Hồi 36
-
Phong Kiếm Xuân Thu
- Truyện Tôn Tẫn - Bàng Quyên
- 4124 chữ
- 2020-02-01 10:00:17
Dịch giả : Tô Chẩn
Sưu tầm : Vạn Kiếm Chi Vương
Nguồn : Sưu tầm
Củng quốc mẫu phá luôn phép báu
Kim Tử Lăng thoát khỏi trùng vây
Nói về Tôn Tẫn sai tướng lén bày trận bát môn xong rồi bèn sai quan tổng binh là Châu Đạt, giữ cửa Tây môn, coi chừng hễ Quốc mẫu ra trận, đến khi giáp chiến, thì phải giục trống, đặng cho tám tướng đều là công việc, và sai Tôn Yên qua cửa phía Tây lược trận, hễ thấy Tử Lăng thua chạy thì đốt pháo làm hiệu. Sai khiến xong rồi, chúng tướng đều lãnh linh đơn, nai nịt tề chỉnh, đặng chờ nương nương ra trận.
Nói về Quốc mẫu nước Tề là Củng Kim Định, nai nịt khôi giáp, đem bửu bối tùy thân, từ biệt Tương Vương bước xuống đại điện, tay cầm đao cửu hườn, mình ngồi ngựa đào huê, ra khỏi cửa triều, Tương Vương thấy nương nương ra trận, oai nghi lẫm liệt, giống một viên dõng tướng thì cả mừng, song còn e Tử Lăng phép thuật cao cường, nếu có điều chi thì chẳng biết làm sao cho đặng, nên trong lòng chẳng an, nên chắp tay nói với Tôn Tẫn rằng:
"Á phụ Ôi! Nương nương ra trận, lòng trẫm chẳng an, vậy trẫm muốn cùng á phụ qua cửa Tây môn lược trận coi thế nào? " Tôn Tẫn nói:
"Bệ hạ chớ lo, quốc mẫu đi phen này cờ ra thắng trận, ngựa đền nên công, nếu bệ hạ chẳng an lòng muốn ra lược trận, thiệt tôi chẳng dám bảo giá, e người xem thấy mà tiết lộ tin, hóa ra việc chẳng tốt". Tương Vương nói:
"Á phụ không đi, vậy thì để trẫm ra lược trận". Nói rồi truyền đem ngựa, Tương Vương thót lên longcâu dẫn các quan chạy ngựa lên thành, Tương Vương ở trên địch lầu xem trận.
Nói về tám vị công gia, dẫn nhơn mã bảo hộ nương nương ra cửa Tây môn, quan tổng binh là Châu Thanh, lật đật mở hoác cửa thành thả điếu kiều, phát ba tiếng pháo, trên thành cờ phất lao xao, phải chi các tướng khác ra trận, hễ phát pháo phất cờ, thì kéo binh ra thành, song tám tướng này đều vâng mật kế của Nam quận vương, đâu dám đi bậy, ba tiếng pháo nổ cửa thành mở hoác, mà chẳng thấy binh mã xông ra, bên kia, Tử Lăng kêu đánh đã lâu, xảy nghe pháo nổ phất cờ, ngỡ là tướng giặc ra trận, ngước mặt xem coi, chẳng thấy một người một ngựa chi cả; đang lúc hồ nghi, bỗng nghe tiếng pháo nổ vang, kéo ra hai cây cờ xanh, dưới cờ một con ngựa xanh, ngồi một viên đại tướng giáp xanh, dẫn một đột binh xông qua điếu kiều, chạy qua phía Đông chiến trường sắp bày đội ngũ, coi rất oai nghiêm. Tử Lăng xem thấy trong bụng sanh nghi, nghĩ thầm:
"Nếu tướng giặc đã ra thì sao chẳng đánhcùng ta, mà lại đóng binh phía Đông có khi nó muốn bày trận chi đó chăng? " Đang lúc suy nghĩ, nghe tiếng pháo nổ, có hai cây cờ đỏ, một con ngựa hồng, ngồi trên ngựa một tướng mão vàng, giáp vàng, dẫn một đạo binh, mường tượng một vùng mây đỏ, chạy qua phía Nam; nghe nổ luôn hai tiếng pháo nữa, xông ra hai đạo binh mã, tuốt ra phía Tây, phía Bắc, rồi nghe nổ luôn bốn tiếng xông ra bốn đạo binh, đứng phân bốn góc.
Tử Lăng xem thấy tám đạo binh, tám viên tướng, phân bày trận thế bố ngũ hành phân bát quái, rất nên nghiêm chỉnh. Đang xem ngó xảy nghe một tiếng pháo, thấy hai cây cờ nhựt nguyệt hươi lên, có năm trăm quân ngự lâm phò một vị nữ tướng. Tư?
Lăng nói thầm rằng:
"Người này chắc là chúa tướng điều binh đó". Bèn xốc mai huê lộc tới trước hươi trà điều trượng chỉ nên nói rằng:
"Nữ tướng kia! Có ta chờ đây đã lâu, phải thông tên ta biết". Nương nương dừng ngựathấy một tên đạo nhân, thì biết Kim Tử Lăng, bà nạt rằng:
"Ta là Đông tề quốc mẫu, họ Củng tên Kim Định, yêu đạo, mi có phải là Kim Tử Lăng đó chăng? Đất Đông Tề ta cùng với Tây địa Trường An phân chia bờ cõi, hai bên cách nhau, vì sao ngươi dám dấy binh đến lấn điều khi bạc; mau mau lui về, muôn việc đều thôi; nếu chậm trễ ắt vua tôi bây chết hết". Tư?
Lăng nghe rồi chúm chím cười nói:
"Qúy nhân là phận đàn bà chẳng thông thời vụ, xưa nay hễ là thuận trời thì còn nghịch trời phải mất, đất Tây địa vua Tần trên theo lẽ trời, dưới thuận lòng dân, tóm thâu sáu nước. Nàng coi nước Yên kia có Tôn Tẫn trái trời làm nghịch, rốt lại chẳng khỏi khổ lôi hoành, huống chi đất Lâm Tri này là nước nhỏ mọn, sao dám chống cự binh trời, ắt phải mang hại, nếu nghe lời ta thì mạng được yên, mà nước cũng còn bảo tồn được. Qúy nhân là người chưởng quyền lớn trong cung, khổ gì chường mặt bày đầu làm cho kinh tiện quý thể, chi bằng quày ngựa trở về, khuyên Tương Vương sớm nạp tờ hàng cho khỏi sanh dân đồ thán".
Nương nương giận lắm, mắng rằng:
"Yêu đạo có tài chi mà nói phách". Nói dứt lời hươi đao chém tới, Tử Lăng hươi gậy ngăn đỡ. Châu Đạt trên thành xem thấy nương nương giao chiến, liền giục trống đánh lia; lúc ấy tám viên hổ tướng nghe trống đều ngậm linh đơn vào miệng kêu to một tiếng chạy qua cửa thành Lâm Trị Tử Lăng thấy thế sinh nghi, nói thầm rằng:
"Vì làm sao, tám viên tướng kéo rốc tới đây, một đao một thương chưa từng đánh tới mà lại bỏ đi thiệt chẳng rõ ý chi". Rồi ngó qua cửa Đông chẳng thấy binh mã chi hết, duy có một đội quân mã cùng một vị nữ tướng. Lúc ấy Nương nương hươi đao chém xuống, Tử Lăng cử trượng rước đánh, hai bên ra sức tranh hùng.
Nói về tám viên tướng Tề, vâng kế Nam quận vương quày về cửa Tây, rồi bố phương hướng lén vây Tử Lăng ở giữa, tám tướng miệng ngậm linh đơn, một tướng đi đầu che khuất ba quân, cho nên chẳng thấy hình dạng, chớ nói Tử Lăng chẳng thấy mà thôi, đến nỗi Nương nương cũng không thấy được. Lúc ấy hai người mắc đánh với nhau, không lòng xem kỹ, thấy bốn phương tám hướng bụi bay mù mịt, có đâu mà rõ được binh mã Lâm Tri.
Nói về tám tướng bố theo phương hướng, chờ nghe pháo hiệu thì lộ hình ra đánh Tử Lăng, còn Tử Lăng cũng như giấc chiêm bao, đâu rõ được mình mắc trong trận bát môn kim tỏa, cứ ráng sức tinh thần mà đánh với Nương nương.
Lúc ấy Tương Vương ở trên địch lầu lượt trận, trong bụng hoảng kinh, giựt dùi trống mà nói rằng:
"Để trẫm đánh trống đặng trợ Oai cho nương nương". Nói dứt lời đánh trống nghe vang dội trời đất. Nương nương đang lúc đánh vùi, nghe tiếng trống kêu vang, ngó lên thành, thấy cờ rồng phảng phất, lại có âm tán huỳnh la, còn Tương Vương bổn thân đánh trống, trong bụng nghĩ rằng:
"Lúc này không ra tài còn đợi chừng nào? " Bèn nạt rằng:
"Giỏi cho thằng yêu đạo". Rồi đem hết các nghề đao pháp của tiên truyền hươi múa lộn nhào, dường như một toà núi đao, không có chỗ nào trống hở, đánh vùi một hồi, làm cho Tử Lăng xoay trở chẳng kịp, khó bề chống cự, kéo trượng chạy dài. Nương nương quát:
"Yêu đạo! Mi chạy đường nào, ta cũng quyết rượt theo". Liền giục Long mã rượt theo, Tử Lăng dòm thấy long mã rượt tới trong bụng rất mừng, lấy dây cửu long liệng lên không trung, xảy thấy chín con rồng vàng, trương nanh múa vuốt. Nương nương xem thấy cười lớn nói rằng:
"Té ra đây là cửu long điều, có chi làm lạ". Liền thò trong túi, lấy ra một cây thần trượng dài chừng năm tấc lớn bằng ngón tay, vụt ra một cái, hào quang muôn đường sáng chói bay bổng trên không, nghe vang một tiếng, tức thì dây cửu long hiện ra nguyên hình là chín cái liên hoàn kim câu, mà rớt xuống đất. Nương nương thâu kim câu và cây thần trượng, rồi nạt lớn rằng:
"Yêu đạo mi còn phép chi nữa, đem ra thử coi". Tư?
Lăng giận lắm mắng rằng:
"Đồ tiện tỳ, sao dám thâu mất phép ta, mi chạy đâu cho thoát". Liền quày nai hươi gậy đánh tới, nương nương cử đao rước đánh, nai ngựa lăng xăng, gậy đao tở mơ, đánh hơn mười hiệp, Tử Lăng liệu sức khó hơn, và nghĩ rằng:
"Con này phép thuật cao cường, nếu thạch đánh nó từ cái, e không nên việc, chi bằng lấy năm viên thần thạch, nhắm trên dưới hai bên, liệng nhầu một lượt làm cho nó trở tay không kịp, chắc phải thành công". Tính rồi tay thì đỡ đao, miệng niệm thần chú, lấy năm viên thần thạch liệng ra một lượt, xảy thấy năm vầng mây, xanh, vàng, đỏ, đen, trắng, năm sắc rỡ ràng, cát bay đá chạy, khói lửa mịt mù, nhắm ngay quốc mẫu đánh tới, nương nương xem thấy hoảng kinh liền cắn chót lưỡi phun ra mộts búng huyết, nạt rằng:
"Năm thần ở đâu sao không thâu thần thạch cho ta, còn đợi chừng nào? " Nói chưa dứt lời, xảy thấy năm vị thần hiện ra thâu thần thạch tiêu mất, chẳng thấy hình dạng, khói tan lửa rụi, Tử Lăng thấy thần thạch chẳng linh, càng thêm giận lắm, hươi trượng tới đánh, nương nương cười ngất nói:
"Yêu đạo, còn dám đánh nữa sao? Có tà thuật chi đem ra cho hết". Tử Lăng nghe nói tức giận căm gan, mặt đỏ phừng phừng, ráng hết sức bình sanh múa gậy nghe vùn vụt. Nương nương không hề rúng sợ, hươi đao rước đánh, Tử Lăng đánh vùi một hồi, hai tay bủn rủn, miệng đà thở dốc, ngăn đỡ không kịp phải thua chạy dài, nương nương giục ngựa rượt theo. Tử Lăng quay lại ngó thấy nói thầm rằng:
"Đồ tiện tỳ không biết chết, mi phá đặng hai vật bửu bối của ta mà tự thị anh hùng, muốn rượt theo giết ta cho tuyệt, chớ mi đâu rõ trong mình ta còn một vật bửu bối chưa từng dùng đến". Nói rồi thò vào trong túi da beo, lấy ra một cái đồng la nhỏ, tên là hoảng hồn la, chẳng cần đánh gõ chi hết, hễ cầm nơi tay, giơ ngay tướng giặc, rung một cái thì cặp mắt tối đen, không thấy đường; rung hai cái thì hồn tan phách mất, rung ba cái liền chết tức thì, vốn đồ báu lạ của ông Hải Triều để lại cho Tử Lăng. Lúc ấy Tử Lăng bi.
nương nương rượt theo gấp lắm, liền quày nai trở lại, nhắm ngay mặt Củng quốc mẫu rung lên một cái. Quốc mẫu xem thấy kinh hồn thất sắc, vội vàng lấy ra một cái bửu bối, hai đầu nhỏ giữa lớn, tên làphá hồn thần châm, liệng giữa không trung bên kia Tử Lăng vừa muốn rung nữa, xảy thấy một lằn khí sáng, bay rớt xuống nhằm ngay cái hồn la, nổ vang một tiếng, bể ra tan nát, đâm thấu bàn tay lão thầy chùa già nhức đau không xiết, lật đật quày nai bỏ chạy.
Nương nương hươi đao ra sau lưng một cái, quan tổng binh Châu Đạt liền giục trống nghe như sấm nổ. Tôn Yên đứng trên thành, ngó thấy Tử Lăng thua chạy, bèn đốt pháo làm hiệu, tức thì Đông, Tây, Nam, Bắc tám viên tướng mạnh nghe thấy tiếng pháo nổ, liền nhả linh đơn xuống đất, bốn phương tám hướng, binh tướng lớn nhỏ, người người đều lộ hình ra, cờ xí nhộn nhàng, kiếm kích như gai, chẳng khác tường đồng vách sắt, Tử Lăng đang giục nai thua chạy, ngước mặt xem thấy kinh hồn nói:'khi nãy ta cùng con tiện tỳ giao chiến, thì chẳng thấy binh mã chi hết, vì sao làm trong nháy mắt, mà vây phủ ta như vầy, con tiện tỳ này đâu khứng dung ta, ta vốn là một tên học trò, núi cao đắc đạo, sống nào vui, thác nào sợ, nếu ta phá ra khỏi đặng thiệt là cái may muôn phần đó, còn như ta không khỏi, dẫu có chết đi nữa, thì cũng đặng tiếng tốt ngàn năm". Tính rồi nhắm phía Đông chạy trốn, bỗng nghe pháo nổ, xông ra một viên đại tướng, cầm búa đón đường, Tử Lăng xem thấy dừng nai nạt lớn rằng:
"Tướng kia tên gì? Sao dám đón đường ta, hãy thông tên đã". Tên tiểu tướng nạt rằng:
"Ta là con Bảo quốc công, họ Viên tên Cang, mi biết ta lợi hại mau mau xuống ngựa chịu trói cho sớm, khỏi nhọc công ta ra sức". Tử Lăng giận lắm nói:
"Thằng con nít, nhắm bộ mi có tài chi giỏi, mà dám nói phách, coi ta chém mi đây". Liền xốc mai huê lộc, hươi trà điều trượng đánh xuống, Viên Cang cử búa rước đánh, hai bên khoe sức anh hùng, đánh vùi một trận, làm cho lão thầy chùa già ngăn đỡ không kịp, nai ngửa người nghiêng la lớn rằng:
"Cha chả, thằng con nít thật giỏi, sức mạnh búa to, ta sao đánh lại". Bèn đánh bậy một trượng bỏ chạy, Viên Cang rượt theo, vốn con ngựa của Viên Cang chạy mau hơn con mai huê lộc, cho nên đầu ngựa đuôi nai kế khít, Viên Cang nghĩ:
"Nếu ta xuống một búa, chắc thằng yêu đạo này bi.
xả làm hai khúc, cũng không lấy làm chi giỏi, chi bằng bắt sống nó đem về lãnh công". Tính rồi giở chân kẹp búa, xốc ngựa vọt tới, với tay chụp áo đạo bào của Kim Tử Lăng, ráng sức kéo qua, lão thầy chùa già hoảng kinh giựt lại, hai bên ra sức kéo trì, nghe một tiếng vạt áo đứt lìa nửa đoạn, lão thầy chùa già lật đật quất nai, nhắm phía Nam chạy trốn, Viên Cang dừng ngựa trở về phần đất trấn giữ.
Nói về Tử Lăng chạy qua phía Nam thở chưa hết mệt, trước mặt đi tới một viên đại tướng tay cầm trướng thương nạt rằng:
"Yêu đạo! Có nhìn con Định quốc công là Độc Cô Giao hay không? Yêu đạo mi mật lớn bằng trời, cả gan dám phá đến chỗ ta giữ". Chẳng đợi phân nói, hươi thương đâm nhàu, Tử Lăng cử trượng rước đánh, hai bên ra tài võ nghệ, chẳng khác rồng đua cọp đánh, nguyên cây thương của Độ Cô Giao là cái nghề của ông cha truyền lại. Tử Lăng có đâu mà đánh lại, đánh hơn mười hiệp, ngăn đỡ chẳng kịp, cây trà điệu thương coi đà bấn loạn, Độc Cô Giao dùng thế bát thảo tâm xà đâm ngang sườn một cái, lão thầy chùa la chao ôi một tiếng, bị thương quày nai chạy tuốt. Độc Cô Giao chẳng rượt theo, Kim Tử Lăng thua chạy, quay lại không thấy tướng giặc rượt theo bèn dừng nai nghĩ rằng:
"Sườn ta chẳng biết dấu thương thế nào? " Vội vàng cởi áo xem coi, bị mũi thương đâm nhằm, may vì rách ra chớ không lấy chi làm nặng, cột dải áo lại, rồi xách gậy cỡi nai chạy qua phía Bắc, xảy gặp một đạo binh đón đường, xông ra một viên đại tướng, tiếng la như sấm, kêu lớn rằng:
"Yêu đạo! Chạy đâu, ông mi chờ đây đã lâu, mi chẳng biết ông lợi hại sao? " Tử Lăng nói:
"Tôi cùng Triển tướng quân bình nhựt vốn chẳng cừu thù, hôm nay cũng không oan trái, chi bằng thả tôi ra khỏi trùng vây, thì tôi rất cảm ơn lớn của tướng quân". Triển Lân giận lắm nói:
"Yêu đạo, sao dám kiếm lời dụ dỗ, mi chớ chạy, coi ta lấy đầu". Nói dứt lời hai tay hươi thương đâm tới. Tử Lăng cư?
trượng rước đánh, đánh đến mười hiệp, chẳng ai hơn thuạ Triển Lân lén rút cây trước tiết cang tiên, cầm nhập với cây thương, kêu là điệp lý tàng huê, thương lý tàng bổng, xem thấy Tử Lăng hươi trượng đánh tới. Triển Lân trở thương đỡ khỏi, thuận tay giơ cây trước tiết cang tiên lên sáng ngời, nhắm đầu Tử Lăng đánh xuống.
Tử Lăng xem thấy kinh hồn, liền cúi đầu trở qua bị cây roi đánh nhằm xương sống, làm cho Tử Lăng hộc máu chạy dài, quày nai tuốt qua phía Bắc. Triển Phụng giận lắm, mắng rằng:
"Yêu đạo! Sao dám xâm phạm chỗ tả " Rồi chẳng đợi phân trần, hươi đao nạt rằng:
"Yêu đạo! Coi đao ta này!" Tử Lăng ngó thấy đao xuống gần đầu, lật đật trớ qua còn chân thì thúc nai vọt tới, cây đao chém nhằm đầu song cũng bay hồn mất vía, giụa nai tìm đường lánh nạn.
Lúc ấy có quan lược trận bên Tần thấy Tử Lăng bị vây nguy khốn, liền bay ngựa về dinh tâu cùng Thủy Hoàng. Lúc ấy có Vương Tiễn, Chương Hàng, Triệu Cao nghe hết, chẳng kịp thỉnh lệnh, lật đật xuống trướng, tay cầm binh khí, thót lên ngựa, dẫn bộ quân binh ra khỏi cửa dinh, ráng sức phá vào trong trận, Tử Lăng ngó thấy rất mừng nói:
"Mang ơn ba vị đến cứu, song việc không nên chậm trễ, phải phá khỏi trùng vây, mới có đường sống đặng". Ba tướng nói:
"Lời quốc sư phân phải lắm".
Rồi đó bốn người xông phá chạy ra.
Nói về Củng nương nương hay đặng binh Tần phát binh phá vào trùng vây cứu Kim Tử Lăng, thì trong lòng giận lắm, hươi đao cửu hườn, giục ngựa đào huê, tuốt qua phía bắc.
Lúc ấy bốn phía tám hướng, thấy cờ long phụng tợ sao bay chớp nháng, chạy xẹt qua hướng Bắc, người người đều giục ngựa tưng bừng, áp lại phủ vây tướng Tần, nước chảy chẳng lọt. Tử Lăng thấy Củng nương nương dẫn chúng tướng áp lại vây phủ không đường nào ra khỏi thì hoảng kinh, xảy nhớ trực lại, nói:
"Mình đại chết thì thôi, nay bị vây, tánh mạng chết trong giây phút, sao chẳng ra phép đánh phá trùng vây còn đợi chừng nào? " Nói rồi miệng niệm chơn ngôn, thình lình giông gió nổi lên, cát bay đá liệng, ba quân mở mắt không ra. Tử Lăng rất mừng, kêu chúng tướng:
"Phải chạy theo ta mà ra cho mau". Nhơn lúc đó, Triệu Cao, Vương Tiễn, Chương Hàng ráng sức đánh ra khỏi hàm rồng hang cọp, thoát đặng trùng vây, lật đật như cá ra khỏi lưới, tuốt về dinh Tần.
Nói về Củng nương nương đang thôi thúc chúng tướng vây phủ dinh Tần, chẳng dè Tử Lăng lén làm phép gió cát thoát khỏi trùng vây. Nương nương cả đặng toàn thắng, thâu quân dẫn chúng tướng về thành.
Lúc ấy Tương Vương đang ở trên lầu thành lược trận, thấy nương nương đắc thắng, thâu binh về thành, trong lòng mừng rỡ, dẫn chúng tướng văn võ xuống thành, đến cửa phía Tây tiếp rước. Giây phút thấy cờ xí lăng xăng, ba quân hớn hở, gióng chiêng trở về. Tương Vương thấy nương nương về tới cửa thành, vội vàng bước ra.
Nương nương xem thấy xuống ngựa, vợ chồng dắt nhau vào hành cung. Nương nương thay đồ nhung phục rồi làm lễ ra mắt. Tương Vương cười nói:
"Hiền thê vì giang san của trẫm nên đánh đã trọn ngày, làm thua đặng Tử Lăng, thiệt công chẳng nhỏ, lòng trẫm cảm tưởng khôn cùng". Nương nương nói:
"Một nhờ phước bệ hạ, hai là có chước diệu Nam quân vương, ba nữa là chúng tướng đồng lòng ra sức đánh lui người Tần, chớ thiếp có công chỉ " Tương Vương cười nói:
"Hiền thê thôi chớ khiêm nhường, trẫm kỉnh trước một chung rượu đặng mừng công hiền thê". Nói dứt lời kêu quân đemrượu, tả hữu rót đầy chén vàng, hai tay dâng lên. Tương Vương tiếp chung rượu cúi mình nói:
"Hiền thê trên ngựa nhọc nhằn hãy uống một chung rượu này cho rõ tấm lòng trẫm yêu mến vô cùng". Nương nương vội vàng quỳ xuống nói:
"Thiếp có đức chi, làm nhọc đến bệ hạ ban thưởng". Rồi giơ tay tiếp lấy chung rượu, vốn nương nương là người chinh chiến nhọc nhằn, cả mình đều những mồ hôi, cất chung rượu uống vừa rồi, thình lình trước mặt tối đen sau lưng xây xẩm, tế nhủi ngã ngửa ra rớt nhào xuống đất, quăng chén bể tan. Tương Vương hoảng kinh, lật đật bước tới đỡ dậy, giây lâu mắt phụng mở dậy cả mình mồ hôi như tắm. Tương Vương thất kinh vội vàng dạy cùng quan phò nương lên tán phụng, đưa về cung Chiêu vương, thuốc thang điều trị. Rồi đó Tương Vương dẫn văn bá quan vừa muốn về triều xảy có quân báo nói:
"Nam quận vương về triều, còn đứng ngoài thành hầu chỉ.s" Tương Vương nghe nói mừng khôn xiết, truyền chỉ phò vương thúc vào ra mắt. Điền Anh vào đến hành cung. Tương Vương đứng dậy nói:
"Lúc nọ vương thúc ra trận bị giặc Tần nó ám toán, thua chạy phương nào, vì sao đi biệt vài ngày, mà đặng trở về đây? " Điền Anh đem việc bị thần thạch Tử Lăng đánh nhằm, thua chạy tới làng Ngọa Long, gặp con gái ông Hộ Quốc công, là Lý Phù Dung cứu sống, rồi cùng nhau kết làm chồng vợ, mà thuật hết đầu đuôi. Tương Vương nói:
"Việc cũng là cái may muôn ngàn của vương thúc." Bèn truyền chỉ cho Vương Thiểm (là thím của vua) vào ra mắt. Lý Phù Dung vâng chỉ vào đến hoàng cung, tung hô ba lượt, làm lễ xong rồi. Tương Vương khiến đứng dậy, dạy cung quan sắm sửa kiệu tàn, đặng đưa vương thiểm về phủ, Lý Phù Dung tạ Ơn lên tàn, thẳng qua vương phủ, Tương Vương lên xe vào đại điện, bày yến diên khao thưởng bá quan.
Nói về Kim Tử Lăng, lén hóa phép gió cát, xông ra khỏi kim tỏa, về đến dinh Tần, vào Huỳnh la bửu trướng ra mắt Thủy Hoàng xin tội. Thủy Hoàng nói:
"Quốc sư bị vây mà về được là may, còn việc thắng bại binh gia là sự thường, trẫm đâu khứng làm tội. Song cùng Kim Định tuy rằng có tài mạnh mẽ, cũng chưa ắt là nó có chước hay như vậy, e có người tài phụ giúp, phép toán âm dương của quốc sư rất nghiệm, sao chẳng chiếm coi thử người nào bày trận kim tỏa lợi hại như vậy? " Tư?
Lăng dạy bàn hương án, rồi khấn vái một hồi, gieo tiền xủ quẻ, xem coi hào tượng, rồi thất kinh, làm thinh chẳng nói. Thủy Hoàng hồ nghi hỏi rằng:"Chẳng hay quốc sư chiếm quẻ biết chắc người nào hành binh bố trận, hoặc hung hoặc kiết, mau mau nói cho trẫm rõ, vì sao chẳng nói tiếng chi; xem coi hào tượng, mà có sắc kinh như vậy".
Kim Tử Lăng bỏ tiền xuống tâu rằng:
"Tôi ngỡ là Tôn Tẫn đã về núiThiên Thai rồi, không dè ở tại thành Lâm Tri, hôm nay lén bày trận Sát Môn, giúp cho Củng Kim Định; nếu không có phước lớn của bệ hạ, thì ắt phải mang tay độc của nó rồi". Thủy Hoàng nghe nói Tôn Tẫn còn ở nước Tề, thì lòng mật xé gan.