Chương 26
-
Reacher báo thù
- Lee Child
- 5240 chữ
- 2020-05-09 04:19:00
Số từ: 5226
Dịch giả: Trần Quý Dương
C.ty Nhã Nam phát hành
NXB Thời Đại
Tôi phải rất cẩn thận chọn nơi để chiếc Bentley. Tôi muốn nó trông như bị bỏ lại một cách rất bình thường. Nhưng phải để sao cho không ai có thể đi qua được. Tôi tiến rồi lùi một chút. Đỗ xe ở đầu lối chạy xe nhà Hubble ra phố, hai bánh quặt sang một bên. Trông như tôi chạy xe đến rất vội và chỉ ngoặt tay lái là dừng lại. Tôi muốn ngôi nhà trông có vẻ là tôi đang trong đó. Không gì rõ ràng hơn một tòa nhà trống, vẻ yên tĩnh, bị bỏ mặc sẽ không tốt cho tôi. Còn sự im lìm. Không có tiếng động của con người. Thế nên tôi mở cửa trước bằng chìa trong chùm chìa khóa to Charlie đã đưa. Bước vào bật ngẫu nhiên vài bóng điện. Trong phòng làm việc, tôi bật ti vi lên để nó hoạt động với âm lượng thấp. Với chiếc đài trong bếp cũng vậy. Kéo vài rèm cửa ra. Trở vào trong. Trông có vẻ rất ổn. Trông như có ai đó trong nhà.
Rồi điểm dừng đầu tiên là tủ đựng quần áo cách xa hành lang chính. Tôi tìm găng tay. Không dễ tìm ở miền Nam đầy nắng này. Không có nhu cầu sử dụng găng tay nhiều. Nhưng Hubble vẫn có. Hai đôi, nằm gọn gàng trên một giá. Một đôi dùng để trượt tuyết. Màu vàng chanh và tím hoa cà. Không tốt lắm cho tôi. Tôi muốn loại màu tối. Đôi còn lại là thứ tôi muốn. Loại sang trọng làm bằng da mỏng màu đen. Găng tay của một giám đốc ngân hàng. Rất mềm. Như lớp da thứ hai.
Đôi găng trượt tuyết khiến tôi tìm một chiếc mũ. Nếu vợ chồng Hubble từng có những chuyến đi tới Colorado, họ sẽ phải có đủ đồ nghề. Tôi tìm thấy một thùng đựng mũ. Trong này có một kiểu mũ bonê làm bằng sợi tổng hợp. Có thể kéo xuống trùm tai được. Chiếc mũ in các hoa văn màu xanh sẫm. Sẽ hữu ích.
Điểm dừng tiếp theo là phòng ngủ chính. Tôi tìm thấy bàn trang điểm của Charlie. Nó còn lớn hơn một số căn phòng tôi đã ở. Cô ta có rất nhiều mỹ phẩm. Đủ mọi loại. Tôi mang một lọ mascara không trôi vào phòng tắm. Bôi kín mặt mình. Rồi tôi kéo khóa áo khoác, đội mũ, đeo găng tay vào. Tôi trở lại phòng ngủ kiểm tra kết quả trong chiếc gương soi toàn thân trên cửa tủ quần áo. Không tệ. Vừa đủ phù hợp cho công việc ban đêm.
Tôi lại trở ra ngoài. Khóa cửa trước lần nữa. Tôi có thể cảm nhận được cơn giông rất lớn đang dồn lại phía trên đầu. Trời rất tối. Tôi đứng cạnh cửa trước kiểm tra lại mình. Đút khẩu súng ngắn vào túi bên của áo khoác. Kéo khóa xuống thử động tác rút súng. Rút dễ dàng. Nạp đầy đạn, chếch. Đóng khóa an toàn. Đạn dự trữ ở túi ngoài trên cùng bên phải. Dao bấm ở túi cạnh trái. Dùi cui ở túi cạnh phải. Dây giày đã buộc chặt.
Tôi bước theo lối chạy xe, qua chiếc Bentley chừng mười hai, mười lăm mét. Chui vào một bụi cây ổn định ở một điểm tôi có thể quan sát lối chạy xe ở cả hai hướng. Tôi ngồi trên nền đất lạnh sẵn sàng chờ đợi. Trong phục kích, chờ đợi là yếu tố dẫn đến chiến thắng. Nếu phía bên kia cảnh giác, kẻ đó sẽ đến sớm hoặc muộn. Vào lúc hắn cho là ta không nghĩ hắn tới. Thế nên dù kẻ đó có đến sớm bao nhiêu, ta cũng phải ở trạng thái sẵn sàng từ trước đó. Dù kẻ đó rời khỏi nơi ấy muộn bao lâu đi nữa thì ta cũng phải đợi cho tới khi hắn đi khỏi. Ta đợi trong trạng thái như bị thôi miên. Ta cần sự kiên nhẫn vô hạn. Không có lý do gì để bực bội hay lo lắng. Ta chỉ chờ đợi. Không làm gì, không nghĩ gì, không mất năng lượng. Rồi ta bùng lên hành động. Sau một giờ, năm giờ, một ngày, một tuần. Chờ đợi cũng là một kỹ năng như bất kỳ thứ nào khác.
Lúc tôi ổn định để chờ đợi là 12 giờ kém 15. Tôi có thể cảm thấy cơn giông vần vũ trên đầu. Không khí đặc như súp. Trời tối đen như mực. Đến khoảng nửa đêm thì cơn giông vỡ ra. Những giọt nước nặng to cỡ đồng xu quất mạnh xuống đám lá chung quanh tôi. Trong phút chốc chúng tạo thành cơn mưa như trút. Như ngồi dưới vòi tắm. Tiếng sấm khủng khiếp vang rền. Chúng giật lên, nổ đùng đùng và chớp rạch nát trời. Thi thoảng khu vườn quanh tôi sáng lên vài giây như ban ngày. Tôi ngồi chờ đợi dưới cơn mưa như quất như quật. Mười phút. Mười lăm phút.
Chúng đến tìm tôi lúc đã qua nửa đêm được hai mươi phút. Mưa vẫn rơi ào ào và sấm sét vẫn đì đoàng. Tôi không nghe thấy tiếng chiếc xe tải cho tới khi nó đã vào hẳn lối chạy xe. Tôi nghe tiếng bánh xe nghiến trên sỏi cách chừng hơn mười hai mét. Đó là một chiếc xe tải thùng kín màu xanh sẫm. Sơn chữ vàng. Quỹ Kliner. Giống chiếc tôi đã trông thấy gần nhà Roscoe sáng hôm thứ Ba. Nó lạo xạo chạy qua tôi, cách khoảng hai mét. Lốp rộng để lại vết trên sỏi. Đó là vết lốp Finlay đã thấy ở nhà Morrison. Những vết do loại lốp rộng nghiến trên sỏi.
Chiếc xe tải đi quá chỗ tôi vài mét thì dừng lại. Nó đỗ sát phía sau chiếc Bentley. Không thể đi qua. Đúng chỗ tôi muốn nó đậu. Tôi nghe tiếng động cơ ngừng và phanh tay kéo lên.
Tên đầu tiên ra khỏi xe là lái xe. Hắn mặc một bộ đồ toàn thân bằng nylon màu trắng. Bộ này có mũ trùm đầu ôm chặt quanh mặt. Đeo mặt nạ phẫu thuật. Hắn đeo găng tay mỏng bằng cao su. Đi ủng bao ngoài bằng cao su. Hắn nhảy khỏi ghế lái bước vòng về phía cửa sau. Tôi biết kiểu đi đó. Tôi biết thân hình cao lớn, nặng nề ấy. Tôi biết những cánh tay dài đầy sức mạnh ấy. Đó là thằng con trai nhà Kliner. Chính thằng Kliner con đã đến để lấy mạng tôi. Hắn vỗ lòng bàn tay vào cửa sau. Động tác ấy tạo ra một tiếng động trầm. Rồi gã trai xoay tay nắm mở cửa. Bốn gã đàn ông chui ra. Tất cả đều ăn mặc giống nhau. Những bộ đồ toàn thân bằng nylon màu trắng, những chiếc mũ trùm ôm chặt quanh mặt, mặt nạ, găng tay, giày bao ngoài bằng cao su. Hai tên cầm túi. Hai tên có súng trường dài nòng lớn. Tất thảy năm tên. Tôi đã tính toán ứng phó với bốn tên. Năm thì khó hơn. Nhưng sẽ hiệu quả hơn.
Mưa vẫn trút lên người bọn chúng. Tôi có thể nghe thấy tiếng vang hơi giòn khi nước đập vào những bộ đồ toàn thân bằng nylon cứng. Tôi có thể nghe tiếng lanh canh từ kim loại khi những giọt mưa lớn rơi xuống bật tung khỏi nóc chiếc xe tải. Tôi thấy ánh chớp chiếu vào chúng. Bọn này trông như thần Chết. Như thứ gì đó trốn thoát khỏi địa ngục. Chúng tạo nên một cảnh tượng kinh hoàng. Lần đầu tiên tôi không chắc mình có thể đánh bại chúng nếu đụng mặt chúng đêm hôm thứ Hai. Nhưng đêm nay tôi sẽ cho chúng thất bại. Đêm nay, tôi có lợi thế bất ngờ. Tôi sẽ là cơn ác mộng tàng hình được thả tự do giữa bọn chúng.
Kliner con đang tổ chức đội hình. Hắn vươn người vào phía sau xe tải lấy ra một chiếc xà beng. Chỉ tay vào ba trong số tay sai của hắn và cùng chúng bước qua màn mưa vào nhà. Tên thứ năm sẽ đợi ngoài xe. Do mưa, hắn sẽ phải chui vào ca bin. Tôi thấy hắn liếc lên bầu trời đen thẫm rồi liếc về ghế lái. Tôi lôi chiếc dùi cui. Vạch bụi chui ra. Gã đàn ông không thể nghe thấy tiếng động do tôi gây ra. Tiếng mưa đang khiến hai tai hắn lùng bùng. Hắn xoay lưng bước một bước về phía cửa xe bên tay lái. Tôi nhắm chặt hai mắt một giây và hình dung ra cảnh Joe không còn mặt nằm trên bàn phẫu thuật của nhà xác. Hình dung cảnh Roscoe đang run lên vì sợ hãi khi cô chằm chằm nhìn những dấu chân trên sàn hành lang. Rồi tôi lao ra khỏi bụi cây. Chạy tới phía sau gã đàn ông. Giáng thẳng chiếc dùi cui vào gáy hắn. Nó là chiếc dùi cui lớn và tôi lại dùng hết sức bình sinh. Tôi cảm nhận được xương vỡ ra dưới dùi cui. Gã đàn ông đổ sập xuống nền sỏi như cây bị đẵn gốc. Hắn nằm úp mặt xuống, mưa gõ lộp bộp trên bộ đồ toàn thân bằng nylon. Chỉ với một cú đánh trời giáng, tôi cho gãy cổ hắn. Xong một tên.
Tôi kéo xác chết trên nền sỏi bỏ ở phía sau chiếc xe tải. Bước vòng lại rút chìa khóa khỏi ổ điện. Bò vào phía nhà. Tôi đút chiếc dùi cui vào túi. Bật con dao bấm và cầm bằng tay phải. Tôi không muốn dùng súng trong nhà. Quá ồn, ngay cả khi sấm nổ phía bên ngoài. Tôi dừng lại ở phía trong cửa trước. Khóa đã bị phá còn gỗ vỡ ra. Tôi trông thấy chiếc xà beng trên sàn hành lang.
Đây là một căn nhà rộng. Chúng sẽ phải mất chút thời gian lục soát. Tôi đoán là bọn này sẽ đi cùng nhau thành nhóm bốn tên. Chúng cùng nhau tìm kiếm. Rồi chúng sẽ xé lẻ. Tôi có thể nghe tiếng chân bọn này khắp sàn tầng trên. Tôi lùi ra ngoài để chờ một tên trong số đó xuống hành lang. Tôi chờ đợi, người ép sát vào tường, cạnh cánh cửa mới bị phá. Tôi được phần mái nhô ra che cho. Mưa vẫn ào ạt. Cũng ghê gớm như một con bão nhiệt đới.
Tôi đợi khoảng năm phút thì tên đầu tiên xuống gác. Tôi nghe tiếng bước chân hắn lạch cạch ở hành lang. Nghe tiếng hắn mở cửa tủ quần áo. Tôi bước vào trong nhà. Lưng tên này đang xoay ra phía tôi. Hắn là một trong hai tên cầm súng trường, cao, gầy hon tôi. Tôi lao bổ vào hắn. Dùng bàn tay trái giơ lên phía trên đỉnh đầu hắn. Chọc các ngón tay vào mắt hắn. Gã đàn ông buông khẩu súng trường. Nó rơi bịch xuống thảm. Tôi lôi gã đàn ông về phía sau, xoay người hắn kéo nhanh ra ngoài cửa. Vào màn mưa. Chọc các ngón tay vào mắt hắn sâu hơn. Xoay đầu hắn lại. Và cứa đứt họng. Ta không thể làm việc này bằng một nhát cứa nhẹ nhàng. Không giống như trong phim. Chẳng có dao nào đủ sắc để làm như thế. Trong cổ họng con người có đủ loại sụn cứng. Ta phải cứa qua cứa lại với lực rất mạnh. Mất một lúc. Nhưng thành công. Rất thành công. Đến lúc ta đã cứa tới tận phần xương thì kẻ bị ta cứa đã chết. Gã này không phải ngoại lệ. Máu hắn phun ra hòa với nước mưa. Người hắn nhũn ra dưới tay tôi. Xong hai tên.
Tôi nắm lấy phần trên mũ trùm đầu rồi kéo cái xác tới bãi cỏ. Chẳng có ích gì nếu dùng hai tay nâng hắn lên ở vai và gối. Đầu hắn sẽ ngửa ra sau rơi khỏi người. Tôi để tên này trên cỏ. Chạy trở vào trong, cầm khẩu súng trường lên và nhăn mặt . Đây là loại vũ khí ghê gớm. Một khẩu Ithaca Mag- 10. Tôi đã thấy loại này khi còn trong quân đội. Chúng dùng loại đạn rất lớn. Người ta gọi chúng là Súng mở đường. Đạn đủ sức mạnh giết chết người sau khi đã xuyên qua cạnh của chiếc xe hơi vỏ mềm. Mặt đối mặt thì loại này khủng khiếp. Súng chỉ mang ba viên đạn nhưng như đã nói, đến khi bắn hết được ba viên thì trận đấu đã xong cả rồi.
Tôi vẫn để con dao bên ngoài làm vũ khí ưu tiên.
Im lặng. Nhưng súng trường vẫn khá hơn khẩu Desert Eagle với tư cách súng dự phòng, vấn đề với súng trường là: ngắm bắn là điều xa xỉ. Súng trường rải đạn hết một góc hình nón khá rộng. Với khẩu Mag-10, chỉ cần súng chĩa hơi đúng hướng là ta sẽ bắn trúng.
Tôi lùi ra ngoài qua cánh cửa gỗ bị phá và tì người vào tường, không bị mưa. Tôi đợi. Giờ tôi cho rằng bọn chúng sẽ bắt đầu ra khỏi nhà. Chúng không thấy tôi trong đó và thấy thiếu tên tôi vừa hạ. Thế nên chúng sẽ bắt đầu ra ngoài. Đó là điều không thể tránh. Chúng không thể ở trong đó mãi. Sớm muộn chúng sẽ ra.
Chúng ra. Hai tên đi cùng nhau. Chúng đi thành cặp. Điều đó khiến tôi do dự một chút. Hai tên bước ra ngoài mưa, tôi nghe tiếng mưa bắt đầu quất ràn rạt vào mũ trùm nylon của chúng. Tôi lại lôi chiếc dùi cui ra. Chuyển sang tay phải. Tên đầu tiên bị hạ chẳng mấy khó khăn. Tôi phang thẳng chiếc dùi cui nặng vào gáy tên này, đầu hắn gần như gãy hẳn. Nhưng tên thứ hai phản ứng lại vặn người sang bên nên tôi đánh hụt cú thứ hai. Chiếc dùi cui chỉ giáng trúng xương đòn của hắn, khiến hắn quỵ gối. Tay trái tôi đâm thẳng mũi dao vào mặt hắn. Bồi thêm một cú bằng dùi cui. Tôi phải mất hai đòn nữa mới làm gãy cổ tên này. Hắn là một tên dẻo dai. Nhưng không đủ dẻo dai. Xong bốn tên.
Tôi lôi hai xác chết qua làn mưa ào ạt tới bãi cỏ bên rìa lối rải sỏi nối nhà với phố, xếp hai cái xác này với tên lúc nãy. Tôi đã hạ bốn tên và thu được một khẩu súng trường. Chìa khóa chiếc xe tải nằm trong túi tôi. Thằng con trai Kliner cùng một khẩu súng trường vẫn ngoài tầm kiểm soát.
Tôi không tìm thấy hắn. Tôi không biết hắn đang ở đâu.
Tôi bước vào nhà, rời màn mưa, và lắng nghe. Không thể nghe được gì. Tiếng mưa rơi trên mái và trên lớp sỏi ngoài nhà quá ồn. Nó tạo nên một tấm mặt nạ trắng ầm ĩ giấu hết mọi thứ.
Nếu thằng nhóc ngửi thấy mùi chẳng lành và lẩn trốn thì tôi sẽ không nghe thấy tiếng hắn. Đó sẽ là một vấn đề.
Tôi bò vào bếp. Mưa đang rơi như gõ xuống mái. Tôi đứng yên nghe thật kỹ. Nghe thấy tiếng Kliner con ngoài hành lang. Hắn đang ra ngoài. Hắn sẽ ra bằng cửa trước.
Nếu tên này rẽ phải, hắn sẽ vấp phải ba tên tay sai đã chết chồng đống trên bãi cỏ. Nhưng hắn rẽ trái. Hắn đi qua những ô cửa sổ của nhà vườn. Hắn đang đi qua bãi cỏ sũng nước ra hiên. Tôi quan sát gã trai bước qua, xuyên màn mưa, có lẽ cách chừng hai mét rưỡi. Trông như bóng ma từ địa ngục trở về. Một con ma từ địa ngục chĩa cây súng trường dài, đen phía trước người.
Trong túi tôi có chìa khóa nhà vườn, cùng chùm có chìa chiếc Bentley. Tôi mở cửa bước ra ngoài. Mưa xối xả quất vào tôi như từ vòi phun cứu hỏa. Tôi rón rén đi vòng về phía hiên. Thằng con Kliner đang đứng đó, nhìn xuống phía bể bơi lớn. Tôi cúi người trong mưa quan sát hắn. Từ cự ly sáu mét, tôi có thể nghe thấy tiếng mưa quất vào bộ đồ toàn thân bằng nylon trắng của gã trai. Chớp rạch ngang trời và sấm sét nổ liên tục.
Tôi không muốn bắn con trai Kliner bằng khẩu Mag-10 đang cầm. Tôi phải thủ tiêu các xác chết. Tôi muốn để lão già Kliner thấp thỏm không yên. Tôi phải để cho lão phỏng đoán về chuyện đã xảy ra. Về nơi con trai lão đã biến đi. Việc ấy sẽ khiến lão mất cân bằng. Và rất quan trọng cho sự an toàn của tôi. Tôi không thể để lại chút vết tích nào dù nhỏ nhất. Dùng khẩu Ithaca lớn bắn gã trai sẽ gây tiếng động rất lớn. Khi ấy thủ tiêu xác hắn sẽ là vấn đề kinh khủng. Sẽ khó mà tìm được hết các mảnh xác. Tôi chờ đợi.
Kliner con bắt đầu bước theo bãi cỏ dốc dài về phía bể bơi. Tôi vòng lại, vẫn trên nền cỏ ướt. Thằng nhóc bước chầm chậm. Hắn đang lo lắng. Hắn chỉ có một mình. Tầm nhìn của tên này không được tốt. Chiếc mũ trùm quanh mặt hắn đang hạn chế tầm quan sát. Hắn phải liên tục xoay đầu từ bên này sang bên kia, cổ cứng ngắc, như người máy. Gã trai dừng ở rìa bể bơi. Tôi đứng sau hắn một mét. Tôi lắc trái rồi phải, trái rồi phải, tránh khỏi tầm quan sát của Kliner con khi hắn chuyển ánh nhìn từ bên nọ sang bên kia. Khẩu súng trường lớn của hắn quét hết trái lại phải phía trên bể bơi đầy nước.
Theo những cuốn sách tôi từng đọc hay những bộ phim từng xem, tôi nên chiến đấu với gã thanh niên này một cách cao thượng. Tôi có mặt ở đây vì anh trai mình. Và trước mặt tôi là kẻ đã đá thi thể anh trai tôi như một đống giẻ. Chúng tôi nên chiến đấu với nhau, mặt đối mặt. Hắn nên biết đối thủ của mình là ai. Hắn nên biết vì sao hắn phải chết. Tất cả những hành động cao thượng đó, giữa đàn ông với nhau. Nhưng đời thực không phải thế. Joe sẽ cười vào những việc như vậy.
Tôi dùng hết sức nện chiếc dùi cui vào đầu con trai Kliner. Đúng lúc hắn xoay người quay vào trong nhà. Chiếc dùi cui sượt qua lớp nylon trơn bóng, đà của chiếc ống nặng đầy chì kéo tôi mất chân trụ. Tôi ngã như một người trượt băng. Gã trai xoay người nâng khẩu súng trường lên. Đẩy một viên đạn vào buồng đạn. Tôi vươn cánh tay lên gạt nòng súng sang bên. Lăn người ngay dưới tầm đạn bắn của hắn. Kliner con siết cò, một tiếng nổ kinh khủng vang lên, còn to hơn tiếng sét mạnh nhất. Tôi nghe tiếng lá cây rách và rơi xuống khi viên đạn xuyên vào mấy cây phía sau chúng tôi.
Lực giật ghê gớm của phát bắn khiến con trai Kliner giật lùi, nhưng hắn lên nòng ngay viên thứ hai. Tôi nghe tiếng cạch cạch đầy đe dọa của kim loại. Đang nằm ngửa trên rìa bể bơi lát gạch nhưng tôi vẫn chồm dậy dùng cả hại tay chộp lấy khẩu súng. Đẩy nòng lên trên, báng xuống dưới và một lần nữa gã trai bắn vào không khí. Một tiếng nổ kinh khủng khác vang lên. Lần này tôi kéo ngược với lực giật và tước khẩu súng khỏi tay đối thủ. Tống báng súng vào mặt hắn. Đó là một đòn không đáng kể. Báng khẩu Ithaca đệm một miếng cao su lớn. Mục đích là bảo vệ vai của người bắn trước lực giật rất mạnh. Giờ thì nó bảo vệ đầu của thằng nhóc trước cú chọc báng súng của tôi. Hắn chỉ giật người về sau. Tôi lao thẳng vào hai chân gã trai, xô hắn về sau. Giật lấy hai bàn chân ném thẳng tên này vào bể bơi. Hắn rơi úp bụng xuống, làm nước tóe lên. Tôi nhảy lên người gã trai.
Chúng tôi đang ở đầu sâu nhất của bề bơi, quẫy đạp để giành chiến thắng. Mưa vẫn rơi tầm tã. Clo khiến mắt mũi tôi như phải bỏng. Tôi vùng vẫy cho tới khi túm được họng con trai Kliner. Giật chiếc mũ trùm đầu bằng nylon về phía sau, siết cả hai bàn tay quanh cổ hắn. Gập hai cánh tay lại và dìm đầu tên này sâu dưới nước. Tôi siết họng hắn bằng toàn bộ sức lực mình. Tên cưỡi mô tô trong nhà tù ở Warburton đã nghĩ rằng hắn làm tốt việc siết cổ tôi, nhưng việc ấy so với điều tôi đang làm với Kliner con thì chỉ như cái vuốt ve của người yêu. Tôi như đang rứt đầu hắn khỏi cổ. Tôi bóp chặt, vặn và dìm đối thủ dưới nước một mét cho tới khi hắn chết. Không mất nhiều thời gian. Trong tình huống như thế thì không bao giờ mất nhiều thời gian. Kẻ đầu tiên bị đè xuống dưới sẽ vẫn ở dưới. Có thể đó đã là tôi rồi.
Tôi bước dưới nước và thở dốc trong mùi clo nồng nặc. Mưa trút xuống mặt nước. Không thể biết chỗ nào là nước chỗ nào là không khí. Tôi để cho xác con trai Kliner nổi trên mặt nước và bơi vào bờ. Leo lên, thở đều. Thời tiết quả là cơn ác mộng. Bây giờ sấm sét nổ liên tục còn chớp rạch ngang dọc trên trời. Mưa không ngừng trút xuống. Nếu ở dưới bể bơi thì người tôi còn khô hơn. Nhưng tôi có những việc phải làm.
Tôi bơi lại chỗ xác con trai Kliner. Nó đang nổi cách tôi một mét. Tôi kéo nó vào cạnh bể. Rồi kéo mình lên khỏi bể. Mỗi tay giật lấy một túm nylon kéo cái xác lên sau mình. Nó nặng như cả tấn. Cái xác nằm cạnh bể, nước phọt ra từ các cổ tay và ống quần của bộ đồ toàn thân. Tôi để nó nằm đó và loạng choạng bước về phía ga ra.
Bước đi không phải việc dễ dàng. Quần áo tôi ướt sũng và lạnh. Giống như bước khi đang mặc áo giáp. Nhưng tôi vẫn cố tới được ga ra và tìm thấy chìa khóa. Mở cửa bật đèn lên. Đây là ga ra dành cho ba xe. Chỉ có chiếc Bentley còn lại đang trong này. Xe của Hubble, cùng đời với chiếc của Charlie. Màu xanh sẫm tuyệt đẹp, được lau chùi tỉ mỉ đến sáng bóng. Khi di chuyển qua chiếc xe tôi có thể thấy hình mình phản chiếu qua lớp sơn. Tôi tìm một chiếc xe cút kít hoặc xe đẩy dùng để làm vườn. Bất kỳ loại nào những người làm vườn sử dụng. Ga ra đầy đồ làm vườn. Một chiếc máy cắt cỏ loại lớn có ghế ngồi điều khiển, vòi nước, các dụng cụ khác. Ở góc sâu có một dạng xe cút kít với bánh nan hoa khá to.
Tôi đẩy chiếc xe ra trời giông tới bể bơi. Lần mò tìm hai khẩu súng trường và chiếc dùi cui ướt sũng. Ném hai khẩu súng vào xe cút kít và đút chiếc dùi cui vào lại túi mình. Kiểm tra để chắc chắn rằng xác Kliner con vẫn mang giày rồi nhấc lên xe. Chở lên phía nhà rồi vào lối chạy xe. Lách qua chiếc Bentley và vòng ra sau chiếc xe tải. Tôi mở hai cửa sau đẩy cái xác vào trong. Leo lên kéo nó sâu vào trong xe. Mưa đang gõ trên nóc xe. Rồi tôi nâng xác tên đầu tiên lên kéo vào cạnh xác con trai Kliner. Ném ba khẩu súng lên trên chúng. Hai tên đã được xếp gọn gàng.
Rồi tôi đưa chiếc xe cút kít tới nơi đã xếp ba xác chết còn lại. Chúng đang nằm dài trên bãi cỏ ướt sũng nước, mưa ràn ràn quất vào những bộ đồ toàn thân gớm ghiếc. Tôi chở ba cái xác tới chỗ chiếc xe tải chúng đã dùng để tới đây, xếp cả năm vào trong cốp xe.
Rồi tôi đẩy chiếc xe cút kít dưới mưa tới ga ra. Đẩy trở lại góc tôi đã tìm ra nó. Lấy một chiếc đèn pin từ bàn mộc. Tôi muốn xem mặt bốn gã đàn ông Kliner đưa đi theo. Tôi chạy dưới mưa trở lại chiếc xe tải rồi leo vào cốp. Bật đèn pin và cúi người trên hàng bốn xác chết đáng thương.
Thằng nhóc nhà Kliner, tôi đã biết. Với bốn gã còn lại, tôi kéo mũ trùm đầu chúng về phía sau và giật tung mặt nạ.
Rọi đèn pin vào mặt chúng. Hai trong số này là bọn gác ở nhà kho. Hôm thứ Năm tôi đã trông thấy chúng qua ống nhòm, chắc chắn rồi. Có lẽ trước tòa án binh thì tôi không phải tuyên thệ đảm bảo điều đó, nhưng đêm nay tôi chẳng quan tâm tới thủ tục pháp lý ấy.
Hai tên còn lại thì tôi biết chắc chắn. Không có gì nghi ngờ về điều đó. Chúng là cảnh sát. Chúng là đội hỗ trợ hôm thứ Sáu. Chúng đi cùng Baker và Stevenson tới tiệm ăn để bắt tôi. Từ lúc ấy tôi đã trông thấy chúng ở đồn vài lần.
Chúng đã tham gia vào hoạt động đen tối. Thêm lực lượng đang ẩn mặt của thị trưởng Teale.
Tôi lại leo ra khỏi xe tải mang đèn pin trở lại ga ra. Khóa cửa rồi chạy trong mưa ra phía trước nhà. Nhấc hai chiếc túi chúng đã mang theo. Ném vào trong hành lang nhà Hubble và bật đèn. Kiểm tra hết hai túi. Găng tay và mặt nạ dự phòng. Một hộp đạn súng trường cỡ 10. Một chiếc búa. Một túi đinh dài mười lăm phân. Bốn con dao. Loại dao phẫu thuật. Chỉ nhìn chúng ta cũng bị cứa vào người rồi.
Tôi cầm chiếc xà beng chúng đã ném sau khi dùng để phá khóa lên. Nhét vào một chiếc túi. Mang chúng xuống chỗ xe tải ném lên trên năm xác chết. Rồi tôi đóng chặt, khóa cửa sau và một lần nữa chạy dưới mưa tới căn nhà. Tôi chạy vào khóa cửa nhà vườn. Chạy trở lại bếp. Tôi mở cửa lò nướng và dốc hết đồ trong các túi ra. Đặt tất cả xuống sàn. Tìm trong tủ bát hai chiếc khay dùng nướng đồ. Tôi tháo rời khẩu Desert Eagle và cẩn thận đặt các bộ phận lên một khay, xếp số đạn dự phòng ở cạnh. Đặt con dao, chiếc dùi cui, chùm chìa khóa xe Bentley, tiền và giấy tờ của tôi vào khay còn lại. Tôi đưa hai chiếc khay vào lò và vặn nhiệt độ ở mức thấp nhất.
Tôi ra trước nhà kéo cánh cửa bị phá khóa lại thật chặt. Chạy qua chiếc Bentley vào chiếc xe tải của Quỹ Kliner. Lóng ngóng với chiếc chìa khóa không quen rồi nổ máy, cẩn thận lùi theo lối chạy xe ngoặt tay lái vào phố Beckman Drive. Chạy xuống dốc vào thị trấn, cần gạt nươc điên cuồng chống lại mưa. Tôi vòng qua bãi cỏ lớn có nhà thờ. Đến cuối thì rẽ phải chạy về hướng Nam. Nơi này vắng tanh. Trên đường chẳng có ai khác. Qua bãi cỏ ba trăm mét về phía Nam, tôi ngoặt vào đường dẫn từ phố vào nhà Morrison. Chạy chiếc xe tải vào nhà đỗ cạnh chiếc Lincoln của lão bỏ đó. Khóa cửa xe lại. Chạy tới hàng rào nhà Morrison ném chìa khóa thật xa ra cánh đồng. Kéo chiếc áo khoác sát vào người và bắt đầu bước ngược đường cũ dưới mưa. Bắt đầu suy nghĩ rất nhiều.
Ngày thứ Bảy đã sang được hơn một giờ. Vì vậy còn chưa tới một ngày nữa là Chủ nhật. Sự việc đã rõ ràng. Tôi đã biết chắc chắn ba sự thật. Thứ nhất, Kliner cần loại giấy đặc biệt. Thứ hai, không thể kiếm được giấy đó ở nước Mỹ. Nhưng thứ ba là nhà kho chứa đầy thứ gì đó.
Và những dòng chữ trên các thùng chứa máy điều hòa nhiệt độ kia đang khiến tôi bận tâm. Không phải công ty Điều hòa nhiệt độ Island. Không phải các chữ viết. Mà là chữ in. Dãy số xê ri. Trên các thùng tôi đã thấy có số xê ri viết tay nằm trong hình chữ nhật in. Tôi đã trông thấy rõ. Cảnh sát Jacksonville đã mô tả điều tương tự trên các thùng chở trên xe tải chạy quá tốc độ của Stoller. Các dãy số dài viết tay. Nhưng vì sao? Bản thân các thùng là vỏ bọc tốt. Ngụy trang tốt. Chở thứ gì đó bí mật tới Honda và xa hơn bằng các thùng chứa điều hòa nhiệt độ là việc làm khôn ngoan. Chẳng loại hàng nào hợp với thị trường dưới ấy hơn. Các thùng bìa cứng đã đánh lừa được cảnh sát Jacksonville. Họ đã không băn khoăn gì về chúng. Nhưng các số xê ri làm tôi phải suy nghĩ. Nếu trong các thùng không có đồ điện tử, tại sao lại viết lên đó số xê ri? Như thế thì việc ngụy trang trở thành ngớ ngẩn. Vậy thì các số xê ri có ý nghĩa quái gì? Trong các thùng chết tiệt ấy có cái quái gì?
Đó là câu hỏi tôi đang tự đặt ra cho bản thân. Rốt cuộc chính Joe đã giải đáp cho tôi. Tôi bước dưới mưa nghĩ về điều Kelstein nói về sự chính xác. Giáo sư bảo rằng Joe có sự chính xác rất hấp dẫn trong cách trình bày ý kiến của mình. Tôi biết điều đó. Tôi nghĩ về bản danh sách ngắn gọn anh đã tự in ra cho mình. Các chữ hoa đầy tự hào. Những hàng chữ cái đầu. Cột các số điện thoại. Hai dòng ghi chú ở dưới cùng. Ga ra nhà Stoller. Hồ sơ của Gray về Kliner. Tôi cần kiểm tra lại danh sách đó. Nhưng đột nhiên tôi chắc chắn rằng Joe đang nói nếu tôi muốn biết Kliner đã cho những gì vào các thùng ấy, việc đáng làm là đến xem ga ra nhà Stoller.