tiến trận khác, đoàn quân Lê Chân ngày càng dày dạn trong chiến đấu, ngày càng lớn mạnh và giống như biển cả không bao giờ lặng sóng, đoàn nghĩa quân không bao giờ nghỉ bước chân chiến đấu của mình.
Giặc khiếp hãi Lê Chân. Chúng đặt cho Lê Chân một cái tên: "Con cá kình biển Đông". Cá kình tung sóng quẫy mình, nền đô hộ của giặc miền duyên hải rung rinh chao đảo và như ngụp chìm dưới những làn sóng mạnh.
Dưới ngọn cờ Lê Chân, nhân dân miền biển vùng dậy.
Lê Chân bây giờ không còn những nét non nớt trên gương mặt trẻ trung. Da nàng đã đen sạm vì gió biển, nắng biển. Gương mặt nàng gầy đi và nghiêm nghị trầm tư qua bao cuộc chiến đấu gian khổ.
Nghĩa quân đi nơi này nơi khác, đi đến những làng ven biển và những trại trong rừng. Đã nhiều lần, nghĩa quân bị giặc vây lùng ráo riết, phải đào củ dém củ rạng để ăn. Làng An Biên bị giặc vây quét, lùng sục, bắt bớ, phá phách. Nhưng biển cả có bao giờ lặng sóng?
Nhiều chúa động và chủ làng tìm đến xin quy phụ Lê Chân. Vạn và Ngà trở nên những phó tướng được sĩ tốt yêu kính. Lê Chân đã tổ chức được quân doanh chia làm năm đạo: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Thực ra thì chưa bao giờ cả năm đạo cùng được họp mặt, mà chỉ có các vị đốc lĩnh các quân là được gặp nhau.
Mùa xuân năm ấy, Lê Chân chỉ huy các quân vây đánh thành châu Bản Lập, chém giết và bắt hơn một nghìn quân tướng đô hộ. Nghĩa quân chiếm giữ thành trì.
Những người con của làng biển An Biên, những người lính chiến đầu tiên của nghĩa quân vùng biển Đông xúc động đến chảy nước mắt khi thấy nữ soái của mình đứng trên tướng đài, tươi cười nhìn cả năm quân chỉnh tề trong ngày đại lễ.
Những người con của làng biển An Biên thấy nữ chủ tướng cười, với những giọt nước mắt long lanh trên gò má. Họ biết rằng cũng như họ, nữ chủ tướng Lê Chân đang nghĩ đến cái làng nhỏ bé với sáu mái lều con ven biển, nghĩ đến đội nghĩa quân đầu tiên 31 người thiếu áo mặc, thiếu lương ăn, nghĩ đến những ngày đào củ trong rừng, những đêm biển gầm phá tan những chiếc mảng của những người con tìm sống trên biển cả.
Và họ còn biết rằng cũng như họ, lúc này nữ chủ tướng nghĩ đến những người lính chiến đã ngã xuống, máu thịt gửi đất chiến trường chẳng bao giờ còn trở về được để dự lễ mừng công.
Những người đã đổ máu đào vì đất nước ấy sẽ cùng họ theo Lê Chân bước vào những trận đánh mới cho tới khi nước Âu lạc trở về với người Âu Lạc (1).
Chú thích:
(1) Nhân dân thời xưa đã dựng đền Nghè ở An Biên (Hải Phòng) để mãi mãi tưởng nhớ Lê Chân, người phụ nữ anh hùng.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Nữ Tướng Thời Trưng Vương.