Chương 23
-
Phía Đông Vườn Địa Đàng
- John Steinbeck
- 5722 chữ
- 2020-05-09 04:18:43
Số từ: 5709
Dịch giả: Đinh Văn Quý
Nguồn: NXB Văn Hóa Thông Tin
Ngày hôm sau, suốt trong những giờ học Abra nao nức về việc sắp tới thăm chú Lee. Nàng có gặp Cal vào những lúc ra chơi và hỏi:
- Anh đã nhắn giùm với chú ấy rằng em sắp tơi không?
- Có. Chú ấy đã làm sẵn một ít bánh nhồi mứt.
Cal đang bận đồng phục cho giờ huấn luyện, áo bó sát, cổ cao muốn nghẹt, chân quấn xà cạp.
- Anh còn bận tập luyện. Em sẽ về đó trước.
- Nhớ để dành cho tôi vài cái bánh mứt nhé! Bánh nhồi mứt dâu ngon lắm. Nếu tôi về trễ, ráng đợi một chút chứ đừng bỏ về trước nhé.
- Cal mang giùm sách vở của tôi về với được không?
- Được.
Nàng nhìn thẳng vào mắt Cal thật lâu, mãi đến khi Cal cảm thấy ngượng cúi mặt xuống nàng mới bỏ đi về phía lớp học.
Chiều hôm đó, gió trở lạnh, nhưng ông Adam vẫn đòi đi tới phòng động viên. Chú Lee đã phải choàng áo ấm cho ông thật kín và đưa ông ra cửa.
- Tôi không còn cảm thấy xây xẩm suốt ngày nữa. - Ông Adam nói. - Có lẽ tôi sẽ ghé nhờ Victor khám giùm cặp mắt tôi thử xem sao.
- Ông ráng chờ đến mai tôi sẽ đi với ông.
- Thôi được. Rồi ông bước đi hai tay vung vẩy làm ra vẻ mạnh mẽ.
Abra bước vào với cặp mắt long lanh sáng, mũi nàng đỏ gấc vì gió có lẫn sương muối. Nàng hí hửng đến nỗi chú Lee phải khúc khích cười thầm. Nàng hỏi ngay:
- Bánh trộn mứt đâu hả chú Lee? Chúng ta hãy đem giấu hết để Cal tìm cho vui.
Rồi nàng ngồi xuống nói tiếp:
- Cháu lấy làm sung sướng trở lại đây.
Chú Lee xúc động và bắt đầu nói những gì chú muốn nói với tất cả thoải mái và dè dặt. Chú cứ đi lại trước mặt Abra và nói:
- Như Abra biết, trong đời chú không mơ ước gì nhiều. Từ lâu chú đã học được một điều là đừng nên mơ ước gì cả.
Abra vui vẻ nói:
- Nhưng bây giờ chú đang mơ ước một điều gì. Có phải vậy không?
Chú nói toạc ra.
- Chú ước gì cháu là con gái của chú.
Chú bị xúc động mạnh, bỏ đi tới hỏa lò hạ ga dưới ấm nước trà xuống rồi lại vặn lên.
Abra dịu dàng nói:
- Cháu cũng ước gì chú là cha của cháu.
Chú liếc nhìn Abra thật nhanh rồi nhìn chỗ khác hỏi:
- Cháu thành thật chứ?
- Dạ thành thật.
Chú Lee vội rời khỏi nhà bếp vào phòng riêng, hai bàn tay nắm chặt lấy nhau ngồi yên lặng một hồi cho đến khi hết xúc động mới đứng dậy. Chú đi lấy một cái hộp bằng gỗ mun nhỏ có chạm trổ trên bàn giấy của mình. Trên chiếc hộp chạm hình một con rồng đang bay lên trời. Chú đem chiếc hộp xuống nhà bếp, đặt lên bàn giữa hai bàn tay của Abra và lấy giọng tự nhiên nói:
- Đây là món quà dành riêng cho cháu.
Abra mở chiếc hộp gỗ mun đó ra và nhìn vào một hạt nút nhỏ bằng ngọc thạch màu xanh lục sậm, trên bề mặt có chạm một bàn tay phải người ta với những ngón cong thon và ở vị thế yên nghỉ. Abra nâng hạt nút lên nhìn kĩ rồi áp mặt ngọc thạch mát lạnh vào má mình.
Chú Lee nói:
- Đó là món nữ trang duy nhất của mẹ tôi.
Abra đứng dậy vòng tay quanh cổ chú và h ôn lên má chú một cái để tỏ lòng kính mến chân thành. Trong suốt đời chú đó là lần duy nhất chú gặp được một cử chỉ trìu mến như vậy.
Chú cười lớn và nói:
- Tình trầm lặng đông phương của chú hình như đã bỏ rơi chú. Để chú đi pha trà. Chú cảm thấy vui lắm.
- Sáng nay cháu thức dậy với tâm trạng sung sướng.
- Chú cũng vậy. Chú biết vì sao mình cảm thấy vui sướng. Lý do là cháu sẽ tới hôm nay.
- Cháu cũng thấy vui như vậy nhưng...
- Chú thấy cháu đã thay đổi. - Chú Lee nhận xét. - Chú không còn có vẻ gì là một cô gái bé bỏng nữa... Cháu có thể giải thích cho chú biết vì lý do nào không?
- Hồi hôm cháu đã đốt hết tất cả thư từ của Aron.
Chú Lee ngần ngừ giây lát rồi hỏi:
- Cháu mến Cal phải không?
- Dạ phải. - Abra trả lời.
- Cậu ấy thường ăn ngốn ngấu cả món ngon lẫn món dở nhưng không hiểu sao vẫn ốm tong như ngón tay... - Chú Lee nói.
Abra cúi đầu trên tách trà của nàng và nói:
- Anh ấy rủ cháu đi Alical chơi nhân mùa hoa đỗ quyên dại nở sắp tới.
Chú Lee chống hai bàn tay lên bàn hơi chồm người tới trước nói:
- Chú đâu có thắc mắc gì về chuyện cháu đi chơi những đâu.
- Chú không hỏi nhưng cháu muốn nói cho chú biết cháu sẽ đi.
Mùa đông hình như không muốn nguôi sự gay gắt của nó, vẫn kéo dài cái lạnh, cái ướt át và giá buốt thật lâu sau khi thời hạn của nó đã hết. Dân chúng cho rằng:
Những khẩu súng đại bác bực mà người ta bắn ra bên Pháp đang gây ra hậu quả là làm xáo trộn khí hậu toàn thể thế giới.
Cuộc đi ngoạn cảnh của Cal và Abra không thực hiện được vì ngày đầu tháng năm đầy mưa lạnh và mãi đến hai tuần lễ sau hoa đỗ quyên vẫn chưa nở. Chú Lee chán cảnh phải đi mua bánh xăng-uých hai ngày một.
- Sao cậu không đi? - Chú Lee hỏi Cal.
- Không, vì hoa đỗ quyên chưa nở.
- Trời đất ơi! Đừng nên làm hỏng cuộc đi chơi đó.
Sức khỏe của ông Adam khá dần. Bàn tay của ông đã bớt tê. Ông đọc chữ mỗi ngày khá hơn một ít, ông nói:
- Chỉ đến khi tôi cảm thấy mỏi mệt quá, những dòng chữ này mới nhảy múa lên thôi.
Chú Lee gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Chú đi San Francisco để mua thêm sách. Chú tìm hiểu khá đầy đủ về việc giải phẫu óc và cách chữa trị vết thương hay chứng máu đông trong huyết quản. Bác sĩ Murphy, vị bác sĩ chăm sóc khỏe cho ông Adam đã trở nên thân thiết với chú Lee và đã phải mượn một số tài liệu của chú về cách chẩn bệnh hay thực hành. Ông ta phải nói với một chuyên viên địa phương, bác sĩ Edwards rằng:
Chú người Tàu đó biết về nguyên nhân gây ra bệnh xuất huyết trong não còn khá hơn tôi và có lẽ cả anh nữa.
Ông ta nói với giọng đầy tình cảm. Ngành y khoa đòi hỏi những tìm tòi hiểu biết càng chín chắn càng tốt.
Khi báo cáo tình trạng khả quan của ông Adam, chú Lee nói thêm:
- Theo tôi thì vẫn còn phải tiếp tục chú tâm nhiều nữa.
Bác sĩ Murphy nói:
- Tôi đã từng gặp một bệnh nhân tương tự. Rồi ông kể một trường hợp đầy hi vọng.
- Tôi rất sợ trường hợp tái phát. - Chú Lee nói.
- Điều đó thì chú chỉ còn biết phó thác cho Đấng Toàn Năng thôi. - Bác sĩ Murphy góp ý rồi hỏi thêm:
- À này, bằng cách nào mà chú đã thuyết phục được ông ấy để cho chú đo huyết áp?
- Tôi với ông ấy đánh cuộc với nhau.
- Chú làm cách nào gợi được ở ông ấy sự chú ý.
- Đó là một khám phá riêng của tôi. - Chú Lee nói. - Tôi đã áp dụng phương pháp trị liệu bằng đàm thoại.
- Cách đó chiếm hết cả thì giờ của chú.
- Phải vậy rồi. - Chú Lee xác nhận.
Ngày 28 tháng 5 năm 1918, các đạo quân Hoa Kỳ mới bắt đầu thực hiện trọng trách đầu tiên trong Đệ I Thế Chiến. Đệ Nhất sư đoàn do Tướng Bullard chỉ huy, được lệnh chiếm ngôi làng Cautigny.
Vào lúc 6 giờ 45 sáng ngày 28-5-1918, cuộc tấn công bắt đầu sau một tiếng đồng hồ dọn đường bằng trọng pháo. Cuộc tấn công này thành công hoàn toàn.
Các đạo quân Hoa Kỳ đã vượt qua một tuyến mới và đã đẩy lui được hai cuộc phản công mạnh mẽ của quân đức.
Đệ I Sư Đoàn đã nhận được những lời khen tặng của thủ tướng Clémenceau, các thống chế Foch và Pêtain.
Cuối tháng năm, trước khi các thanh niên từ Alical tung ra tin mùa hoa đỗ quyên màu hồng cá hồi đã nở, Cal và Abra trốn học, mang bánh mì của lò bánh Reynaud và cố rủ chú Lee cùng đi.
Nghe tiếng lào xào, ông Adam nhìn xuống bếp hỏi:
- Tụi con sắp đi picnic. Bác đi với tụi con cho vui.
- Bác không thể đi được vì đã hứa phải ghé lại hãng nước đá.
- Cháu sẽ hái về tặng bác một bó hoa đỗ quyên.
Cal cố rủ chú Lee.
- Chú Lee đi chơi với tụi này cho vui nhé?
Chú Lee lườm Cal nói:
- Bộ cậu điên rồi sao mà rủ kì vậy?
Một con suối từ sườn núi Gabilan, phía đông Salinae róc rách chảy ngang qua Alisal. Mùi hương đỗ quyên ngào ngạt cả bầu không khí. Trên bờ suối chỗ chiếc Ford đậu ở băng sau chất cả đống cành hoa đỗ quyên.
Cal và Abra ngồi bên bờ suối, đu đưa chân xuống nước. Cal nói:
- Khi em đem về tới nhà thì những cánh hoa đó đã héo queo hết rồi.
- Nhưng dù sao chúng ta cũng nên đem về. Nếu mà không thích thì em sẽ...
- Sẽ thế nào?
Nàng xích lại cầm tay Cal.
- Anh thấy sợ. Em có bao giờ thấy sợ không?
- Có chứ. Em sợ anh mỗi khi anh lộ tính bần tiện như trong lần đầu gặp anh chẳng hạn.
- Anh cũng không hiểu tại sao mình lại hành động như vậy.
Bỗng Cal im lặng.
Nàng siết chặt lấy tay chàng. Cal nhìn xuống dòng nước đang trôi đi và đưa ngón chân hất một hòn đá.
- Em biết anh đang nghĩ gì. Anh nghĩ rằng anh bị những điều xấu lôi cuốn. À, em muốn kể cho anh nghe chuyện này. Ba má em đang gặp chuyện rắc rối. Mọi người đều bảo rằng ông bị bệnh, nhưng em tin rằng không đúng như vậy. Ông đang lo sợ. Hình như ông đã làm một việc gì.
- Ông bị rắc rối chuyện gì vậy?
- Hình như ông đã thâm lạm tiền của hãng. Ông đang lo không biết hội viên của hãng sẽ truy tố ông ra toà hay chịu để cho ông trả dần.
- Sao em biết?
- Em nghe họ la hét trong phòng ông. Má em mở máy hát để cố át tiếng la lối của họ.
Cal nhích lại gần Abra hơi ngượng ngùng choàng tay quanh cổ nàng.
- Em xem, anh không phải chỉ là...
Nàng nhìn nghiêng một bên mặt chàng, yếu ớt nói:
- Lúc này em sợ.
Khoảng ba giờ chiều hôm đó, chú Lee đang ngồi ở bàn giấy lật từng trang của tập mẫu hạt giống. Nhưng bức hình các hạt đậu bằng màu rất đẹp mắt.
- Bây giờ những hạt giống này đã mọc lên thật xinh trên hàng rào phía sau nhà. Mình không biết có đủ ánh sáng mặt trời cho chúng không?
Chú ngẩng mặt lên tự mỉm cười vì chính tiếng nói hơi lớn của mình. Càng ngày chú càng để ý thấy mình thường nói khá lớn tiếng khi nhà vắng người. Chú nói lớn: - Chắc tại tuổi tác.
Chú ngừng nói và cảm thấy hơi ngượng một chút: – Buồn cười thật, - lắng nghe tiếng động khẽ ở đâu đó rồi nói tiếp: - Chẳng lẽ mình để quên cái ấm trà trên bếp ga. - Chú lại lắng nghe thêm. - Lạy trời mình không đến nỗi mê tín dị đoan. Nếu có óc mê tín, mình đã tin đó là tiếng bước chân của ma rồi. Mình dám...
Tiếng chuông cửa reo vang.
- À, đúng rồi. Thì ra mình nghe thứ âm thanh này đây. Cứ để cho nó reo. Mình sẽ không để cho giác quan bị lầm lẫn nữa. Cứ để cho nó reo nữa đi.
Nhưng tiếng chuông không nghe reo nữa.
Nỗi mệt mỏi như một bóng đen phủ lên người chú đồng thời mối thất vọng đè mạnh xuống vai chú. Chú cười lớn một mình và nói:
- Mình phải đi lấy xấp quảng cáo dưới cửa xem hay cứ ngồi ì đây mặc cho cái đầu óc già nua lú lẫn của mình nhắc nhở mình về cái chết đang chờ trước ngưỡng cửa. Không, mình phải đi lấy xấp quảng cáo mới được.
Chú Lee trở vào phòng ngồi xuống nhìn vào chiếc phong bì trên đùi. Chú mở phong bì đặt giữa bàn một lát, mặt có chữ úp xuống.
Chú cúi nhìn xuống sàn nhà qua hai đầu gối của mình. Chú nói:
- Không, anh không có quyền. Không ai có quyền động vào mảy may kinh nghiệm nào của người khác. Chúng ta chỉ có quyền đau khổ.
Ruột chú thắt lại:
- Mình không có can đảm. Mình chỉ là một người mắc chứng đau ruột hèn nhát. Mình không chịu đựng nổi.
Chú đi vào phòng tắm lường ba muỗng thuốc nước có chất Bromiđe vào một cái ly pha thêm nước cho đến khi chất thuốc đó loãng ra thành màu hồng. Chú nói lớn:
- Ta ghét kẻ hèn nhát. Lạy Chúa. Ta rất ghét kẻ hèn nhát.
Hai tay chú run lên và mồ hôi lạnh toát ra trên trán chú.
Đến bốn giờ chiều chú nghe tiếng ông Adam vặn núm cửa. Chú liếm môi đứng dậy chậm chạp bước ra cửa. Trên tay chú cầm theo chiếc ly có chất thuốc nước màu hồng nhưng không còn run nữa.
Cửa chính trong nhà ông Trask để mở hé nên trong nhà lạnh ngắt. Ở phòng khách, chú Lee ngồi trên chiếc ghế dựa dưới ánh một ngọn đèn, người run bần bật như một chiếc lá trong gió. Cửa phòng của ông Adam để ngỏ và có tiếng lào xào từ trong đó thoát ra.
Khi bước vào nhà Cal hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
Chú Lee hất đầu chỉ bức điện tín nằm ngửa trên bàn nói:
- Anh của cậu đã tử trận. Ba của cậu bị xúc động mạnh.
Cal định bước về phía phòng ông Adam. Chú Lee gọi giật lại:
- Cal, quay lại ngay. Bác sĩ Edwards và bác sĩ Murphy đang có mặt trong đó. Đừng quấy rầy họ.
Cal đứng trước mặt chú Lee hỏi dồn:
- Ba tôi có sao không? Tình trạng có gì đáng ngại lắm không hả chú Lee?
- Tôi cũng không biết nữa. Về nhà đã thấy ông mệt nhưng tôi buộc lòng phải đọc bức điện tín cho ông biết. Bức điện tín đề tên ông. Suốt trong năm phút đồng hồ ông cứ nói lớn mấy tiếng
Vậy là xong, vậy là xong!
Mấy tiếng như ngấm vào đầu óc ông rồi nổ tung ra vậy.
Bác sĩ Edwards bước ra, xách theo túi đồ nghề trên tay. Ông ta khẽ gật đầu xã giao rồi bước ra, khép cửa lại một cách ý tứ.
Bác sĩ Murphy thì đặt túi đồ nghề lên bàn ngồi lại. Ông thở dài nói:
- Bác sĩ Edwards nhờ tôi nói lại với mấy người.
- Ba tôi thế nào hả bác sĩ? - Cal hỏi.
- Tôi sẽ nói tất cả những gì chúng tôi biết. Này Cal, bây giờ cậu là chủ gia đình này, cậu nên biết sự thật. Trong khu vực trong não của ông đã bị tổn thương. Nửa người bên trái đã bị liệt hẳn. Nửa thân bên phải thì bị liệt một phần.
- Ông còn nói được không bác sĩ?
- Ít thôi và rất khó khăn. Đừng làm ông mệt.
Cal gắng gượng lắm mới thốt ra được mấy tiếng:
- Liệu ông có thể qua khỏi không?
- Tôi nghe nói những trường hợp tái phát như thế này khó hi vọng lắm nhưng tôi chưa bao giờ gặp cả. Ông có thể còn sống được cả tuần, cả tháng hay đến cả hai năm. Ông cũng có thể chết ngay trong đêm nay không biết chừng.
- Liệu ông có nhận ra tôi không?
- Cậu cứ thử hỏi ông xem. Tối nay tôi sẽ gửi tới một y tá, sau đó mấy người phải tìm vài y tá thường trực để săn sóc cho ông cẩn thận.
Rồi ông đứng dậy nói thêm:
- Tôi rất tiếc. Cậu Cal hãy can đảm lên nhé. Thôi chào cậu.
Ông đưa bàn tay ra định vỗ lên vai Cal nhưng chàng đã bước vội về phía phòng của cha mình.
Đầu của ông được đỡ nằm trên một chồng gối. Hai mắt ông mở thao láo, sâu hoắm và trong vắt tưởng chừng ta có thể nhìn sâu vào bên trong hay tưởng chừng như cặp mắt ông có thể nhìn thấu những gì xung quanh. Cặp mắt đó từ từ nhìn về phía Cal khi chàng bước vào phòng. Cặp mắt nhướng lên nhìn vào mặt Cal rồi khựng lại đó.
Cal ngồi xuống chiếc ghế dựa cạnh giường. Chàng cất tiếng nói:
- Thưa ba, con rất ân hận. Ba có nghe con nói gì không?
- Ba có hiểu lời con nói không?
Cặp mắt của cha chàng vẫn không nhấp nháy hay thay đổi. Cal gào lên:
- Chính con đã gây ra chuyện này. Con là kẻ hoàn toàn chịu trách nhiệm về cái chết của anh Aron và sự đau ốm của ba. Con đã đưa anh ấy tới nhà bà Kate chỉ cho anh ấy biết mẹ ảnh là ai. Vì vậy mà anh ấy bỏ đi. Con không cố ý làm những chuyện ác, nhưng chính con đã gây ra những chuyện đó.
Chàng gục đầu xuống mép giường để tránh cặp mắt trừng trừng khủng khiếp của cha mình nhưng vẫn thấy rõ trong đầu. Chàng biết rằng cặp mắt đó vẫn đuổi theo chàng, vẫn gắn liền với chàng suốt đời.
Chuông cửa reo. Một lát sau chú Lee vào, dẫn theo một chị y tá, đó là một thiếu phụ vạm vỡ khỏe mạnh có hai hàng lông mày rậm. Chị mở va ly hành lý thật mạnh làm tuôn ra cả một luồng gió mát và nói:
- Bệnh nhân của tôi đâu? Ồ, trông ông tươi tỉnh quá! Vậy thì tôi tới đây làm gì? Có lẽ ông nên đứng dậy săn sóc ngược lại tôi thì hay hơn phải không ông già bảnh trai?
Chị ta luồn một cánh tay lực lưỡng của mình xuống dưới vai ông Adam đỡ ông dậy một cách không mấy khó khăn khi trong khi tay kia kéo mấy chiếc gối ra.
- Để tôi phụ một tay. - Chú Lee nói.
- Cần gì chú phải phụ? Chúng tôi tự giúp nhau đủ rồi. Có phải vậy không cục cưng?
Chú Lee và Cal rút lui xuống nhà xếp. Chú Lee dịu giọng hỏi Cal:
- Ông ấy có nói gì với cậu không?
Cal lắc đầu.
- Kể ra thì khủng khiếp thật. Nhưng con người có thể chịu đựng được bất cứ tình cảnh nào. Ở phương diện đó, chúng ta là những con vật tuyệt vời.
- Tôi thì không như vậy. - Giọng Cal buồn bã chán chường. - Tôi không thể chịu đựng nổi. Không, tôi không thể nào chịu đựng được. Tôi đã giết anh tôi. Tôi là tên sát nhân. Ba tôi biết điều đó.
- Ông đã nói vậy à?
- Không cần đợi ông nói mới biết. Chỉ cần nhìn trong mắt ông cũng rõ. Ông đã nói như vậy bằng cặp mắt của ông. Không còn chỗ nào để tôi có thể lẩn tránh được cặp mắt đó. Thật không còn một nơi nào trên thế gian này...
- Này Cal! - Chú Lee thở dài và kiên nhẫn nói:
- Hãy nghe tôi. Các trung khu óc não của ông Adam đã bị hỏng. Cái nhìn của ông có lẽ chỉ là cái nhìn vô tri giác. Chưa hẳn ông có ý kết án cậu đâu. Cậu hiểu vậy là sai rồi.
- Ông đã kết án tôi. Tôi biết mà. Ông bảo rằng tôi là tên sát nhân.
Chị y tá đứng trước cửa phòng:
- Cưng ơi, cưng uống cà phê không? Sao cưng không ngủ đi một chút?
Chú Lee đi lấy ấm cà phê đặt lên bếp ga. Chú gọi: - Cal ơi.
- Chú gọi gì tôi?
- Hãy đi báo tin cho Abra biết.
Cal đứng trước cổng nhà ông bà Bacon ấn tay trên núm chuông cho đến khi ánh đèn sáng chói lên và bà Bacon nhìn ra. Cal nói:
- Tôi muốn được gặp Abra.
Bà há miệng ngạc nhiên hỏi lại:
- Cậu muốn cái gì?
- Tôi muốn được gặp Abra.
- Không được rồi. Abra đã đi ngủ. Cậu đi đi!
Từ trong nhà ông Bacon hỏi với ra:
- Chuyện gì vậy? Ai vậy?
- Ông để ý làm gì. Để tôi giải quyết đủ rồi.
Bà quay lại Cal:
- Tôi yêu cầu cậu hãy xéo khỏi đây ngay. Nếu cậu còn bấm chuông nữa tôi sẽ gọi điện thoại cho cảnh sát ngay.
Bà đóng sầm cửa, cài then và tắt đèn.
Cal chậm chạp lê bước trở về, nhưng chàng chưa đi hết một dãy phố thì Abra đã đuổi theo kịp.
Nàng thở hổn hển vì chạy.
- Em phải ra ngõ sau mới đi được. - Nàng nói.
- Ông bà sẽ khám phá ra rằng em đã đi.
- Em bất kể.
- Này Abra, tôi đã giết chết Aron và ba tôi ông đang bị liệt người vì tôi. - Cal thú tội.
Nàng đưa cả hai bàn tay bám chặt vào cánh tay Cal.
- Abra có nghe tôi nói gì không?
- Em nghe rồi.
- Abra, em biết mẹ tôi là người thế nào rồi chứ?
- Em biết. Nhưng ba em cũng là một kẻ cắp.
- Anh có mang dòng máu của mẹ anh trong người. Abra hiểu điều đó chứ?
- Em cũng mang dòng máu của ba em trong người.
Hai người lặng lẽ sóng bước bên nhau trong khi Cal cố lấy lại bình tĩnh trong tâm hồn. Gió thổi lạnh buốt bắt họ rảo bước nhanh cho ấm người. Họ đi ngang qua ngọn đèn đường cuối cùng ở ven thi trấn Salinas và bước qua đoạn chót của vỉa hè. Con đường dưới chân họ bây giờ trơn ướt vì lớp bùn mùa xuân sau khi tuyết tan để lại. Abra hỏi:
- Chúng ta đi đâu đây?
- Anh muốn chạy trốn khỏi ánh mắt của ba anh. Cặp mắt trừng trừng của ông như luôn luôn ở ngay trước mặt anh. Dù anh có nhắm mắt lại anh vẫn thấy chúng như thường. Ba anh sắp chết nhưng cặp mắt của ông vẫn luôn luôn nhìn theo anh trừng trừng kết án anh là kẻ đã giết hại anh ruột mình.
- Đừng nên nói nhảm như vậy. Chúng ta đang đi đâu bây giờ?
- Chúng ta hãy đi xa hơn một chút nữa. Nơi đó có một cái hố, một cái chòi bơm nước và một cây liễu. Abra còn nhớ cây liễu đó không? Em và Aron đã rẽ những cây liễu ra chui vào trong chòi và không ai thấy cả. Anh muốn Abra vào đó với anh.
Nàng dừng lại và níu tay chàng đứng lại theo và nói:
- Không, không nên như vậy.
- Em không muốn đi vào đó với anh phải không?
- Nếu anh định vào đó để trốn thì em sẽ không đi.
- Vậy thì anh càng không biết tính sao bây giờ.
- Chúng ta nên trở về xem ba anh ra sao. - Abra nói.
Ánh đèn từ nhà bếp hắt ra sáng lên cả hai người. Chú Lee bật đèn trước hiên để cho không khí ấm bớt phần nào. Vừa bước vào Cal nói với chú Lee:
- Abra bảo tôi phải về.
- Dĩ nhiên là nàng phải bảo điều đó, tôi biết Abra sẽ làm như vậy. - Chú Lee nói.
Chú vào trong nhà bếp rồi trở ra ngay, vừa đặt một cái hũ bằng đá và ba chiếc tách nhỏ bằng sứ láng nhuốc trên bàn vừa nói:
- Ông ấy đang ngủ.
- Tôi còn nhớ đây là chai rượu Ngũ Gia Bì phải không? - Cal hỏi.
- Cậu nên uống một chút.
Chú rót rượu mầu sậm vào tách.
Abra chống hai cùi chỏ trên bàn nhà bếp nói:
- Chú hãy giúp Cal. Chú là người nhiều kinh nghiệm, ráng giúp anh ấy với.
- Tôi không biết mình có nhiều kinh nghiệm hay không. Nhưng chính tôi cũng đã từng khóc thầm một mình.
- Chú mà cũng khóc à?
- Lúc ông Samuel Hamiltan chết, chú có cảm tưởng cả thế giới tối tăm như một ngọn nến tắt ngấm. Chú chợt khám phá ra rằng những gì mà chú hằng yêu mến đã bị sụp đổ tiêu tan như bị cố tình trả thù vậy. Chú phải tự nhận diện những cái xuẩn ngốc của mình. Chú đã nhận ra rằng những điều thiện thường dễ bị tiêu diệt trong khi điều ác lại cứ tồn tại và phát triển. Chú nghĩ rằng cơn thịnh nộ của Thượng đế đã trút lửa từ nồi kim loại nấu lỏng xuống hủy diệt hết, để làm cho thanh khiết công trình nhỏ bé bằng bụi đất do ngài nặn ra. Cậu có nghĩ như vậy không?
- Tôi cũng nghĩ vậy. - Cal nói.
- Cháu không biết. - Abra thú nhận.
Chú Lee lắc đầu:
- Nghĩ như vậy chưa đủ. Nếu chỉ nghĩ như vậy chưa đủ. Có lẽ...
Chú bỏ lửng ngang đó. Cal cố lắng nghe rồi hỏi:
- Có lẽ thế nào hả chú Lee?
- Có lẽ hai cháu phải hiểu rằng mỗi người trong mỗi thế hệ đều cần được tẩy uế bằng lửa. Chẳng hạn một người thợ gốm, dù trong tuổi già, cũng không thể lười biếng không cố tạo cho được những chiếc tách sứ toàn hảo, vừa mỏng vừa bền vừa láng mướt. Ông ta sẽ đưa cái tách lên ánh sáng và nói:
Tất cả những chỗ sần sùi đã tiêu hết. Muốn cho toàn hảo cần phải nung thật già lửa.
Không một người nào trên đời này thoát khỏi nguyên tắc đó nếu muốn trở nên một người hoàn toàn.
Chú rót rượu vào tách mình và cao giọng nói:
- Này Cal, hãy nghe tôi hỏi câu này. Cậu có nghĩ rằng chúng ta không ngừng bị thử thách chứ?
Những bước chân thình thịch của bà y tá vang lên trong phòng khách. Bà ta bước xộc xuống và đứng nhìn sững Abra đang ngồi chống cùi chỏ trên bàn, hai bàn tay ôm lấy mặt.
Bà y tá nói:
- Có ấm nước nào không? Ông ấy khát nước. Tôi muốn có sẵn một ấm nước bên cạnh.
- Ông ấy thức rồi hả? Có sẵn ấm nước đây.
- À, vâng, ông ấy đã thức và đang nằm nghỉ. Tôi đã rửa mặt và chải tóc cho ông ta. Ông ta dễ chịu lắm, ông cũng vừa mỉm cười với tôi.
Chú Lee bảo Cal và Abra:
- Hãy cùng vào đây với tôi đi Cal, cả Abra nữa!
Chị y tá rót đầy ấm nước rồi rảo bước đi trước cả bọn.
Khi cả bốn người bước vào phòng ngủ, ông Adam đã dựa người trên chồng gối cao. Nét mặt ông xanh xao như bọc một lớp sáp. Ông thở yếu ớt giữa hai làn môi tái nhợt. Cặp mắt xanh của ông phản chiếu ánh đèn đêm từ phía trên đầu ông rọi xuống.
Chú Lee, Cal và Abra đứng ở chân giường. Hai mắt của ông Adam chậm chạp nhìn từ mặt người này qua mặt người kia.
Chị y tá nói:
- Trông ông nằm có dễ thương không? Ông là cục cưng của tôi đó.
- Suỵt. - Chú Lee bảo chị ta im.
- Tôi không để mấy người quấy rầy làm mệt bệnh nhân của tôi đâu.
- Chị ra khỏi phòng giùm một chút đi. - Chú Lee nói.
- Bà hãy ra đi và đóng cửa lại giùm. - Cal bảo.
Chị ta đóng sầm cửa lại khá lớn đủ hả nỗi tức tối của chị ta làm ông Adam phải chớp mắt vì tiếng ồn đó. Chú Lee gọi:
- Ông Adam!
Cặp mắt xanh của người bệnh mở lớn ngơ ngác tìm chỗ phát ra tiếng gọi, cuối cùng đã nhận ra cặp mắt nâu sáng ngời của chú Lee.
- Ông Adam, không biết ông có nghe và hiểu những gì tôi sắp nói không. - Chú Lee nói. - Qua cặp mắt cặp mắt của ông có thể ông vẫn sáng suốt hay cũng có thể ông đang chơi vơi trong mộng ảo. Thế nào. Ông có nghe tôi nói không?
Cặp mắt xanh của ông lờ đờ, hai hàng lông mi từ từ khép lại rồi mở ra ngay. Chú Lee nói tiếp:
- Cảm ơn ông. Tôi biết ông mệt lắm. Nhưng tôi sắp yêu cầu ông làm một việc khó hơn nhiều. Đây là Cal cậu con trai độc nhất của ông. Ông hãy nhìn cậu ấy đi.
Cặp mắt nhợt nhạt của ông đảo một vòng cho đến khi thấy đúng Cal. Môi của Cal đang mấp máy nhưng cố mím lại không cho thoát ra một âm thanh nào. Chú Lee nói tiếp:
- Tôi không biết ông còn sống bao lâu. Có thể còn khá lâu. Cũng có thể rất ngắn ngủi. Nhưng con trai ông thì sẽ còn sống cả một cuộc đời của nó. Nó sẽ lấy vợ, sẽ có con và con cái của nó sẽ là những kẻ nối tiếp dòng dõi ông.
Chú Lee đưa mấy ngón tay lên quệt nước mắt.
- Nó đã lỡ làm một việc trong lúc hờn giận vì nó nghĩ rằng ông đã hắt hủi nó. Hậu quả của sự hờn giận đó đưa đến cái chết của anh nó.
- Kìa chú Lee, đừng nhắc đến chuyện đó nữa. - Cal kêu lên.
- Tôi phải nói, dù sự thật đó có làm cho ba cậu đau khổ đến đâu. Tôi đã quyết rồi.
Chú buồn bã nói thêm:
- Con trai ông bị mang mặc cảm phạm tội, dù nó rất vô tình. Điều đó quá sức chịu đựng của nó. Xin ông đừng hắt hủi nó, đừng làm nó quỵ ngã vì tuyệt vọng.
Chú Lee thở hổn hển trong cổ họng nói tiếp:
- Ông Adam, xin ông hãy tha thứ cho Cal. Đừng để nó cô độc vì mặc cảm tội lỗi. Ông Adam, ông có nghe tôi nói gì không? Hãy tha thứ cho Cal.
Cặp mắt ông Adam sáng rực lên rồi ông nhắm nghiền lại. Mi mắt ông khẽ động đậy:
- Ông Adam, xin ông hãy giúp nó. Hãy cho nó một cơ hội. Hãy giải tỏa mặc cảm đó cho nó. Nhờ đó nó sẽ vượt được mọi thú tính. Hãy giải thoát cho nó. Hãy tha thứ cho nó!
Cả cái giường như muốn rung lên vì sự tập trung tinh thần. Hơi thở của ông Adam trở nên dồn dập vì sự cố gắng của ông. Bàn tay phải của ông từ từ nhích lên, nhích lên vài phân rồi rớt trở xuống.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tạiwww.gacsach.com- gác nhỏ cho người yêu sách.]
Nét mặt chú Lee lộ vẻ xót xa đau đớn. Chú tới sát đầu giường người bệnh và kéo góc khăn trải giường lên lau sơ khuôn mặt đẫm mồ hôi của ông Adam. Chú nhìn xuống cặp mắt nhắm nghiền của người bệnh, thì thầm:
- Cảm ơn Adam, ông bạn vong niên của tôi. Ông có thể nhếnh môi cố gắng tạo thành dạng tiếng Cal thôi cũng đủ rồi.
Ông Adam nhìn lên một cách khó nhọc. Đôi môi ông cố mấp máy nhưng thắt lại, ông cố gắng một lần nữa. Ngực ông căng lên. Ông hít hơi vào, môi ông mấp máy thành một tiếng thở dài. Tiếng thều thào của ông như lơ lửng trong không khí:
-
Timshel.
[2]
Mắt ông nhắm nghiền lại và ông nằm im.
[2]
Timshel
hay
Timshol
là tiếng Hy Bá Lai (Hebrew) đã nói đến ở chương 10 có một ý nghĩa rất hàm súc. Ông Adam bằng lòng tha thứ, giải tỏa mặc cảm cho Cal nếu chàng có thể thắng lướt điều ác.
Hết