Chương ba mươi hai
-
Nửa Mặt Trời Vàng
- Chimamanda Ngozi Adichie
- 3974 chữ
- 2020-05-09 01:32:55
Số từ: 3962
Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà
NXB Lao Động
Nguồn: vietmessenger
Trước hết, Ugwu muốn được chết. Không phải vì cái nóng trên đầu, cái nhớp nháp của máu trên lưng, cái đau trên mông hay cái thở hụt hơi của hắn mà vì cơn khát. Cổ họng hắn như bị thiêu đốt. Mấy người lính bộ binh khiêng hắn đang nói về chuyện cứu hắn sẽ cho họ một lý do chính đáng để đào ngũ: họ hết đạn và họ gọi cứu viện mà không có ai đến trong khi kẻ địch đang tiến tới gần. Nhưng cơn khát bịt lỗ tai của Ugwu và tiếng họ nghẹn lại. Hắn đang ở trên vai họ, được băng bó bằng áo của họ, cơn đau dội khắp toàn thân hắn lúc họ bước đi. Hắn thở gấp, khò khè hít nhưng vẫn không đủ không khí. Cơn khát làm hắn buồn nôn.
"Làm ơn cho tôi ít nước", hắn thều thào nói. Họ không cho chút nước nào; nếu còn đủ sức, hắn sẽ trút nhũng lời rủa xả thậm tệ. Nếu có súng, hắn sẽ bắn họ và tự bắn chính mình.
Bây giờ, trong bệnh viện, nơi họ bỏ hắn lại, hắn không còn muốn chết nữa nhưng rồi hắn sợ là mình sẽ chết; có quá nhiều người bị bỏ mặc xung quanh hắn, trên chiếu, trên nệm, trên nền nhà trần trụi. Có quá nhiều máu ở khắp nơi. Hắn nghe tiếng thét chói tai của những người bị thương đang được bác sĩ khám cho và biết là mình không phải trường hợp nặng nhất, ngay cả khi hắn cảm thấy máu của mình chảy ra, ban đầu ấm rồi lạnh dần dính bết vào người. Máu lấy đi ý chí của hắn; hắn kiệt sức không thể làm bất cứ cái gì và khi người y tá vội vàng đi qua chỗ hắn mà không thay băng cho hắn, hắn không gọi họ. Hắn cũng không nói gì cả khi họ đến đẩy hắn sang một bên, chích cho hắn một mũi thuốc không có vẻ gì đặc biệt. Trong những lúc mê sảng, hắn nhìn thấy Eberechi mặc cái váy bó sát và ra hiệu cho hắn nhưng hắn không hiểu được. Trong những lúc yên tĩnh, cái chết hoàn toàn chế ngự hắn. Hắn cố gắng tưởng tượng ra một thiên đàng, có Chúa ngồi trên ngai nhưng không được. Tuy vậy, trong một cảnh tượng khác được thay vào đó, cái chết chỉ là một sự im lặng vô tận, dường như không thể xảy ra. Có một phần nào đó trong con người hắn đã mơ, hắn không chắc đến bao giờ thì cái phần đó sẽ lui vào sự im lặng vô tận. Cái chết sẽ là một sự thấu hiểu hoàn toàn trọn vẹn nhưng điều làm hắn sợ nhất là không biết cái gì đang đợi hắn ở phía trước.
Vào những lúc nhập nhoạng tranh tôi tranh sáng, người từ Caritas đến, một linh mục và hai người phụ việc mang theo lồng đèn thắp bằng dầu hỏa, cho binh sĩ sữa và đường, hỏi tên họ và hỏi họ từ đâu đến.
"Nsukka", Ugwu nói khi được hỏi. Hắn nghe giọng của linh mục có vẻ hơi quen, nhưng tất cả mọi vật xung quanh đều có vẻ quen quen: Máu của người đàn ông bên cạnh có mùi cũng giống như của hắn, cô y tá đặt bát cháo loãng akamu bên cạnh hắn cười cũng giống như Eberechi.
"Nsukka? Tên em là gì?" Vị tu sĩ hỏi.
Ugwu cố gắng định thần nhìn khuôn mặt tròn, cặp mắt kính, cái cổ áo nâu. Đó là Cha Damian. "Tên tôi là Ugwu. Tôi thường hay đến Nhà thờ Thánh Vincent de Paul với cô chủ Olanna của tôi."
"À!" Cha Damian siết tay hắn, Ugwu nhăn nhó. "Em chiến đấu cho lý tưởng? Em bị thương ở đâu? Bọn chúng đã làm gì em?"
Ugwu lắc đầu. Một phần bên mông của hắn đang đau dữ đội; vết thương và con đau giết dần giết mòn hắn. Cha Damian đút một ít sữa bột vào miệng hắn và đặt một túi đường với sữa bên cạnh hắn.
"Tôi biết Odenigbo đang làm việc ở Bộ Nhân lực. Tôi sẽ nhắn cho họ", Cha nói. Trước khi đi, ông đeo vào cổ tay Ugwu một chuỗi hạt bằng gỗ.
Chuỗi hạt vẫn còn đó, hơi mát, cọ vào da hắn, khi Richard gọi vài ngày sau.
"Ugwu, Ugwu." Màu tóc vàng và màu mắt lạ lờ mờ trước mặt hắn, Ugwu không nhận ra người này là ai.
"Em có nghe thấy tôi gọi không, Ugwu? Tôi đến đón em." Chính là giọng đã hỏi Ugwu về hội làng của hắn mấy năm trước. Lúc ấy Ugwu đã nhận ra giọng của ai. Richard cố giúp hắn đứng lên; cơn đau xuất phát từ bên hông và mông, tỏa lan và chạy suốt lên đầu, lên mắt. Ugwu kêu lên đau đớn, nghiến răng, cắn môi và nuốt máu của mình.
"Nhẹ nhẹ thôi, nhẹ nhẹ thôi", Richard nói.
Chuyến xe về, đường dằn xóc, nằm đằng sau chiếc Peugeot 404 và nắng chói chang chiếu lên kính xe làm Ugwu tự hỏi không biết có phải mình đã chết và đây là chuyện xảy ra ngay sau khi người ta chết: một cuộc du hành bằng xe không bao giờ chấm dứt. Cuối cùng, họ dừng ở một bệnh viện không có mùi máu mà chỉ có mùi thuốc khử trùng. Chỉ khi Ugwu nằm trên một cái giường thực thụ, lúc đó hắn mới nghĩ, có lẽ mình sẽ không chết.
"Mấy tuần qua chỗ này đã bị đánh bom rất nhiều, mình sẽ rời khỏi đây ngay sau khi bác sĩ khám cho em. Anh ta chưa phải là bác sĩ thực thụ – anh ta đang học năm thứ tư đại học khi chiến tranh bắt đầu – nhưng anh ta giỏi lắm." Richard nói. "Olanna, Odenigbo và Bé By đang ở với chúng tôi tại Orlu kể từ khi mất Umuahia, dĩ nhiên Harrison cũng ở đó. Kainene cần có người giúp một tay ở trại tị nạn, vì thế em phải cố mà khỏi cho nhanh."
Ugwu có cảm tưởng Richard nói nhiều quá, nếu muốn giúp hắn, có lẽ nên để cho hắn đừng thiếp đi khi bác sĩ đến. Nhưng hắn rất biết ơn tiếng cười của Richard, cái vẻ bình thường của tiếng cười làm cho hắn trở lại với sức mạnh của quá khứ, trở lại xứ sở nơi Richard viết những câu trả lời của hắn vào trong quyển sổ có bìa bằng da.
"Chúng tôi rất kinh ngạc khi nghe tin em còn sống và đang ở bệnh viện Emekuku, dĩ nhiên, chúng tôi quá đỗi vui mừng, ơn Chúa là chúng tôi không tổ chức cho em một đám tang tượng trưng, mặc dù cũng có một buổi lễ tưởng niệm trước khi Umuahia thất thủ."
"Mi mắt của Ugwu hấp háy. "Không lẽ người ta nói là em đã chết, thưa ông?"
"Đúng vậy, họ đã nói thế đấy. Đơn vị của em tưởng là em chết trong chiến dịch đó."
Mắt của Ugwu khép lại, không chịu mở ra cho dù hắn cố gắng. Cuối cùng hắn cũng mở được mắt ra và Richard đang cúi xuống nhìn hắn. "Ai là Eberechi?"
"Thưa ông?"
"Em cứ nhắc tên Eberechi."
"Một người em quen, thưa ông."
"Ở Umuahia?"
"Vâng, thưa ông."
Ánh mắt của Richard dịu lại. "Và em không biết bây giờ cô ấy ở đâu?"
"Không ạ."
"Em mặc bộ quần áo này từ lúc bị thương?"
"Vâng, thưa ông. Mấy người lính bộ binh cho em quần và áo."
"Em cần phải tắm giặt."
Ugwu mỉm cười. "Vâng, thưa ông."
"Em có sợ không?" Richard hỏi, một lúc sau.
Hắn trở mình; đau khắp toàn thân và không có một chỗ nào dễ chịu cả. "Sợ ấy ạ?"
"Ừ."
"Đôi khi, thưa ông." Hắn ngập ngừng. "Em tìm thấy một quyển sách trong trại lính. Em rất buồn và tức giận thay cho người viết."
"Quyển gì thế?"
"Một cuốn tiểu sử tự thuật của một người Mỹ da đen tên là Frederick Douglass."
Richard viết vào một cái gì đó. "Tôi sẽ dùng chuyện này trong lời giới thiệu quyển sách của tôi."
"Ông đang viết một quyển sách?"
"Đúng thế."
"Quyển sách ấy nói về cái gì vậy, thưa ông?"
"Chiến tranh, những gì xảy ra trước chiến tranh và cả những chuyện không nên xảy ra. Tên nó sẽ là Thế Giới Im Lặng Khi Chúng Tôi Chết."
Sau đó, Ugwu lẩm nhẩm lặp lại với chính mình: Thế Giới Im Lặng Khi Chúng Tôi Chết. Hắn bị ám ảnh bởi câu nói ấy, cảm giác xấu hổ, nhục nhã xâm chiếm hắn. Câu nói ấy làm hắn nghĩ đến cô gái trong quán rượu, gương mặt răn rúm của cô ta và nỗi oán hận trong mắt cô ta lúc cô nằm ngửa trên nền nhà bẩn thỉu.
Ông Chủ và Olanna ôm chầm lấy Ugwu nhưng rất nhẹ nhàng để không làm hắn đau. Hắn thấy rất ngượng ngùng vì trước đó cả hai chưa bao giờ ôm hắn.
"Ugwu", Ông Chủ nói, lắc lắc đầu. "Ugwu."
Bé By nắm chặt tay hắn và không chịu buông ra. Bao nhiêu tâm tư dồn nén trong suốt thời gian qua đột nhiên làm Ugwu nghẹn ngào, hắn bật khóc nức nở và nước mắt cay xè. Hắn thấy giận chính mình vì đã khóc. Khi kể lại những chuyện đã xảy ra, hắn nói một cách thản nhiên. Hắn nói dối lý do hắn bị bắt lính; hắn nói mục sư Ambrose đã năn nỉ hắn giúp ông ta đưa cô em gái bị ốm đến một người bốc thuốc nam và hắn đang trên đường về thì bị bắt. Hắn dùng những chữ như hỏa lực của kẻ thù và tấn công cảm tử bằng một giọng bình thản như là để lấp liếm những giọt nước mắt của chính mình.
"Và họ báo với chúng tôi là em đã chết", Olanna nhìn hắn, nói. "Có thể Okeoma cũng còn sống."
Ugwu nhìn nàng trân trối.
"Người ta nói anh ấy chết lúc đang thi hành nhiệm vụ", Olanna nói. "Và tôi nhận được tin là bệnh suy dinh dưỡng cuối cùng đã giết Adanna. Bé By không biết, dĩ nhiên."
Ugwu nhìn lảng ra chỗ khác. Những tin tức nàng thông báo làm hắn khó chịu. Hắn cảm thấy giận Olanna vì nàng đã nói những điều hắn không muốn nghe.
"Nhiều người đang chết dần chết mòn", hắn nói.
"Chiến tranh là thế, rất nhiều người đã chết", Olanna nói. "Nhưng chúng ta sẽ chiến thắng. Cái gối kê lưng của em có dễ chịu không?"
"Dễ chịu cô ạ."
Hắn không thể ngồi thẳng một cách bình thường được, vì thế trong những tuần đầu tiên ở Orlu, hắn nằm nghiêng một bên. Olanna luôn ở bên cạnh, cô động viên để hắn có ý chí sống. Tư tưởng của hắn thường hay đi lang thang. Hắn không cần đến cái đau của vết thương bên hông, trên mông và ở lưng để nhắc nhở hắn nhớ quả mìn ogbunigwe nổ tung, tiếng cười của Kỹ Thuật Tối Tân hay ánh mắt căm hờn mang hình viên đạn của cô gái ấy. Hắn không thể nhớ nét mặt nhưng ánh mắt của cô không buông tha hắn, cũng như cái cảm giác khô ran giữa cặp chân cô, cái cách hắn làm chuyện hắn đã chẳng muốn làm trước đó. Trong không gian xám xịt giữa giấc ngủ và ảo ảnh, nơi mà hắn có thể kiểm soát hầu hết mọi cảnh tượng, hắn nhìn thấy quán rượu, ngửi thấy mùi rượu và nghe những người lính khác nói "Nào, Phá Hủy Mục Tiêu", nhưng người con gái nằm ngửa trên nền nhà không phải là cô gái trong quán rượu mà lại là Eberechi. Khi tỉnh giấc, hắn thấy ghét cái hình ảnh ấy và ghét cả chính bản thân mình. Chắc cũng phải một thời gian nữa hắn mới có thể tha thứ cho tội lỗi của mình. Và hắn sẽ đi tìm Eberechi. Có lẽ cô ấy cùng gia đình tản cư về quê ở Mbaise, cũng có thể họ đang ở một chỗ nào đó tại Orlu. Cô ấy sẽ chờ hắn. Cô ấy có lẽ cũng biết là hắn sẽ đi tìm cô. Cái niềm tin là Eberechi sẽ chờ đợi mình và sự thật Eberechi sẽ chờ đợi là bằng chứng chứng tỏ hắn đã được cứu rỗi, làm cho hắn yên tâm rằng hắn sẽ trở nên lành lặn. Hắn rất ngạc nhiên thấy thân thể mình khỏe trở lại như lúc chưa bị thương và tinh thần của hắn vẫn tỉnh táo.
Ban ngày, hắn giúp việc ở trại tị nạn. Buổi chiều, hắn viết. Hắn ngồi dưới cây phượng, viết những nét rất nhỏ, rất cẩn thận bên lề của những tờ báo cũ, trên những tờ giấy mà Kainene đã dùng để tính toán việc mua hàng hay trên mặt sau của một quyển lịch cũ. Hắn viết thơ về những người bị ghẻ lở sau khi họ đi cầu vào những cái chậu nhập cảng nhưng hắn nghe không hay, không du dương tựa âm nhạc như Okeoma đã viết và vì thế hắn xé bỏ; rồi hắn viết về một người con gái rất trẻ có cái lưng đẹp đã nhéo cổ một chàng trai và cũng xé bỏ luôn. Cuối cùng, hắn bắt đầu viết về cái chết âm thầm, vô danh, không bao giờ tìm thấy xác của cô Arize ở Kano, về đôi chân bị liệt của Olanna, về bộ quân phục rất vừa vặn rất đẹp của Okeoma và về bàn tay bị băng bó của Giáo sư Ekwenugo. Hắn viết về trẻ con ở trại tị nạn, cái cách bọn nó siêng năng, bền bỉ đuổi theo mấy con thằn lằn, về bốn thằng bé đã đuổi một con thằn lằn vụt bò lên cây xoài và một đứa trong bọn leo theo, rồi con thằn lằn nhảy xuống để chạy trốn nhưng lại rơi vào bàn tay của ba đứa đang chờ sẵn quanh cây xoài.
"Mấy con thằn lằn trở nên khôn ngoan hơn. Chúng chạy nhanh hơn và núp dưới những khối xi măng", thằng nhỏ trèo lên cây xoài đã nói thế với Ugwu. Chúng nướng và chia nhau con thằn lằn, đuổi tất cả đám trẻ con đi. Sau đó thằng bé muốn cho Ugwu một tí tẹo của miếng thịt thằn lằn dai nhách. Ugwu cảm ơn thằng bé và lắc đầu từ chối, nhận ra rằng hắn sẽ không bao giờ có thể đưa được đứa trẻ này vào trang viết, không bao giờ có thể tả nổi vẻ sợ hãi trong con mắt thảng thốt ngây dại của người mẹ ở trại tị nạn khi máy bay bỏ bom xuất hiện trên bầu trời. Hắn sẽ không bao giờ diễn tả nổi sự lạnh lùng đen tối của những kẻ thèm muốn ném bom. Nhưng hắn sẽ cố gắng và càng viết nhiều thì hắn càng ít nằm mơ hơn.
Một buổi sáng, Olanna đang dạy trẻ con học thuộc bảng cửu chương thì Kainene xồng xộc chạy đến dưới gốc cây phượng.
"Em có thể tưởng tượng được kẻ nào đã làm con bé Urenwa có thai không?" Kainene hỏi, Ugwu gần như không thể nào nhận ra nàng. Mắt nàng lồi ra trên khuôn mặt gầy tóp, đầy phẫn nộ và nước mắt. "Em có thể tưởng tượng được đó là Cha Marcel không?"
Olanna đứng phắt dậy. "Gini? Chị nói cái gì thế?"
"Có lẽ chị mù mắt rồi; không phải chỉ có con bé đó đâu", Kainene nói, "Lão mần hết. Hầu như ai cũng bị lão ấy mần trước khi lão phát cho phần tôm đá mà chị phải cực nhọc mua mang về!"
Rồi Ugwu thấy Kainene thọi hai nắm đấm vào ngực Cha Marcel, hét vào mặt ông ta và đẩy mạnh đến nỗi Ugwu nghĩ là ông ta sẽ ngã. "Amosu! Mày là một con quỷ!" Sau đó nàng quay sang Cha Jude. "Ông ở đây mà sao lại để lão ta vật mấy con bé đói sắp chết này? Ông trả lời với Chúa thế nào đây? Hai người phải rời khỏi nơi này ngay lập tức. Tôi sẽ đích thân thưa chuyện này với Ojukwu nếu cần!"
Nước mắt lăn dài trên má. Có nét gì đó thật cao quý, đáng ngưỡng mộ trong cơn giận dữ của nàng. Ugwu cảm thấy ô nhục và không xứng đáng khi hắn làm nhiệm vụ của hai gã tu sĩ sau khi họ bị đuổi đi – phát garri, can ngăn các vụ ẩu đả, quản lý thửa ruộng khô hạn và bỏ hoang. Hắn tự hỏi không biết Kainene sẽ nói gì, sẽ đối với hắn như thế nào, sẽ nghĩ như thế nào về hắn nếu một lúc nào đó nàng biết chuyện xảy ra với cô gái trong quán rượu. Nàng sẽ ghét và khinh bỉ hắn. Olanna cũng vậy. Và cả Eberechi nữa.
Buổi chiều hắn lắng nghe mọi người chuyện trò, lặng lẽ viết trong tâm trí những gì hắn sẽ chuyển lại thành lời trên giấy. Hầu như chỉ có Kainene và Olanna nói chuyện với nhau, dường như họ tự tạo ra một thế giới của riêng họ mà Ông Chủ và Richard khó có thể tham gia. Đôi khi Harrison đến ngồi với Ugwu nhưng hầu như không nói gì, ông ta có vẻ vừa ngạc nhiên vừa không hiểu về hắn nhưng cũng vừa tôn trọng hắn. Hắn không còn là Ugwu trước đây nữa. Hắn giờ đã là một "chàng trai của chúng ta". Hắn đã chiến đấu cho lý tưởng. Ánh trăng vẫn luôn sáng ngời, thỉnh thoảng gió đêm mang theo tiếng cú kêu cùng những tiếng to nhỏ từ trại tị nạn. Bé By ngủ trên nệm, đắp bằng tấm vải quấn của Olanna để tránh bị muỗi cắn. Bất cứ khi nào nghe thấy tiếng máy bay tiếp tế ầm ì, không giống chút nào với tiếng bay thấp và nhanh của máy bay ném bom là Kainene lại nói, "Chị hy vọng có một chiếc đáp xuống được". Và Olanna trả lời với một tiếng cười nhỏ. "Lần tới mình sẽ nấu cháo với cá khô."
Khi họ nghe Đài Phát thanh Biafra, Ugwu đứng dậy bỏ đi. Những bản tin chiến sự như một vở kịch rẻ tiền, giọng nói như muốn nhồi nhét chút hy vọng phỉnh phờ cho mọi người không hấp dẫn được hắn. Có một buổi chiều, Harrison đến chỗ cây phượng, mang theo cái radio vặn thật to chương trình phát thanh của Biafra.
"Ông làm ơn tắt cái đó đi." Ugwu nói. Hắn đang xem một lũ trẻ trai chơi trên đám cỏ gần đó. "Tôi muốn nghe tiếng chim."
"Có con chim nào hót đâu", Harrison nói.
"Tắt nó đi."
"Lãnh Tụ sắp diễn thuyết."
"Tắt hoặc mang nó đi chỗ khác."
"Chú mày không muốn nghe Lãnh Tụ nói à?"
"Mba, không."
Harrison nhìn hắn, "Bài diễn thuyết sẽ rất tuyệt vời".
"Không có gì đáng coi là tuyệt vời cả", Ugwu nói.
Harrison bỏ đi với vẻ mặt của một người bị tổn thương. Ugwu chẳng buồn gọi ông ta; hắn tiếp tục nhìn mấy đứa trẻ. Chúng chạy uể oải trên cỏ khô, tay cầm gậy giả làm súng, miệng giả tiếng súng bắn, bụi mù lên khi chúng đuổi nhau. Ngay cả đám bụi cũng có vẻ kiệt sức. Chúng đang chơi trò trận giả. Bốn đứa con trai. Hôm qua chúng có năm thằng. Ugwu không nhớ tên thằng bé thứ năm – không biết tên nó là Chidiebele and Chidiebube? – nhưng hắn nhớ cái bụng của thằng bé gần đây bắt đầu to lên như nuốt một quả bóng thật to, tóc nó rụng từng nắm, da của nó chuyển từ màu gỗ mun màu vàng. Mấy đứa kia hay chọc nó. Afo mmili ukwa Bụng Mít Chín. Có một lần, Ugwu muốn bảo bọn nó ngừng chơi để hắn có thể giải thích bệnh suy dinh dưỡng là gì – có lẽ hắn có thể đọc cho chúng biết hắn đã miêu tả bệnh suy dinh dưỡng như thế nào trong bài viết của hắn. Nhưng hắn quyết định thôi. Không nên cho chúng biết trước những điều mà hắn tin là tất cả mọi người đều sẽ gặp phải. Ugwu không nhớ thằng bé có lúc nào được đóng vai một sĩ quan Biafra như Lãnh Tụ hoặc là Achuzie mà luôn đóng vai một người Nigeria, Gowon hay Adekunle; có nghĩa là nó sẽ phải luôn luôn thua, ngã xuống vào cuối cuộc chơi và giả vờ chết. Đôi khi, Ugwu tự hỏi liệu có phải thằng bé thích đóng vai này vì như thế sẽ được nghỉ sớm và nằm lăn trên cỏ.
Thằng bé cùng gia đình của nó đến từ Oguta, một trong những gia đình không tin rằng tỉnh lị của họ sẽ bị thất thủ.Vì thế mẹ của thằng bé tỏ ra ngang ngạnh khi họ mới đến, như thể bà ta thách thức bất cứ ai dám nói rằng bà ta đừng có nằm mơ nữa. Hôm họ đến, tiếng súng phòng không làm chấn động khu tị nạn lúc trời sắp về chiều. Người mẹ chạy ra, ngơ ngác ôm con. Đứa con độc nhẩt. Các bà mẹ khác lay mạnh bà ta, vào lúc đó, tiếng gầm oa-oa-oa của máy bay trên đầu đến gần. Xuống hầm trú ẩn đi! Bà điên à? Chui xuống hầm nhanh lên!
Người đàn bà không chịu nghe lời, cứ đứng đó run rẩy ôm con. Ugwu vẫn không biết tại sao mình hành động như thế. Có lẽ vì Olanna đã cắp Bé By và chạy trước, hắn chẳng còn phải làm gì. Hắn giật vội đứa bé ra khỏi vòng tay của bà mẹ, chạy. Lúc ấy đứa nhỏ vẫn còn khá nặng, ít ra cũng có nặng chút ít; bà mẹ của nó không biết làm gì đành phải chạy theo. Máy bay đang bắn và trước khi Ugwu đẩy đứa bé xuống hầm, một viên đạn bay xớt ngang rất gần; hắn ngửi thấy chứ không nhìn thấy, mùi khét lẹt của kim loại bị cháy.
Trong hầm trú ẩn, khi đang nghịch chỗ đất ướt có dế và kiến, đứa bé nói cho Ugwu biết tên của nó, Chidiebele hay Chidiebube, nó không nhớ chắc. Có chữ Chidi gì đó. Có lẽ Chidiebele, cái tên người ta hay đặt. Cái tên ấy bây giờ nghe như một sự giễu cợt. Chidiebele: Chúa nhân từ.
Khi Ugwu nghe tiếng kêu khóc thều thào bị bóp nghẹt từ trong một lớp học ở cuối dãy nhà bốn đứa bé không còn chơi trận giả nữa mà đã vào trong. Hắn biết là dì của thằng bé sắp ra và can đảm báo tin cho mọi người gần đó, còn người mẹ sẽ lăn lộn, vật vã trên mặt đất, gào khóc cho đến khi mất hết tiếng, rồi bà sẽ lấy dao cạo đầu cho đến lúc trọc lốc và chảy máu.
Hắn mặc cái áo may ô vào rồi đi ra ngoài giúp đào một cái huyệt nhỏ.