Chương 8


Số từ: 15098
Dịch giả: Hà Ngọc
NXB Văn Học
Ruồi trâu khỏi bệnh rất chóng. Một hôm đến thăm Ruồi trâu vào tuần tiếp theo Ri-cac-đô đã gặp anh mặc bộ quần áo ngủ kiểu Thổ nhĩ kỳ nằm ở đi văng nói chuyện với Mac-ti-ni và Ga-li, Ruồi trâu lại còn đòi ra ngoài trời nhưng Ri-cac-đô chỉ cười và hỏi đùa rằng Ruồi trâu có thích vượt qua đồi núi mà đi chơi Phê-dô-lê ngay lúc ấy không ?
Ri-cac-đô tai quái nói thêm :
- Ông còn có thể đến thăm ông bà Grat-xi-ni nữa ấy chứ. Tôi chắc bà ta sẽ rất mừng nhất là lúc này, mặt ông tái nhợt, trông thú vị lắm.
Ruồi trâu chắp hai tay lại như đóng một bi kịch :
- Trời ! Thế mà tôi không nghĩ tới ! Chắc bà ta sẽ cho tôi là một kẻ tử vì đạo người Ý và sẽ thuyết tôi hàng tràng về lòng yêu nước đấy. Tôi sẽ phải đóng vai kịch ấy và sẽ kể cho bà ta nghe rằng tôi sẽ bị xé ra từng mảnh ở một ngục tối dưới đất và chỉ mới được ghép lại qua loa thôi. Chắc bà ta cũng sẽ hỏi rõ cảm giác thật của tôi lúc đó ra sao. Ri-cac-đô, ông cho là bà ta sẽ không tin à ? Tôi đánh cuộc là bà ta tin được cả những sự dối trá thô sơ nhất mà tôi có thể bịa đặt ra. Tôi đặt cược con dao găm Ấn độ của tôi lấy con sán ngâm rượu trong phòng ông này. Lợi đấy, ông cược đi.
- Cảm ơn ông, tôi không ham thích vũ khí giết người như ông.
- Ồ, một ngày nào đó con sán cũng giết nguwoif như con dao găm vậy, chỉ tội nó không đẹp thôi.
- Nhưng, ông bạn thân mến tôi không cần dao găm mà tôi cần con sán kia ! Mac-ti-ni, tôi phải đi đây. Anh đủ sức trông nom con bệnh ngổ ngáo này chứ ?
- Được, nhưng chỉ đến ba giờ thôi. Từ ba giờ trở đi bà Bô-la sẽ đến thay vì tôi phải đi Xan Mi-ni-a-tô với Ga-li.
- Bà Bô-la à ? - Ruồi trâu hoảng hốt nhắc lại - Không, Mac-ti-ni, không thể được ! Tôi không thể để cho phụ nữ săn sóc tôi và bệnh tật của tôi. Mà đến đây bà ấy ngồi vào đâu được ? Nhất định bà ấy không chịu vào đây đâu !
Ri-cac-đô cười hỏi :
- Ông khư khư giữ thói lịch sự ấy từ bao giờ ? Bà Bô-la là người hộ lý cốt cán của chúng tôi đấy. Bà ấy săn sóc người ốm từ thủa còn mặc váy ngắn. Tôi chưa thấy người hộ lý nào tốt hơn như thế. Nhất định không chịu vào buồng của ông à ? Ông định nói với bà Grat-xi-ni hay nói với ai thế ? Mac-ti-ni, nếu bà Bô-la tới thì không phải dặn gì bà ấy nhé...Chết chửa, hai giờ rưỡi rồi. Tôi phải đi đây.
Ga-li lại gần đi văng với một chén thuốc trong tay :
- Nào, Ri-va-ret, trước khi bà ấy đến ông phải uống thuốc đã.
- Cứ thuốc với men mãi !
Như tất cả những người bệnh đang bình phục khác, Ruồi trâu hay cáu gắt,làm cho những người hộ lý tận tình của ông phải bận tâm.
- Không đau nữa rồi mà sao...sao các ông cứ bắt tôi...tôi nuốt những của gớm ghiếc này ?
- Chính là để khỏi đau trở lại. Hay là ông lại muốn đau để bà Bô-la phải cho ông uống thuốc phiện ?
- Thưa...thưa ông ! Nếu cơn đau trở lại thì có làm gì đi nữa nó cũng cứ trở lại như thường. Có phải như đau răng đâu mà có...có thể dùng những thứ thuốc...thuốc cao đan hoàn tán của các ông thì bớt đau được. Như thế không khác gì đem cái bơm nước của trẻ con mà chữa cháy. Nhưng thôi, việc của các ông là bắt tôi không uông không đươc thì tôi đành phải uống.
Anh đưa tay trái lấy cốc. Những vết sẹo ghê gớm trên cánh tay làm Ga-li sực nhớ đến câu chuyện vừa rồi.
Ga-li hỏi :
- À, này, ông bị những vết thương này ở đâu đấy nhỉ ?
Chắc là trong chiến tranh ?
- Thì tôi vừa mới bảo rằng tôi bị ném xuống ngục tối dưới đất và...
- Tôi biết. Nhưng đấy chỉ là cách ông nói với bà Grat-xi-ni thôi...Không, chắc là ông bị thương trong cuộc chiến tranh ở Bơ-rê-din chứ gì ?
- Phải, phần vì chiến tranh ở Bơ-rê-din phần thì vì trong khi đi săn ở những nơi man rợ. Lý do nào cũng có cả.
- À ! Trong khi đi thám hiểm phải không ?...Ông có thể gài cúc áo lại được. Xong rồi... Chắc lúc ấy cuộc đời ông sóng gió lắm nhỉ ?
Ruồi trâu nhẹ nhàng nói :
- Tất nhiên, sống ở những nơi man rợ thì không thể không mạo hiểm ít nhiều. Vả lại cũng phải nói rằng không phải cuộc mạo hiểm nào cũng đều vui thú cả.
- Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao ông lại bị thương nhiều đến thế...trừ khi gặp nguy hiểm với bày thú dữ. Ví dụ như những sẹo ở tay trái chẳng hạn.
- À, sẹo này tôi bị lúc đi săn bắn ở Châu Mỹ. Ông biết không lúc ấy tôi mới bắn một phát...
Có tiếng gõ cửa.
- Mac-ti-ni, ông trông trong phòng ngăn nắp cả rồi chứ ? Được rồi à ? Thế ông ra mở cửa hộ - Nói rồi, Ruồi trâu ngoảnh ra phía cửa - Thưa bà, bà thật có lòng tốt. Xin lỗi bà tôi không đứng dậy được.
- Tất nhiên là ông không nên đứng dậy làm gì. Tôi có phải là khách đâu. - Rồi Giêma nhìn Mac-ti-ni - Xê-da, tôi đến sớm một chút, chắc là anh vội về ?
- Không, còn mười lăm phút nữa. Chị để tôi cất hộ áo choàng sang phòng bên. Cả cái làn cũng đưa sang bên ấy nhé ?
- Nhẹ tay chứ, trứng đấy. Trứng tươi lắm, Kê-ti mới mua ở núi O-li-vec-tô sáng nay đấy...Còn đây là những đóa hồng Nô-en. Ông Ri-va-ret ạ, tôi biết ông yêu hoa.
Chị ngồi xuống cạnh bàn, cắt cuống hoa rồi cắm vào lọ. Ga-li lại nói :
- Ri-va-ret, ông đang kể dở chuyện săn báo bên Mỹ. Chuyện ấy sau thế nào nữa ?
- À, phải ! Thưa bà, ông Ga-li vừa hỏi tôi về quãng đời cũ của tôi ở Nam Mỹ. Tôi vừa bắt đầu kể tại sao tay trái tôi bị tật thế này. Hồi đó tôi ở Pê-ru. Muốn săn báo chúng tôi phải lội qua sông. Khi tôi bắn phát đầu tiên thì súng không nổ. Té ra thuốc súng bị ướt. Tất nhiên báo không đợi cho tôi kịp trở tay và kết quả là thế này đây.
- Thật là một phen mạo hiểm thú vị.
- Không, không đến nỗi ghê gớm như mọi người tưởng đâu. Tất nhiên là ngọt bùi cay đắng đủ mùi, nhưng nói chung cuộc sống rất hùng tráng. Ví dụ như đi săn rắn chẳng hạn...
Ruồi trâu kể hết chuyện nọ đến chuyện kia, nào là chuyện chiến tranh Ác-giăng-tin, chuyện thám hiểm ở Bơ-rê-din, nào là chuyện tiếp xúc với giống người man rợ, chuyện săn thú dữ. Ga-li say mê như một đứa trẻ con nghe theo chuyện thần thoại, chốc chốc lại điểm một vài câu hỏi. Vốn giàu cảm xúc như mọi người dân Nê-a-pôn khác, Gali ưa thích tất cả những gì khác thường, nổi bật. Giêma lấy đồ đan trong làn ra đan và cũng im lặng nghe. Chị thoăn thoắt đưa những mũi kim, mắt không rời chiếc áo đang đan dở. Mac-ti-ni thì cau mày lại và trở mình không yên trên chiếc ghế. Anh cảm thấy có cái gì khoe khoang tự mãn trong những câu chuyện ấy. Mặc dù vậy, bất giác anh cũng khâm phục con người ấy, thấy con người ấy chịu được những sự đau đớn kinh khủng về thể xác với một nghị lực phi thường như chính mắt anh đã được thấy một tuần nay. Nhưng anh vẫn một mực không ưa Ruồi trâu, không ưa những việc làm và thái độ của Ruồi trâu.
Ga-li thở dài tỏ vẻ thèm muốn một cách ngây thơ :
- Thật là một cuộc sống huy hoàng ! Tôi lấy làm lạ tại sao sau đó ông lại rời Bơ-rê-din. Sau khi sống ở Bơ-rê-din thì sống ở các nước khác chăc sẽ buồn tẻ vô cùng !
Ruồi trâu tiếp :
- Có lẽ thú nhất là quãng đời ở Pê-ru và ở Ê-qua-tơ. Đấy mới thật là những nơi đẹp tuyệt trần ! Kể ra thì ở đó rất nóng như vùng biển ở Ê-qua-tơ chẳng hạn và điều kiện sống ở đó rất gay go. Nhưng cảnh thiên nhiên thì đẹp không thể tưởng tượng được.
Ga-li nói :
- Có lẽ tôi thích cuộc đời hoàn toàn phóng khoáng ở những nơi hoang vu ấy hơn là thích cảnh đẹp. Ở đó con người có thể giữ gìn được nhân cách và cá tính của mình chứ không như ở chốn phồn hoa đô hội.
Ruồi trâu gật đầu :
- Phải, đó là ...
Giêma ngẩng đầu nhìn anh. Anh bỗng đỏ bừng mặt thôi không nói nữa. Một lát im lặng trôi qua.
Ga-li lo lắng hỏi :
- Ông lại lên cơn đấy à ?
- Không, không sao. Tuy tôi nguyền rủa những liều thuốc của ông, nhưng nó lại rất công hiệu...Ông đi đấy à,ông Mac-ti-ni ?
- Phải... Ga-li, đi đi thôi kẻo muộn mất.
Giêma tiễn hai người ra cửa : Một lát sau chị trở vào với một cốc sữa trứng trong tay.
- Mời ông uống đi.
Chị nói với giọng ra lệnh nhưng hết sức dịu dàng rồi lại tiếp tục ngồi đan.
Ruồi trâu ngoan ngoãn nghe theo.
Hai người im lặng tới nửa giờ. Bỗng Ruồi trâu cất tiếng nói rất khẽ :
- Bà Bô-la.
Giêma nhìn anh. Ruồi trâu mân mê những tua khăn trải đi văng mắt không nhìn lên.
- Chắc bà không tin những chuyện tôi vừa kể, phải không nhỉ ?
Giêma bình tĩnh trả lời :
- Những chuyện ông kể tôi không tin một chút nào cả.
- Bà nói đúng lắm. Tôi toàn nói dối.
- Cả chuyện chiến tranh cũng thế có phải không ?
- Nói chung là dối cả. Tôi không hề tham gia một cuộc chiến tranh nào. Còn như chuyện đi thám hiểm thì tôi cũng có trải qua những phen mạo hiểm thật đấy và phần lớn những chuyện tôi kể đều là sự thật cả. Nhưng những vết thương của tôi thì hoàn toàn do nguyên nhân khác. Bà đã bắt được một điều nói dối của tôi rồi thì nay tôi xin thú nhận mọi điều khác.
Giêma hỏi :
- Tại sao lại phải mất công bịa chuyện như thế làm gì ? Theo tôi thì không cần thiết.
- Làm thế nào được ? Chắc bà nhớ câu phương ngôn nước Anh của bà " Đừng hòi thì khỏi nghe lời nói dối". Xỏ xiên người khác tôi chẳng thích thú gì. Nhưng khi người ta hỏi tại sao tôi bị tàn tật thì tôi phải kiếm cách trả lời. Mà nếu đã kiếm cách trả lời thì lại phải bịa ra cái gì cho hay một chút. Ga-li vui lòng lắm, chắc bà đã thấy.
- Vậy ông thích nói đùa cho Ga-li vui hơn là nói thật ư ?
- Vâng !
Ruồi trâu chăm chú nhìn chị, tay nắm chặt tua khăn đã rứt đứt.
- Bà muốn tôi nói sự thật với những người ấy hay sao ? Thà tôi tự cắt lưỡi đi trước còn hơn !
Rồi bằng một giọng đột ngột và hơi bẽn lẽn, ngượng ngùng anh nói thêm :
- Tôi chưa bao giờ kể chuyện thật với ai cả nhưng đối với bà nếu bà muốn thì tôi xin nói .
Giêma lặng lẽ đặt đồ đan vào lòng. Có một cái gì cảm động thống thiết. Cảm động thống thiết ở chỗ người đàn ông cứng rắn bí ẩn và không đáng yêu này bỗng nhiên lại phải cúi mình thổ lộ tâm sự với một người đàn bà không quen biết và lại là người mà có lẽ anh ta không hề ưa thích.
Sau một hồi im lặng, Giêma nhìn anh. Ruồi trâu ngả người trên đi văng tựa khuỷa tay vào chiếc bàn con bên cạnh. Bàn tay tàn tật che lấy mắt. Những ngón tay ấy run run, mạch máu đập mạnh ở vết sẹo trên cổ tay. Giêma nhích lại gần đi văng khẽ gọi tên anh. Ruồi trâu giật mình nhỏm dậy.
Anh nói bằng một giọng xin lỗi :
- Tôi quên...quên khuấy đi mất. Tôi định ...định kể cho bà nghe về...
- Về tai nạn hoặc một cái gì đó làm cho chân ông bị khập khiễng chứ gì. Nhưng nếu ông cảm thấy khổ tâm khi hồi tưởng lại chuyện cũ thì...
- Tai nạn à ? Không phải đâu ! Tôi chỉ bị người ta cầm thanh sắt đốt lò đánh đấy thôi.
Giêma ngơ ngác nhìn anh. Tay anh run run, Ruồi trâu vuốt mớ tóc lòa xòa trên trán và mỉm cười :
- Bà ngồi xuống nhé ? Mời bà kéo ghế lại gần đây. Rất tiếc tôi không tự tay kéo ghế lại được.Giá tôi được ông Ri-cac-đô chạy chữa ngay lúc bấy giờ thì có lẽ trường hợp gãy xương của tôi sẽ là một ca rất quý báu cho ông ta. Ông ấy là một nhà mổ xẻ yêu nghề thì chắc là thích xương gãy lắm. Mà lúc đó chỗ nào xương thì đã gãy tất cả, trừ cái cổ.
Giêma êm ái xen lời :
- Và trừ lòng dũng cảm của ông nữa. Nhưng có lẽ lòng dũng cảm ấy thì không có gì bẻ gãy nổi nhỉ ?
Ruồi trâu lắc đầu :
- Không. Mãi sau này tôi mới lấy lại được ít nhiều dũng cảm cùng với những cái gì còn sót lại. Chứ lúc đó thì nó cũng bị tan vỡ như một chén trà. Cái thảm hại nhát chính là ở đấy. Vâng, tôi xin bắt đầu kể chuyện thanh sắt đốt lò trước. Bà để tôi nhớ lại xem...Đó là vào khoảng...mười ba năm trước, ở Li-ma (thủ đô của Pê-ru). Lúc nãy tôi nói Pê-ru là một nước đẹp tuyệt trần nhưng thực ra nó chẳng đẹp gì cho lắm đối với những người không có một đồng xu dính túi như tôi lúc ấy chẳng hạn. Tôi đến Ac-giăng-tin rồi sang Si-li. Tôi lang thang khắp Si-li suýt chết đói. Sau tôi làm lao công trên một chiếc tàu chở súc vật. Tôi đi từ Van-pa-rai-đô (hải cảng ở Si-li) tới Li-ma. Ngay trong thành phố tôi cũng không tìm được việc làm. Tôi lần đến Ca-lao (hải cảng của thủ đô Li-ma) , ra bến tàu với hy vọng may ra tìm được một công việc nào chăng.Phải, như bà đã biết, ở các hải cảng thường có những túp nhà tồi tàn. Những người làm nghề biển thường sống ở đó. Sau một thời gian tôi kiếm được việc làm trong một sòng bạc. Tôi làm nghề đầu bếp, hầu bàn bi-a, bưng rượu cho khách và nhiều việc đại loại như thế. Công việc không có gì dễ chịu nhưng tôi cũng lấy làm mừng vì ở đó ít nhất là tôi có ăn, được tiếp xúc với bộ mặt và tiếng nói của con người. Chắc bà có thể bảo rằng cái đó có gì đáng mừng đâu, nhưng trước đó không lâu tôi bị bệnh sốt rét vàng một thân một mình nằm liệt trong một chiếc quán xiêu vẹo và cảm thấy rất sầu thảm. Rồi một đêm người ta bắt tôi phải đi đuổi một gã Lasca ( thủy thù ở miền quần đảo Đông Ấn) say rượu ra khỏi quán để y khỏi làm huyên náo.Hôm ấy gã thủy thủ này lên bờ đánh bạc thua nhẵn túi nên rất cay cú. Tôi phải nghe lời, vì nếu không thì sẽ mất việc và chết đói; nhưng gã thủy thủ đó khỏe gấp đôi tôi : lúc ấy tôi chỉ mới chưa đầy hai mươi mốt tuổi, sau cơn sốt rét tôi lại yếu như một con mèo com. Hơn nữa trong tay gã còn có một thanh sắt đốt lò...
Ruồi trâu ngừng lời, liếc nhìn Giêma. Rồi anh nói tiếp :
- Chắc gã định đánh cho tôi chết hẳn. Nhưng gã đánh không thẳng tay lắm nên sau đó mặc dù thân thể bị nát nhừ tôi vẫn có thể sống lại được.
- Thế những người khác họ làm gì ? Tất cả mọi người đều sợ một gã thủy thủ say rượu hay sao ?
Ruồi trâu nhìn chị và cười phá lên :
- Những người khác à ? Bọn con bạc và bọn chủ sòng ấy à ? Bà không biết hay sao ! Tôi là đầy tớ, là của riêng của họ.
Họ xúm xít lại và tất nhiên là họ khoái trá nhìn cảnh đánh nhau đó. Những chuyện như vậy ở đấy họ coi như là trò đùa. Dĩ nhiên trò đùa trong trường hợp mà người biểu diễn không phải là họ.
Giêma rùng mình :
- Sau rồi sao nữa hả ông ?
- Điều đó tôi không thể nói được. Sau những cảnh ấy thường chẳng ai nhớ được những ngày đầu ra sao. Gần đấy có một người thầy thuốc ngành hàng hải. Khi nhữngngười xem thấy tôi chưa chết thì cho đi gọi ông ta đến. Ông ta chạy chữa cho qua loa cho tôi. Ri-cac-đô thì cho lối chữa như thế là có hại, nhưng có lẽ đó chỉ là sự ganh tị nghề nghiệp của ông ta thôi. Sau rồi tôi cũng tỉnh dậy. Một bà cụ người địa phương theo Đạo thiên chúa vốn giàu lòng nhân từ, thương tình đem tôi về nuôi. Chuyện ấy nghe cũng thật lạ tai phải không bà ? Tôi còn nhớ bà cụ ngồi thu mình trong góc nhà tranh, hút thuốc, khạc nhổ xuống đất, ngâm nga một điệu hát gì không rõ. Bà cụ rất tốt, cứ luôn bảo tôi rằng ở đây tôi có thể yên trí mà chết, không bị ai ngăn cản gì đâu. Nhưng ý chí phản kháng vẫn vùng lên trong người tôi và tôi quyết tâm sống. Trở lại cuộc sống - đấy mới thật là khó; và ngày nay có lúc tôi nghĩ rằng cố mà sống như thế thật không bõ công. Bà cụ kiên nhẫn lạ lùng. Tôi ở nhà bà cụ... Để tôi nhớ lại xem...chừng bốn tháng, suốt bốn tháng lúc thì tôi nói mê, lúc thì làm ầm ĩ chẳng khác nào một con trâu điên. Thú thật là đâu điếng người, mà tôi vốn lại được nuông chiều từ thủa nhỏ.
- Sau đó rồi thế nào ?
- Sau đó...tôi có phần đỡ và bò đi nơi khác. Bà đừng tưởng tôi đi là vì trong lòng áy náy sợ phiền lòng tốt của bà cụ đáng thương ấy đâu. Không, tôi không nghĩ thế. Tôi đi chỉ là vì ở nhà bà cụ tôi không sao chịu nổi...Bà vừa nói tới sự dũng cảm của tôi ư ? Lúc ấy giá mà bà nhìn thấy tình cảnh của tôi. Chiều chiều mỗi khi hoàng hôn buông xuống là cơn đau lại nổi lên. Cứ mỗi buổi chiều tôi thường nằm một mình dõi nhìn ánh mặt trời dần tắt...Ồ bà không thể hiểu được đâu ! Ngay cả bây giờ tôi vẫn thấy khó chịu mỗi khi nhìn cảnh mặt trời lặn....
Một hồi lâu im lặng.
- Rồi tôi lại tiếp tục đi lang thang khắp nước, hy vọng kiếm được việc làm. Không thể sống ở Li-ma được nữa. Tôi tưởng chừng phát điên mất...Tôi lặn lội ở Cút-scô (một thành phố cổ ở Pê-ru và là thủ đô cũ của người Inca trước khi người châu Âu đến chiếm châu Mỹ la tinh).. Nhưng chuyện cổ xưa ấy chẳng có ý gì lý thú nói ra chỉ làm khổ tai bà.
Giêma ngẩng đầu nghiêm nghị nhìn anh với đôi mắt sâu thẳm :
- Xin ông đừng nói thế.
Ruồi trâu cắn môi , bứt rời thêm một tua khăn khác. Một lúc sau anh hỏi :
- Tôi tiếp tục kể nhé ?
-Nếu.....nếu ông muốn. Tôi sợ bắt ông nhớ lại , nhớ lại những chuyện ấy thì khủng khiếp quá.
- Bà tưởng....cứ im lặng là tôi quên được sao? Như thế còn tệ hơn nhiều. Nhưng bà đừng nghĩ rằng những chuyện ấy còn ám ảnh tôi. Ám ảnh là chỗ tôi mất tự chủ kia!
- Tôi...tôi chưa hiểu rõ lắm.
- Tôi muốn nói lúc sự can đảm của tôi đã cạn , lúc tôi thấy mình là 1 thằng hèn.
- Dĩ nhiên , sức chịu đựng của con người cũng có hạn.
- Phải , một khi đã bước đến giới hạn ấy , con người ko tài nào biết được mình sẽ chịu đựng được đến thế nữa.
Giêm-ma do dự :
- Ông có thể cho tôi biết....tại sao mới hai mươi tuổi , ông đã fải 1 thân 1 mình lưu lạc đến những nơi ấy ?
- Dễ hiểu lắm : quãng đời thơ ấu của tôi nơi quê nhà đẹp quá nên tôi fải chạy xa nó.
- Sao thế ?
Ruồi trâu lại cười khẩy :
- Sao à ? Bởi vì lúc ấy tôi là một gã trẻ tuổi khờ khạo , nhưng lại ngông cuồng , chắc vậy. Tôi lớn lên trong một gia đình cực kỳ sang trọng , được " nâng như nâng trứng , hứng như hứng hoa " , đến nỗi tôi cứ tưởng thế giới làm toàn bằng tơ lụa hồng và hạnh nhân bọc đường. Rồi 1 ngày kia tôi khám fá ra rằng người tôi hằng tin yêu nhất đã lừa dối tôi. Kìa , bà giật mình à , chuyện gì thế ?
- Không. Ông cứ tiếp tục đi !
- Tôi biết được mình bị phỉnh phờ , đi tin 1 lời nói dối. Tất nhiên đó cũng chỉ là 1 chút kinh nghiệm thông thường. Nhưng , như tôi vốn nói , còn trẻ lại ngông cuồng, tôi chỉ nghĩ rằng kẻ nói dối sẽ sa hoả ngục. Vì thế , tôi bỏ nhà , lao sang Nam Mỹ để vùng vẫy cho thoả chí , trong túi ko có lấy 1 xu , sờ bụng cũng chẳng có 1 chữ Tây Ban Nha nào , nói chung chẳng có thứ gì , ngoài đôi bàn tay trắng và thói quen phung phí , ăn sẵn. Và kết quả tất yếu là tôi chìm sâu vào 1 hoả ngục thật sự , nhưng cũng nhờ đó mà thoát khỏi sự mê tín vào cái hoả ngục giả tưởng trước kia. Đắm chìm hoàn toàn , đến tận đáy đúng 5 năm , cho tới khi đoàn thám hiểm Đuy-prê đến kéo tôi lên.
- Năm năm trời ! Kinh khủng quá ! Nhưng ông ko có bạn sao ?
- Bạn ? Tôi...- anh quay nhìn chị , giọng đột nhiên dữ tợn...- Tôi chưa từng có người bạn nào.
Sau đó anh cảm thấy hơi thẹn vì phút thái quá của mình , nên vội tiếp lời :
- Bà đừng để tâm những điều tôi nói . Vừa rồi tôi kể hơi quá , thực ra một năm rưỡi đầu tôi sống ko đến nỗi nào : tôi còn trẻ và khoẻ , trước khi tên La-xca đến ghi dấu vết lên đời tôi , tôi vẫn có thể xoay sở tự giành lấy miếng ăn khá dễ dàng. Nhưng sau đó tôi ko kiếm được việc làm nữa. Lạ thật , 1 thanh sắt cời than , nếu dùng đúng chỗ , thì cũng hữu ích lắm chứ , nhưng 1 kẻ đã tàn tật thì ai còn thuê mướn để làm gì ?
- Thế lúc bấy giờ ông làm gì ?
- Vớ được việc gì tôi cũng làm . Có một thời gian tôi làm lao công sai vặt cho những người nô lệ trong một đồn điền trồng mía. Nhưng chẳng ăn thua gì , bọn cai cứ xua tôi đi : chân tôi khập khiễng quá , ko đi nhanh và vác nặng được , lại còn hay trở chứng viêm hoặc những gì quái gở nữa . Một thời gian sau tôi lại xuống vùng mỏ bạc , cạy cục xin việc , nhưng tôi cũng chẳng được gì. Cứ nghĩ đến chuyện thu nhận tôi là mấy tên quản lý bật cười , còn người làm ở đấy thì xúm lại trêu ghẹo.
- Sao họ làm thế ?
- Ồ ! Bản tính con người mà , tôi nghĩ vậy , họ thấy tôi chỉ còn 1 tay để chống cự. Sau cùng , ko chịu nổi nữa , tôi lại bỏ đi , lang thang khắp nơi , lang thang mãi , chỉ mong kiếm được việc làm.
- Lang thang ? Với chân khập khiễng như vậy ư ?
Anh ngước lên , hơi thở bỗng hẫng hụt 1 cách đáng thương :
- Hồi ấy tôi....tôi đói.
Giêm-ma hơi ngoảnh mặt đi , đưa tay lên đỡ cằm. Sau 1 lúc im lặng , Ruồi trâu lại nói , giọng mỗi lúc 1 trầm hẳn :
- Tôi lang thang , lang thang mãi đến gần như fát điên lên , mà ko kiếm được việc . Tôi đến vùng Ê-cu-a-đo , ở đấy lại còn tẹ hơn. Đôi lúc tôi đi hàn xoong chảo rong - tôi hàn cũng cừ lắm - hoặc chạy việc vặt vãnh , cọ rửa chuồng lợn. Thỉnh thoảng lại...Ồ khó mà nhớ hết được. Thế rồi sau cùng , một hôm...
Bàn tay nhỏ nhắn , da ngăm ngăm của anh đang đặt trên bàn bỗng nắm chặt lại , Giêm-ma ngẩng đầu , lo lắng nhìn anh....Một nửa mặt anh quay về phía chị , nên chị thấy được mạch máu ở thái dương anh đập mạnh , dồn dập từng hồi , chị nghiêng người đến dặt tay lên cánh tay anh :
- Đừng kể tiếp nữa , nói đến chuyện ấy khủng khiếp lắm , ông ạ !
Ruồi trâu nghi ngại nhìn bàn tay của Giêm-ma , rồi lắc đầu bình tĩnh kể tiếp :
- Rồi 1 ngày kia tôi gặp 1 gánh xiếc rong . Chắc bà còn nhớ gánh xiếc tối nọ. Gánh này cũng thế , nhưng còn tồi tệ hơn , thô kệch hơn, có cả mục đấu bò nữa. Gánh xiếc cắm lều nghỉ ven đường , tôi mò đến lều xin ăn. Trời thì nóng , mà bụng thì đói lả , nên tôi ngất đi ở cửa lều. Thời gian ấy , tôi hay bị cái tật ngất đi đột ngột , như 1 cô nữ sinh nội trú bị nén yếm quá chặt ấy mà . Thấy vậy , họ đem tôi vào lều , cho uống rượu mạnh và cho ăn....Rồi sáng hôm sau họ bảo tôi....
Im lặng
- Họ cần 1 vai gù , hoặc 1 vai hình thù quái dị nào đó , để bọn con nít ném vỏ cam vỏ chuối vào . Bà đã thấy vai hè hôm ấy chứ - đấy , tôi đã đóng vai ấy 2 năm ...Tôi bắt đầu học làm trò. Tôi chưa đến nỗi dị dạng lắm , họ fải làm cho tôi 1 cái bướu giả , lợi dụng hết sức cái chân với cái tay này...Khán giả ở đấy cũng ko khó tính lắm, họ cũng dẽ dàng hài lòng khi có 1 sinh vật trong tay để hành hạ , bộ quần áo hề cũng làm được nhiều trò đáo để. Trở ngại duy nhất kà tôi hay đau ốm luôn , ko biểu diễn được. Thỉnh thoảng , gặp lúc đang bực mình , người chủ gánh xiếc vẫn lôi tôi ra sân khấu , bất kể tôi đang lên cơn , những buổi như vậy công chúng lại thích nhất. Tôi còn nhớ , một hôm tôi đau quá ngất đi giữa buổi biẻu diễn....Khi tỉnh lại , tôi thấy khán giả xúm xít xung quanh , la ó , hò hét , ném vào người tôi những thứ....
- Đừng kể nữa ! Tôi ko chịu được nữa ! Thôi đi , trời ơi !
Giêm-ma đứng dậy , bịt tai lại. Ruồi trâu ngưng bặt , ngước mắt lên và thấy nước mắt chị đã chực trào ra. Anh hổn hển :
- Đáng nguyền rủa thật ! Sao tôi ngu xuẩn thế !
Giêm-ma bước đến đứng bên cửa sổ , nhìn ra ngoài 1 lúc. Khi chị quay lại , Ruồi trâu đã lại tựa vào bàn , đưa tay che mắt. Rõ ràng anh đã quên bẵng mất chị đang ở đấy. Giêm-ma lẳng lặng ngồi xuống cạnh anh. Một lúc sau , chị chậm rãi nói :
- Tôi muốn hỏi ông 1 điều.
- Vâng - Ruồi trâu ko nhúc nhích
- Sao lúc ấy ông ko cắt cổ tự tử ?
Anh ngước lên hết sức ngạc nhiên :
- Tôi ko ngờ mà bà lại hỏi tôi như thế. Còn công việc của tôi? Ai sẽ hoàn tất thay tôi?
- Công việc của ông ? À , ra thế ! Tự nãy giờ ông cứ cho mình là 1 kẻ hèn nhát . Chao, nếu ông đã chịu đựng tất cả đẻ giữ được mục đích của mình , phải nói ông là người dũng cảm nhất tôi chưa từng gặp ?
Ruồi trâu đưa tay che mắt, tay kia nồng nàn siết chặt tay chị. Im lặng trùm lên họ , tưởng như bất tận.....
Đột nhiên dưới vườn vọng lên 1 giọng nữ cao trong trẻo , đang hát 1 đoạn trong 1 bài ca tiếng Pháp dở tệ :
" Eh , Pierrôt ! Danse.Pierrôt !
Dáne un peu , mon pauvre Jeannôt
Vive la danse et l allégresse !
Hoissons de notre bell jeunesse !
Si moi je pleure ou moi je soupire
Si moi je fais la triste figure
Monsieur , ce n est que pour rive
Ha ! Ha ! ha, ha !
Monsieur , ce n est que pour rive ! "
Vừa nghe câu đầu Ruồi trâu đã rụt tay về , co người lại , rên rỉ hổn hển . Giêm-ma đưa 2 tay siết lấy cánh tay anh , ấn chặt xuống , như ấn tay một người đang chịu mổ xẻ . Bài ca dứt , nhiều giọng cười và tiếng vỗ tay vang lên. Ruồi trâu ngước nhìn lên với ánh mắt của 1 con thú bị hành hạ , anh chậm rãi nói :
- Phải , Dita với mấy ông bạn sĩ quan của cô ta đấy . Đêm nọ , trước khi Ri-các-đô đến , cô ta tìm cách vào đây thăm tôi . Cô ấy mà chạm vào người , chắc tôi fát điên lên mất!
Giêm-ma dịu dàng phản đối :
- Nhưng....Chị ấy có biết đâu. Chị ấy đâu ngờ làm ông phật ý.
Dưới vườn 1 trận cười khác lại rộ lên. Giêm-ma đứng dậy mở cửa sổ , Di-ta , đầu đỏm dáng vấn 1 chiếc khăn thêu sợi vàng , đang đứng giữa lối đi trong vườn , giương cao 1 bó hoa tim cho 3 sĩ quan trẻ tuổi đang tranh nhau với lấy .
Giêm-ma gọi :
- Bà Rê-ni !
Di-ta sa sầm nét mặt . Cô ta quay lại nhìn lên , ánh mắt khiêu khích :
- Thưa bà ?
- Xin các ông bạn của bà vui lòng nói khẽ 1 chút . Ông Rivarex đang mệt lắm.
Cô gái du mục vứt tung bó hoa xuống đất , quay phắt lại nói với mấy viên sĩ quan đang sửng sốt :
- Allez-vous-en ! Vous m embetezz , messieurs !
Và cô từ từ đi ra đường. Giêm-ma đóng cửa sổ quay về phía Ruồi trâu :
- Họ đi rồi !
- Cám ơn bà . Tôi....rất tiếc đã làm phiền bà.
- Có gì mà phiền...
Ruồi trâu nhận ra ngay chỗ ngập ngừng trong câu nói của chị :
- " Nhưng " câu nói của bà chưa hết , thưa bà còn 1 chứ " nhưng" sót lại trong ý nghĩ của bà.
- Nếu ông thấy được phần còn lại của ý nghĩ người khác , xin ông chớ fật ý vì những gì ông đọc được ở đó. Dĩ nhiên, đây ko fải là chuyện của tôi , nhưng tôi ko hiểu được....
- Ác cảm của tôi với Rê-ni ? Điều đó chỉ có khi....
- Ko , tôi ko hiểu được sao có mối ác cảm đó mà ông vẫn sống được với chị ấy . Đối với tôi đó là 1 sự xúc phạm đến chị ấy về phương diện là 1 phụ nữ và về phương diện...
- Phụ nữ ! Ruồi trâu phá lên cười thật chói tai - Bà cũng gọi đó là 1 phụ nữ à ? " Madame , ce n est que pour rive "
Giêm-ma kêu lên :
- Như vậy là ko phải lẽ ! Ông ko có quyền nói về chị ấy như thế , nhất là lại nói với 1 phụ nữ khác.
Ruồi trâu quay đi , nằm mở to mắt nhìn mặt trời đang lặn ngoài cửa sổ. Giêm-ma đóng luôn cánh cửa gỗ lại , buông rèm xuống để anh khỏi thấy mặt trời lặn nữa, rồi chị ngồi sang chiếc bàn cạnh cửa sổ khác.
Một lúc sau chị hỏi :
- Ông để tôi thắp đèn lên nhé ?
Ruồi trâu lắc đầu.
Khi ko thể thấy mũi đan nữa , Giêm-ma xếp đồ vào giỏ . Chị khoanh tay ngồi im lặng một lúc, nhìn thân hình bất động của Ruồi trâu . Ánh sáng mờ tối phủ lên mặt anh làm dịu bớt nét khắc khổ , giễu cợt , kiên quyết , nhưng lại hằn sâu thêm nét bi đát của làn môi. Do 1 sự liên tưởng kì lạ , Giêm-ma vụt nhớ đến cây thánh giá bằng đá cha chị đã dựng để tưởng nhớ A-thơ , với hàng chữ khắc trên đó :
" Mọi sóng gió bão táp của anh còn xô mãi lên đời tôi "
Một giờ trôi qua , chìm đắm trong im lặng. Sau cùng , Giêm-ma đứng dậy , nhẹ chân bước khỏi phòng . Trở lại với chiếc đèn trên tay , chị đứng lại 1 lúc , tưởng Ruồi trâu đã ngủ. Nhưng ánh đèn vừa hắt đến mặt , anh đã quay lại.
Giêm-ma đặt đèn xuống.
- Tôi đã pha cà-phê cho ông đây.
- Để xuống đấy đã. Bà vui lòng đến gần đây được ko ?
Anh nắm dôi bàn tay chị :
- Tôi đã suy nghĩ....thấy bà nói rất đúng . Đời tôi quả đã sa lầy. Nhưng bà cũng nên nhớ rằng ko fải ngày nào người ta cũng tìm được 1 người phụ nữ mình có thể.....yêu. Còn tôi....tôi cũng dã từng ngụp lặn trong vũng tối khôn cùng. Tôi sợ...
- Ông sợ....
- Sợ bóng tối. Đôi khi , ban đêm phải nói là tôi ko dám ở 1 mình , tôi cần có 1 cái gì sống động , 1 cái gì vững chãi bên mình. Bóng tối tôi vừa nói đến là bóng tối ở bên ngoài , ở đó...Không , không ! Ko phải hoả ngục , hoả ngục chỉ là thứ đồ chơi ba xu để doạ trẻ con. Bóng tối ở bên trong kia! Ở đó ko có khóc lóc nghiến răng , chỉ có im lặng ...im lặng...
Mắt anh mở to . Giêm-ma lặng thinh , nín thở chờ đợi.
- Chắc điều đó quá huyễn hoặc với bà fải ko ? Bà ko hiểu được - thật may mắn cho bà. Tôi muốn nói là nếu thử sống 1 mình , hẳn tôi phát điên ngay...Nếu xét thấy được , xin bà đừng quá nghiêm khắc với tôi . Tôi ko đến nỗi hung tàn hư hòng như , có lẽ , bà vẫn tưởng tượng về tôi đâu.
Giêm-ma đáp :
- Tôi ko tìm ra cách nào fán đoán thay ông được, Tôi chưa từng trải qua những khổ đau như của ông. Nhưng....có thể nói tôi cũng chìm sâu trong sự khồn cùng , hiểu theo nghĩa khác . Và tôi nghĩ , tôi đoán chắc , nếu ông để sự sợ hãi hoặc điều gì đó đưa mình đến một hành vi thực sự tàn nhẫn hoặc bất công hoặc thiếu độ lượng thì rồi ông sẽ hối hận. Còn....nếu trước sự việc như vậy , mà ông chịu thất bại , thì tôi tin rằng ở hoàn cảnh của ông , chắc tôi đã buông trôi tất cả , kêu trời oán đất mà chết từ lâu rồi !
Ruồi trâu vẫn giữ tay chị trong tay mình , anh nói thật nhẹ :
- Cho tôi biết đi , trong đời đã bao giờ bà làm một việc thatạ sự tàn nhẫn chưa ?
Giêm-ma ko trả lời , nhưng đầu chị gục xuống , và hai giọt nước mặt rơi ấm tay anh.
Ruồi trâu siết chặt tay chị thêm , giọng anh chỉ còn là 1 hơi thở thiết tha :
- Nói đi ! Bà nói đi ! Tôi đã kể cho bà nghe tất cả nỗi thống khổ của tôi...
- Vâng...có một lần....lâu lắm rồi. Tôi đã trót làm viếc ấy với người tôi yêu nhất trên đời này.
Đôi tay đang siết chặt tay chị run lẩy bẩy, nhưng ko buông lơi . Giêm-ma nói tiếp :
- Anh ấy là 1 đồng chí. Tôi trót tin lời người ta vu khống anh ấy - chỉ là 1 sự bịa đặt thông thường của bọn cảnh sát thôi , thế là tôi ko nhận ra. Tôi tát anh ấy như 1 tên phản bội . Anh ấy bỏ đi , và nhảy xuống sông tự vẫn. Thế rồi 2 ngày sau , tôi được biết anh ta hoàn toàn vô tội. Có lẽ kỷ niệm ấy còn cay đắng hơn bất cứ kỷ niệm nào của ông. Giá chặt cụt bàn tay fải này mà xoá được điều nó đã trót phạm phải , tôi cũng sẵn lòng.
Mắt Ruồi trâu chợt loé lên 1 tia sắc sảo và nguy hiểm mà trước đây Giêm-ma chưa từng thấy. Anh cúi xuống , vụng trộm bất thần hôn lên tay chị.
Giêm-ma giật lùi , hoảng hốt , chị kêu lên thật đáng thương "
- Đừng ! Xin ông đừng bao giờ làm như thế nữa . Ông làm tôi đau lòng.
- Thế bà tưởng bà ko làm cho người bà đã giết đau lòng sao ?
- Người mà tôi.....đã giét....A! Trê-da-rê đến cổng rồi kia ! Tôi...Tôi phải đi đây.

Bước vào phòng, Mac-ti-ni thấy bên cạnh tách cà-phê vẫn còn nguyên , Ruồi trâu nằm đó 1 mình , đờ đẫn , thất thần , đang lầm rầm nguyền rủa như thể ko hài lòng với tách cà-phê ấy.
__________________________________________________
........................................................................................
Ruồi trâu rất chóng bình phục. Một buổi chiều trong tuần tiếp theo, ông Riccardo đến thăm thì đã thấy anh mặc bộ quần áo ngủ kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, nằm ở ghế xô pha mà tán gẫu với Martini và Galli. Anh lại còn đòi xuống dưới nhà, nhưng ông Riccardo nghe thấy chỉ cười và hỏi đùa liệu anh có thích bắt đầu ngay một cuốc lội bộ qua thung lũng mà đến Fiesole[1] chơi không.
[1] Fiesole (tiếng Ý): xem trang 162.

Ông Riccardo còn độc địa nói thêm:
- Ông còn có thể đi rồi đến thăm luôn vợ chồng nhà Grassini để thay đổi không khí ấy chứ. Tôi chắc madame[2] sẽ rất mừng được tiếp kiến ông, nhất là lúc này trông ông tái nhợt, thú vị lắm.
[2] Madame (Tiếng Pháp): ở đây là bà Grassini.

Ruồi trâu chắp hai tay lại làm ra vẻ bi thương:
- Xin Chúa ban phúc lành cho tôi! Thế mà tôi không hề nghĩ ra nhỉ! Chắc chắn là bà ta sẽ coi tôi là một trong nhưng thánh tử đạo[3] của nước Ý và sẽ thuyết về lòng yêu nước đấy. Tôi sẽ phải đóng cho đúng vai kịch ấy và sẽ kể lại cho bà ta nghe rằng tôi đã bị chặt ra từng mảnh ở một hầm tối dưới đất và chỉ mới được lắp ráp lại rất qua quít mà thôi. Chắc bà ta cũng muốn được biết đích xác quá trình chặt ra ráp lại ấy cụ thể ra sao. Ông Riccardo, ông kho là bà ta sẽ tin chuyện đó sao? Tôi đánh cuộc là bà ta sẽ nuốt trôi được cả những sự dối trá to lớn nhất mà tôi có thể phịa ra. Tôi đặt cược con dao găm Indian[4] của tôi lấy con sán ngâm rượu trong phòng thuốc của ông đấy. Tôi ra giá hời rời, ông nên nhào vô đi!
[3] Martyr (Tiếng Anh): theo Công giáo, là người chịu đau khổ hoặc chết vì đức tin hay vì các nguyên lý của đạo; cũng gọi là thánh tử vì đạo, thánh chứng nhân. Xem từ trang 82.
[4] My Indian dagger (tiếng Anh): đây chắc là loại dao găm của người da đỏ (Châu Mỹ), vì Ruồi trâu đã phiêu bạt ở đó.

- Cảm ơn, tôi không ham hố những dụng cụ giết người như ông đâu.
- Ồ, một ngày nào đó con sán cũng giết người như con dao găm vậy, mà lại không đẹp bằng nửa dao găm.
- Nhưng, ông bạn thân mến, tình hình hiện thời là tôi không cần dao găm mà cần con sán kia! Ông Martini, tôi phải chạy đây. Ông đang phụ trách con bệnh ngổ ngáo này đấy chứ?
- Chỉ đến ba giờ thôi. Ông Galli và tôi phải đi San Miniato[7], và signora Bolla sẽ đến thay cho tới chừng nào tôi trở về.
[7] San Miniato (tiếng Ý)

- Signora Bolla! – Ruồi trâu nhắc lại với giọng hốt hoảng. – Sao vậy, ông Martini, không thể thế được! Tôi không thể để một quý bà phải lo toan cho tôi và bệnh tật của tôi đâu. Hơn nữa, chỗ đâu mà cho bà ấy ngồi? Bà ấy không chịu vào đây đâu!
Ông Riccardo cười, hỏi:
- Ông theo đòi những lề thói lễ giáo ấy từ bao giờ mà kịch liệt thế? Ông bạn tốt của tôi ơi, signora Bolla là tổng hộ lý trưởng của tất cả chúng tôi đấy[8]. Bà ấy săn sóc người ốm từ thuở còn mặc váy cộc có dây đeo[9] và săn sóc tốt hơn bất kỳ dì phước[10] nào mà tôi được biết. Không chịu vào phòng của ông! Sao nào, ông đang nói về người phụ nữ nhà Grassini đấy chứ! Ông Martini, nếu là bà ấy đến thì tôi khỏi phải để lại chỉ định gì. Chết chửa, hai giờ rưỡi rồi! Tôi phải đi đây!
[8] Nguyên văn bằng tiếng Anh như vậy: head nurse in general to all of us. Giọng hài hước.
[9] Short frocks (tiếng Anh): váy của bé gái hoặc nữ sinh nhỏ tuổi.
[10] Nguyên văn tiếng Anh là Sister of mercy, tức là dì phước hoặc ma xơ Dòng thương xót (chuyên làm phúc bằng cách săn sóc bệnh nhân và giúp đỡ người nghèo) của Công giáo.

Ông Galli lại gần ghế xô pha với một cốc thuốc trong tay mà bảo:
- Nào, ông Rivarez, trước khi bà ấy đến ông phải uống thuốc đã.
- Thuốc với lại chả men!
Ruồi trâu đã đi đến tình trạng hay bẩn gắt của giai đoạn bình phục, nên dễ khiến cho những người hộ lý tận tình của anh phải chịu cảnh khổ sở.
- Không đâu nữa rùi mà sao… sao ông cứ chuốc… chuốc cho tôi đủ mọi thứ gớm ghiếc này làm gì?
- Chính là vì tôi không muốn cho cơn đau trở lại. Hay là ông thích suy sụp sau khi Signora Bolla có mặt ở đây, để bà ấy phải cho ông uống thuốc phiện?
- Thưa quý… quý ông thân mến! Nếu cơn đau trở lại thì nó vẫn cứ trở lại, có phải đau… đau rang đâu mà có thể đem những thứ nước hỗn tạp của các ông ra dọa cho nó khỏi được. Dù những nước ấy đại thể cũng chẳng hơn gì việc đem bình xịt nước của trẻ con ra chữa cháy nhà. Nhưng thôi, tôi thấy việc của ông thì nhất định ông cứ phải làm thôi.
Anh đưa tay trái cầm lấy cốc và khi thấy những vết sẹo dễ sợ, ông Galli lại sực nhớ đến chủ đề một câu chuyện đã nói trước đây.
Ông hỏi:
- Tiện thể xin hỏi, tại sao ông bị nhiều vết thương thế? Trong chiến tranh phải không?
- Ô kìa, tôi vừa kể với ông đó là trường hợp bị ném xuống cá hầm tối bị mật dưới đất và…
- Vâng, nhưng đấy chỉ là cách ông giải thích cho signora Grassini nghe thôi… chứ thật ra, tôi chắc đó là từ hồi cuộc chiến tranh với Brazil chứ gì?[11]
[11] Có thể là tác giả muốn ám chỉ cuộc khởi nghĩa của những người cộng hòa ở miền Nam Brazil mà Garibandi (Giuseppe Garibaldi, 1807 – 1892, nhà yêu nước anh dũng nổi tiếng của Ý) đã tham gia chống lại bọn thống trị Bồ Đào Nha.

- Phải, tôi bị thương một ít ở đó, rồi sau đó đi săn ở những vùng hoang dã, và cả ở chỗ nọ chỗ kia nữa.
- À! Phải rồi, trong khi đi thám hiểm nghiêm cứu khoa học nữa. Ông có thể cài cúc áo sơ mi lại, tôi xong hết việc rồi đấy. Qua đó chừng như ông đã có một thời gian rất phất khích ở bên ấy.
Ruồi trâu nhẹ nhõm bảo:
- Ờ, dĩ nhiên rồi, sống ở những xứ hoang dã thì không thể không mạo hiểm ít nhiều bằng cách này hay cách khác, và khó lòng hy vọng rằng những cuộc mạo hiểm ấy đều dễ chịu cả được,
- Thế nhưng tôi vẫn không hiểu bằng cách gì ông lại được nhiều thương tích đến thế, trừ phi trong một cuộc mạo hiểm tệ hại với cả một bầy dã thú, - tỉ dụ như những sẹo ở cánh tay trái của ông chẳng hạn.
-À, đấy là hồi đi săn báo puma[12]. Ông biết không lúc ấy tôi vừa bắn một phát…
[12] Puma (tiếng của bộ tộc Quechua ở Nam Mỹ): một loại báo ở Châu Mỹ, cũng gọi là Cougar (hoặc couguar).

Có tiếng gõ cửa.
- Ông Martini, trong phòng có được gọn ghẽ không ông? Có ạ? Vậy phiền ông mở cửa hộ. Signora, quả là bà hết sức có nhã ý. Bà tha lỗi, tôi không dậy được,
- Dĩ nhiên ông chẳng nên dậy làm gì. Tôi đến có phải để làm khách đâu. Cesare, tôi đến có hơi sớm một chút, vì tôi nghĩ chắc anh vội lên đường.
- Tôi còn ở lại đươc mười lăm phút nữa. Chị để tôi cất hộ áo choàng sang phòng bên. Tôi mang cả cái làn nữa nhé?
- Cẩn thận, trứng rất tươi đấy. Katie mới mua ở Monte Oliveto[13] về sáng nay. Còn có mấy đóa hồng giáng sinh biếu ông đấy, signor Rivarez ạ. Tôi biết ông rất yêu hoa.
[13] Monte Oliveto (tiếng Ý): núi trồng cây ô liu.

Chị ngồi xuống cạnh bàn, tỉa các cành hoa mà cắm vào lọ.
Ông Galli nói:
- Nào, ông Rivarez, ông vừa mới bắt đầu kể chuyện săn báo puma, bây giờ ông kể nốt cho chúng tôi nghe đi
- À, phải! Thưa signora, ông Galli đang hỏi tôi về cuộc sống ở Nam Mỹ và tôi cũng đang kể với ông ấy tại sao cánh tay trái tôi bị thương tật thế này. Hồi đó là ở Peru. Chúng tôi đang lột qua sông để săn đuổi báo puma và khi tôi bắn một phát vào con ác thủ, thì đạn lại không nổ. Té ra thuốc súng bị ướt. Lẽ tự nhiên, con báo không đợi thôi chấn chỉnh lại và kết quả là như thế này đây.
- Đó quả là một phen trải nghiệm thú vị.
- Ồ, không tệ lắm đâu! Dĩ nhiên ta phải chịu cả cay đắng lẫn ngọt bùi, nhưng nói chung, cuộc sống rất hùng tráng. Ví dụ như đi bắt rắn chẳng hạn…
Ruồi trâu thao thao bất tuyệt, kể hết chuyện nọ đến chuyện kia, nào là chiến tranh ở Achentina, nào là chuyện thám hiểm ở Brazil, nào là những chiến công trong săn bắn và những cuộc phiêu lưu mạo hiểm với những dân hoang dã hoặc những thú dữ. Ông Gaki say mê nghe như một đứa trẻ nghe truyện thần tiên, liên tục chặn lại để hỏi thêm. Vốn giàu cảm úc như bản tính của dân Napoli, ông ta ưa thích mọi chuyện giật gân. Gemma lấy đồ đan trong làn ra đan và im lặng nghe, đôi tay chị bận bịu, cặp mắt nhìn xuôi. Còn Martini thì cau có và bồn chồn không yên. Anh cảm thấy cái cách Ruồi trâu kể những câu chuyện này có vẻ vừa khoe khoang lại vừa ngượng ngập. Và mặc dù bất giác anh cũng khâm phục con người ấy, khi thấy anh ta chịu đựng những sự đau đớn về thể xác với một nghị lực phi thường như chính mắt anh đã được thấy một tuần trước đây nhưng anh vẫn vốn dĩ không ưa Ruồi trâu, không ưa những việc làm và phong cách của Ruồi trâu.
Ông Galli thở dài với vẻ thèm muốn ngây thơ:
- Đúng là một cuộc sống oanh liệt! Tôi chẳng hiểu sao ông lại đã nảy ra ý định rời bỏ Brazil. Những xứ khác sau đó chắc sẽ buồn tẻ lắm nhỉ!
Ruồi trâu bảo:
- Tôi thấy mình sung sướng nhất là lúc ở Peru và Ecuador[14]. Đấy mới thật là những xứ sở tuyệt vời. Dĩ nhiên là rất nóng, nhất là ở vùng bờ biển Ecuador, và sống ở đó cũng hơi khó chịu đấy. Nhưng phong cảnh thì đẹp không thể tưởng tựng được.
[14] Peru, Ecuador (tiếng Anh): Peru (thủ đô Lima) giáp cạnh Braxin về phía tây, Ecuador (thủ đô Quito) lại giáp cạnh Peru về phía tây, cả hai nước này đều trông ra Thái Bình Dương và đều ở ngọn nguồn những nhánh sông đổ vào sông Amazon.

Ông Galli nói:
- Tôi tin là thế. Nhưng cuộc đời hoàn toàn tự do ở một xứ mông muội vẫn hấp dẫn tôi hơ bất cứ một cảnh đẹp nào. Chỉ ở đó người ta mới nhận biết được nhân phẩm và nhân cách chủa mình, chứ ở những thị thành đông đúc của chúng ta có bao giờ người ta nhận biết được.
Ruồi trâu đáp:
- Phải, nghĩa là…
Gemma rời mắt khỏi đồ đan, ngước lên nhìn anh. Anh bổng đỏ bừng mặt và nghẹn lời. Một lát im lặng trôi qua.
Ông Galli lo lắng hỏi:
- Chắc chắn không phải là lại lên cơn đau đấy chứ?
- Không, không có chuyện gì đâu. Tuy tôi nguyền… nguyền rủa phương thuốc giảm… giảm đau của ông, nhưng tôi lại rất nhờ ơn của nó đất. Ông sắp lên đường sao, ông Marini?
- Vâng, đi thôi nào, ông Galli. Muộn rồi đấy.
Gemma đưa chân hay người ra khỏi phòng, và rồi chị trở vào với một cốc sữa trứng.
- Mời ông uống cốc này đi.
Chị nói với một giọng quyền uy nhưng dịu dàng, rồi lại tiếp tục ngồi đan. Ruồi trâu ngoan ngoãn nghe theo.
Trong nửa tiếng đồng hồ, không ai nói một lời. Thế rồi Ruồi trâu gọi hết sức khẽ:
- Signora Bolla!
Chị ngẩn lên. Anh đang tách bóc những tua rua của tấm khan trải trên xô pha, mắt vẫn nhìn xuôi. Rồi anh mở lời:
- Những chuyện tôi vừa kể, bà chẳng tin là có thật đâu nhỉ.
Chị bình tĩnh trả lời:
- Tôi không nghi ngờ một tí gì rằng ông toàn nói dối cả thôi.
- Bà nói đúng lắm. Tôi đã toàn nói dối.
- Ý ông là về chuyện chiến tranh?
- Về mọi chuyện. Tôi không hề tham gia cuộc chiến tranh ấy đâu. Còn chuyện thám hiểm thì dĩ nhiên tôi có trải qua vài cuộc phiêu lưu, và phần lớn những chuyện tôi kể đều thật cả, nhưng việc tôi bị thương tàn tệ thì không phải như cách tôi đã kể đâu. Bà đã phát hiện tôi nói dối một điều rồi, thì tôi thiết nghĩ mình có thể nhân tiện thú nhận tất cả mọi điều.
Chị hỏi:
- Ông không thấy việc phải bịa ra biết bao chuyện giả dối như thế là phung phí công sức sao? Riêng tôi thiết nghĩ hà tất phải vất vả như thế làm gì.
- Vật bà có cách gì nào? Bà thừa biết câu phương ngôn nước Anh của bà:
Đừng hỏi thì khỏi nghe lời nói dối
[15]. Lừa gạt người khác kiểu đó, tôi chẳng thích thú gì, nhưng khi người ta hỏi tại sao tôi lại thành một anh què quạt như thế, tôi phải kiếm cách trả lời. Mà nếu đã phái kiếm cách trả lời thì tôi cũng phải nên bịa ra cái gì cho hay, cho đẹp một chút. Ông Galli vui lòng thế nào, chắc bà đã thấy.
[15] Câu của nhà văn Anh Olivier Smith (1728-1774). Nguyên văn tiếng Anh:
Ask no questions and you’ll be told no lies
.

- Vậy ông thích làm vui lòng ông Galli hơn là sự thật ư?
- Sự thật! - Anh đưa mắt nhìn lên với tua khan đã rứt đứt trong nắm tay. - Bà lại muốn tôi nói sự thật với những người ấy hay sao? Thà tôi tự cắt lưỡi đi con hơn!
Rồi đợt ngột với ve bẽn lẽn, ngượng ngùng, anh bảo chị:
- Tôi chưa hề kể chuyện với ai bao giờ, nhưng nếu bà muốn nghe thì tôi sẽ kể lại với bà.
Chị lặng lẽ đặt đồ đan xuống. Với chị, chị thấy cái gì cảm động đến thống thiết, nơi con người cứng rắn, bí ẩn và không đáng yêu này, khi anh ta bỗng dung đem lòng tin cậy cá nhân của mình ra đặt xuống dưới chân người đàn ba mà anh chỉ mới quen sơ, và lại là người mà có lẽ anh ta không ưa thích.
Sau một hồi lâu im lặng, chị đã ngước nhìn lên. Anh đang tì cánh tay trái lên chiếc bàn con bên cạnh, đưa bàn tay tàn tật lên cha mắt, và chị nhân thấy cả những ngón ở bàn tay ấy cũng đang căn thẳng, mạch máu cũng đang dồn dập ở vết sẹo nơi cổ tay. Chị bèn lại gần anh, khẽ gọi tên anh. Anh giật thót người, ngóc đầu dậy. Anh lắp bắp nói với giọng xin lỗi:
- Tôi quên… quên mất. Tôi đang định… định kể… kể cho bà nghe về…
- Về… tai nạn hoặc một nguyên nhân gì đó đã khiến ông có tật một bên chân. Nhưng nếu ông cảm thấy phiền lòng…
- Tai nạn ư? À, cái lần bị đánh nhừ tử ấy! Phải đấy, có điều đó không phải tai nạn, mà chỉ là do thanh sắt cời lò than đấy thôi.
Chị nhìn chằm chằm nhìn anh, hoàn toàn ngạc nhiên. Với bàn tay đang run lên rõ rệt, anh vuốt ngược mớ tóc ra phía sau, ngước nhìn chị mà mỉm cười.
- Bà không ngồi xuống ư? Xin bà mang ghế lại gần đây. Rất tiếc tôi không tự đi lấy ghế cho bà được. Quả vậy, hiện thời tôi mới nghĩ ra là nếu lúc bấy giờ ông Ricardo vớ được tôi mà chạy chữa thì trường hợp của tôi sẽ là một kho… kho báu vô chủ[16] tuyệt… tuyệt vời cho ông ấy. Ông ấy có lòng yêu chân thành của nhà phẫu thuật đối với các xương gẫy, mà trong tôi chỗ nào xương gẫu được, dịp đó đều đã gẫy tất… trừ cái cổ.
[16]A treasure - trove (tiếng Anh): Kho tang báu vật vô thừa nhận được phát hiện ngẫu nhiên, ai tìm ra người ấy được.

Chị êm ái xen lời:
- Và trừ cả lòng dũng cảm của ông nữa chứ. Nhưng có lẽ cái đó ông liệt vào loại những vật sở hữu không gì bẻ gãy nổi của mình?
Anh lác đầu, bảo:
- Không đâu. Mãi sau này tôi mới vá víu đc ít nhiều dũng cảm cùng với những gì còn sót lại trong tôi. Chứ lúc đó nó cũng bị bẻ gãy vụn như một chén uống trà bị đập nát vậy. Cái thảm hại chính là ở đấy. À…vâng, phải rồi, tôi đang nói với bà về thanh sắt cời than lò.
Lúc bấy giờ…để tôi nhớ lại xem… là vào khoảng gần mười ba năm về trước, ở Lima[17]. Lúc nãy tôi có nói với bà Peru là một nước tuyệt vời để trú ngụ, nhưng thực ra nó chẳng tốt đẹp gì cho lắm đối với những kẻ thất cơ lỡ vận như tôi lúc bấy giờ. Tôi đã xuống đến thận Achentina, rồi sang Chile, chủ yếu đi lang thang khắp xứ đó và suýt chết đòi, và rồi từ Valparaiso[18] tôi đã lên làm chân sai vặt trên một chiếc tàu chở súc vật để đến Lima ngay cả ở Lima, tôi chẳng tìm được việc làm nào, tôi bèn lần ra các bến tàu – các bến này ở Callao[19] ấy, chắc bà cũng biết, - để tìm kiếm xem sao. Vâng, ở mọi cảng tàu biển như thế bao giờ cũng có những khu nhà tồi tàn mà các dân làm nghề đo biển thường tụ tập lại. Và sau một thời gian tôi đã được nhận vào làm đầy tớ trong một ở gà bạc. Tôi phải nấu bếp, hầu bàn bi-a[20], bưng rượu cho các thủy thủ và lũ gái của họ, và mọi việc đại loại như thế. Công việc không dễ chịu lắm, nhưng tôi cũng lấy làm vui vì kiếm được việc làm, chí ít là có ăn, được nhìn thấy mặt người và nghe tiếng nói của con người ở chừng mực nào đó. Chắc bà bảo rằng như thế thì ăn thua nỗi gì, nhưng số là tôi vừa mới ngã bệnh sốt rét vàng da, một thân một mình nằm liệt giường trong một mái lều, nhà phụ của một quán rượu tồi tàn, nửa thoang phế, và chính cơ sự này đã đem đến cho tôi bao điều khủng khiếp. Số là, có một đêm người ta sai tôi phải tống cố một gã Lascar[21] say rượu ra khỏi quán để hắn khỏi quậy phá. Hắn lên bờ, đánh bạc thua nhẵn túi nên rất cay cú. Dĩ nhiên tôi phải nghe lời, nếu không thì tôi sẽ mất chỗ làm và chết đói; nhưng gã đó khỏe gấp đôi tôi, - hồi ấy tôi chưa đầy hai mươi mốt tuổi, sau cơn sốt rét tôi đang yếu như một con mèo. Hơn nữa, hắn còn có một thanh sắt cời than lò.
[17] Lima: thủ đô nước Peru.
[18] Valparaiso: một hải cảng ở Chile, ở sát cạnh thủ đô Santiago.
[19] Callao: một hải cảng ở Peru, ở sát cạnh thủ đô Lima, hệt như Valparaiso với Santiago.
[20] Nguyên văn là billiard – marking (ghi điểm cho bàn bi-a).
[21] Lascar: thủy thủ xuất xứ từ vùng quần đảo Đông Ấn, Mã Lai,…

Anh ngừng một lát, đưa mắt lén nhìn chị, rồi anh nói tiếp:
- Chắc hắn định phăng teo ngay cuộc đời tôi, thế nhưng hắn chỉ làm được qua loa, - những tay Lascar thường cẩu thả khi có dịp, - nên vẫn để sót lại phần chưa bị nhừ tử trong tôi đủ để tôi có thể sống còn được.
- Vâng, thế còn những người khác, họ không thể can thiệp được ư? Tất cả những người đó đều sợ một gã Lascar hay sao?
Anh nhìn lên rồi phá ra cười.
- Những người khác? Lũ con bạc và bọn người trong cái sạp cờ bác ấy à? Ôi, bà chưa rõ ư! Họ là những da đen, người Tàu và những người gì nữa có trời mà biết được. Mà tôi là đầy tớ của họ, là vật sở hữu của họ. Họ đứng vây quay và, dĩ nhiên. Họ thích thú với một trò vui. Những việc đại loại ở đấy họ chỉ coi là chuyện đùa bỡn mà thôi. Đúng thế đấy, nếu may mà đối tượng để đùa bỡn không phải chính mình.
Chị rùng mình.
- Vậy cuối cùng sự thể ra sao?
- Điều ấy tôi không có gì nhiều để kể với bà được. Theo quy luật, vài ngày sau một sự việc loại đó, người ta không thể nhớ được gì. Nhưng lúc bấy giờ có một ông y sĩ[22] trên tàu biển lại đang ở gần đấy, và hình như họ thấy tôi chưa chết nên một người nào đó trong bọn họ bèn gọi ông ta đến. Ông ta vá víu qua loa cho tôi theo cái kiểu nào đó mà hình như Ricardo cho là khá tệ hại, nhưng có lẽ chỉ là do lòng đố kỵ nghệ nghiệp mà thôi. Dù sao đi nữa, khi tôi tỉnh lại, tôi đã được một bà cụ người thổ dân nhận đem về nuôi vì lòng từ thiện. Cơ đốc giáp – chuyện nghe cũng kỳ khôi, phải không bà? Bà cụ thường ngồi co ro trong xó lều tranh, hút thuốc lào bằng cái tẩu đen sì rồi khạc nhổ xuống đất và ngâm nga một điệu gì đó. Tuy vậy, cụ rất tốt tính, cứ bảo tôi rằng tôi có thể bình yên mà chết, không có ai quất rầy gì đâu. Nhưng tinh thần phản kháng vẫn mạnh mẽ trong tôi và tôi đã quyết chọn sự uống. Bò trở lại với cuộc sống - nhiệm vụ ấy mới thật là khó; và ngày nay đôi khi tôi vẫn nghiêng về ý nghĩ cho rằng, cố công như thế kết cục vẫn chỉ là chuôi dài quá gáo[23]. Dù sao đi nữa, lòng kiên nhẫn của bà cụ là tuyệt vời. Cụ đã nuôi tôi … Bao nhiêu lâu nhỉ? … Gần bốn tháng trời, mà là nằm liệt trong máu lều của cụ, chốc chốc lại mê sảng như một thằng điên, lúc không mê sảng thì lại hung dữ chẳng khác nào một con gấu bị viêm tai. Quả là đau dữ dội đấy bà ạ, mà tính nết tôi lại hư đốn từ thuở nhỏ do được nuông chiều quá mức.
[22] Nguyên văn tiếng Anh
A ship’s surgeon
, chức vụ gọi vậy trong quân đội, trên tàu biển thực tế chỉ là
ông quân y
,
ông y sĩ tàu biển
.
[23] Nguyên văn tiếng Anh
A great deal of cry for very little wool
(kêu gào nhiều nhưng len thu được chẳng bao nhiêu), nói đơn giản là
mất công nhiều nhưng kết quả thu được ít
,
chẳng bỏ mất công sức quá nhiều đến thế…


- Rồi sau thế nào?
- Ồ, rồi sau….tôi có phần đỡ và bò lủi ra đi… không đâu, bà chớ tưởng tôi ra đi là vì trong lòng áy náy, ngại quấy quả lòng từ thiện của bà cụ nghèo khổ ấy, - không, lúc bấy giờ tôi đã không thể chu đáo được đến vậy. Tôi ra đi chỉ vì ở đấy tôi không sao chịu nổi nữa rồi. Bà vừa nói tới lòng dũng cảm của tôi ư? Giá mà bà nhìn thấy tôi lúc bấy giờ! Ngày nào cũng vậy, cứ vào lúc chạng vạng tối là cơn đau thường đến mức tệ hại nhất. Cứ chiều đến là tôi thường một mình nằm mà dõi nhìn mặt trời xuống thấp dần, thấp dần… Ôi, bà không thể hiểu được đâu! Chuyện ấy khiến tôi ngay đến bây giờ vẫn thấy khó chịu khi nhìn cảnh mặt trời lặn!
Một hồi lâu im lặng.
- Thế rồi tôi lại tiếp tục đi lang thang khắp xứ ấy, để xem có kiếm được việc làm ở đâu nữa không… chứ còn ở Lima thêm nữa thì tôi tưởng phát điên lên mất. Tôi lặn lội tới tận Cuzco[24] và ở đấy… Nhưng quả thật tôi chẳng hiểu tại sao mình lại đem tất cả câu chuyện lịch sử cổ đại này ra để làm khổ bà làm gì. Chuyện gọi là ngộ ngĩnh cũng chả đáng.
[24] Cuzco (tiếng Tây Ban Nha): một thành phố cổ, trung tâm thương mại ở phía Nam Peru, từng là kinh đô cũ của người Inca trước khi người châu Âu đặt chân đến Nam Mỹ.

Chị ngẩn đầu, nhìn anh với cặp mắt sâu thẩm và nghiêm nghị, mà bảo:
- Xin ông chớ nói thế.
Anh bậm môi, rứt thêm một tua khan. Một lát sau, anh hỏi:
- Tôi kể tiếp chứ?
- Nếu… nếu ông muốn. Tôi sợ ông lại khổ tâm khi nhớ lại chuyện xưa.
- Vậy bà tưởng cứ nín lặng là tôi quên lãng được sao? Như thế còn tệ hại hơn đấy. Nhưng bà chớ tưởng rằng điểu ám ảnh tôi ghê gớm là sự việc xảy ra, mà đó là khi tôi đánh mất quyền tự chủ đối với bản thân mình cơ!
- Tôi… tôi nghĩ là tôi chưa hiểu hết ý ông.
Ý tôi nói là khi lòng dũng cảm của tôi đã cạn, cạn đến mức tôi tự thấy mình là thằng hèn.
- Nhưng chắc chắn là bất kỳ ai cũng chỉ có thể chịu đựng đến một giới hạn nào thôi.
- Phải, và một khi đã đạt đến giới hạn ấy, ai đó vẫn không hề biết có bao giờ mình lại đạt được như thế nữa không.
Chị ngập ngừng, hỏi:
- Nếu không phiền, xin ông cho biết tại sao mới hai mươi tuổi đầu ông đã đến nỗi một thân lưu lạc và phiêu bạt ở đấy như thế?
- Rất đơn giản. Trong gia đình ở một đất nước cổ xưa, cuộc sống đầu đời đã mở ra tươi đẹp cho tôi, nhưng tôi đã bỏ trốn mà ra đi.
- Tại sao?
Anh lại buông ra một tiếng cười gằn:
- Tại sao? Có lẽ tại lúc đó tôi là một chú nhóc tay mơ và tự phụ. Sinh trưởng trong một gia đình cực kỳ sang trọng, tôi đã được nâng niu chiều chuộng hết mức, đến nỗi tưởng chừng thế giới toàn là bằng len hồng và hạnh nhân bọc đường. Nhưng rồi vào một ngày đẹp trời nọ, tôi phát hiện ra một người mà tôi vẫn tin yêu đã lừa dối tôi. Kìa, sao bà lại giật mình vậy? Bà làm sao thế?
- Không sao. Xin ông cứ kể tiếp.
- Tôi phát hiện thấy mình đã bị lừa bịp để tin vào một điều dối trá. Dĩ nhiên, đó cũng chỉ là một trải nghiệm thông thường; nhưng, như tôi đã nói với bà, tôi còn trẻ và tự phụ, và lại tin rằng những kẻ ăn gian nói dối sẽ bị sa xuống hỏa ngục tất. Vì thế, bất kể chìm nổi ra sao, tôi đã liều mình bỏ nhà ra đi, dấn thân sang Nam Mỹ, mặc dù không có một xu dính túi, không một chữ Tây Ban Nha trong đầu, hay bất kỳ một thứ gì khác, ngoài hai bàn tay trắng và thói quen tiêu sài để hòng đi kiếm miếng ăn. Do đó, kết quả tất nhiên là tôi đã bị dấn sâu xuống hỏa ngục thật sự, để cho chừa cái thói tưởng tượng ra những hỏa ngục giả vờ. Đó cũng là một cuộc đắm chìm khá triệt để... nó kéo dài đúng năm năm trời trước khi đoàn thám hiểm Duprez đến và kéo tôi lên.
- Năm năm! Ôi kinh khủng quá! Mà ông không có bạn bè gì hay sao?
Anh xoay hẳn người lại nhìn chị với một vẻ dữ dội đột ngột.
- Bạn bè à? Tôi... tôi chưa bao giờ có một người bạn nào.
Nhưng lát sau, hơi có vẻ thẹn về thái độ xốc nổi của mình, anh vội tiếp lời:
- Bà chớ nên quá coi trọng mọi chuyện đó. E rằng tôi đã kể lể sự việc một cách quá thảm hại, chứ thật ra trong một năm rưỡi đầu, tình hình chưa đến nỗi tệ hại lắm đâu: tôi còn trẻ, có sức, đã xoay xở vật lộn, kiếm sống được khá dễ dàng cho đến khi gã Lascar ấy ghi dấu vết lên người tôi. Nhưng sau đó tôi không kiếm được việc làm nữa. Tuyêt vời thay thanh sắt cời than lò, nếu được ta điều khiển thích đáng nó sẽ trở thành một công cụ có hiệu quả biết bao, còn người đã tàn tật thì ai cần thuê mướn làm gì.
- Vậy ông đã làm những công việc gì?
- Kiếm được việc gì tôi làm việc ấy. Một thời gian tôi đã sống bằng cách làm chân chạy việc vặt cho những người nô lệ trong các đồn điền mía, họ cần cái gì mình tìm đem về, họ bảo đem cái gì đi thì đến mang đi. Có một trong những sự lạ đời là những kẻ nô lệ thường cũng cứ cố kiếm cho mình một tên nô lệ riêng, và một gã da đen không khoái gì bằng có được một tên đầu sai da trắng để bắt nạt. Nhưng chuyện đó cũng vô ích thôi: những tên cai đồn điền luôn đuổi tôi ra. Vì chân khập khiễng quá, tôi không đi được nhanh mà tôi lại cũng không có cách gì vác những đồ nặng được. Ngoài ra tôi còn luôn bị lên cơn vì chứng viêm tấy này hoặc những chứng chết tiệt gì khác nữa.
Một thời gian sau, tôi lại xuống đến các mỏ bạc để cố kiếm việc làm ở đây. Nhưng cũng lại chẳng ăn thua gì, chỉ nghe đến khái niệm nhận tôi vào đấy không thôi, là những viên quản lý đã bật phì cười rồi, còn những phu phen thì họ cực lực phản đối tôi.
- Sao lại thế?
- Ồ, bản tính con người mà, tôi nghĩ vậy. Vì họ thấy tôi chỉ có một tay để đánh trả được thôi. Còn họ là những kẻ ghẻ lở, những quân lai căng, là những dân da đen, phần lớn là người Zambos[25]. Lại còn cả đám những dân culi[26] kinh khủng nữa chứ! Thế là cuối cùng do đã lãnh quá đủ chuyện này, tôi đành phải cất bước đi lang thang hú họa; cứ đi lung tung bừa đi để may ra kiếm được việc gì không.
[25] Zambos (tiếng Anh): Xambo là loại người da đen, hoặc để chỉ người lai da đen nói chung.
[26] Coolies (tiếng Anh): Những người lao lực tạp nhạp, cùng khổ và rất kém văn hóa.

- Đi lang thang? Với một chân khập khiễng như thế?
Anh ngước mắt nhìn chị và bỗng nhiên nghẹt thở một cách đáng thương.
Anh bảo:
- Lúc ấy tôi... tôi đói.
Chị hơi ngoảnh mặt đi, đưa một tay lên chống cằm. Anh im lặng một chút, rồi lại nói tiếp, giọng mỗi lúc một chìm lắng.
- Vâng tôi đi lang thang, đi mãi, đi đến khi gần phát điên lên mà vẫn chẳng kiếm được gì. Tôi xuống tới tận Ecuador[28] nhưng ở đó lại càng tệ hơn nơi nào hết. Có lúc tôi kiếm được chút việc của thợ hàn nồi, - tôi là tay hàn khá đáo để đấy, - hoặc làm kẻ sai vặt để chạy các việc linh tinh, hoặc nữa là làm phu quét dọn chuyên cọ cửa chuồng lợn. Có lúc tôi lại làm... ôi, tôi cũng không sao nhớ hết nữa. Thế rồi, cuối cùng, có một hôm...
[28]. Ecuador (tiếng Anh): Xem chú thích ở trang 262. Từ Peru phải đi xa hơn nữa về phía tay để sang Ecuador, đến vùng soai soải ra tới biển. Do đó nói là
xuống
.

Bàn tay nhỏ nhắm rám nâu của Ruồi trâu trên mặt bàn bỗng nắm chặt lại khiến Gemma phải ngẩng đầu, lo lắng nhìn anh. Nửa mặt anh nghiêng về phía chị, nên chị thấy rõ một mạch máu trên thái dương anh giật thon thót với nhịp đập dồn dập mà không đều, giống như những nhát búa đập trên đe. Chị cúi mình, êm ái đặt một bàn tay lên cánh tay anh:
- Thôi đừng kể nữa ông ạ. Nói đến những chuyện ấy khủng khiếp quá.
Anh hồ nghi chăm chú nhìn bàn tay đó, lắc đầu và vững giọng nói tiếp:
- Thế rồi, có một hôm tôi gặp một gánh xiếc rong. Chắc bà còn nhớ một gánh xiếc như vậy ta đã xem tối hôm nào? Vâng, kiểu thế đây, có điều thô thiển hơn và tục tằn hơn. Dân Zambos không tao nhã như dân Florence ở đây đâu, cái gì mà không cục cằn hoặc không hung bạo là họ chẳng để tâm đến. Dĩ nhiên là phải có cả mục đấu bò rồi. Gánh xiếc cắm lều nghỉ đêm ở cạnh đường cái. Tôi bèn đến tận lều của họ để xin ăn. Phải, hôm ấy, trời rất nóng nực, mà tôi đã đói lả, thế rồi... tôi lăn ra bất tỉnh ngay trước cửa lều. Hồi ấy tôi có cái tật cứ bỗng dưng lăn ra ngất xỉu, giống như cô nữ sinh nội trú thường hay xỉu đi vì nén yếm quá chặt. Thế là họ đem tôi vào lều, nào là cho uống rượu mạnh, nào là cho ăn, vân vân: và rồi... đến sáng hôm sau... bảo tôi vào làm...
Lại im lặng một lát:
- Họ đang cần một vai gù, hoặc một vai hình thù gớm ghiếc nào đó để bọn con trai có chỗ mà ném vỏ cam vỏ chuối, - tóm lại là một cái gì gây cười cho dân da đen... Bà đã thấy vai hề trong xiếc tối hôm nọ rồi đấy... phải, chính tôi đã là vậy trong hai năm liền. Tôi chắc bà có lòng nhân đạo đối với người da đen và người Tàu. Hãy đợi đến khi số phận mình rơi vào tay họ thì mình mới thấy được ra sao.
Vâng, tôi đã phải học để ra làm trò. Nhưng thấy hình thù của tôi chưa được méo mó lắm, thì họ liền chấn chỉnh lại bằng một cái bướu giả và lợi dụng triệt để cái chân và cái tay này... mà dân ở đó họ cũng không khó tính gì, chỉ cốt vớ được một sinh vật nào đó đem ra hạnh hạ được là họ dễ dàng thỏa mãn thôi... và bộ quần áo hề cũng đem lại hiệu suất ra trò nữa đấy.
Điều khó khăn duy nhât chỉ là tôi hay ốm quá, không ra diễn được. Đôi khi, vớ phải hôm người chủ gánh xiếc bực mình, thì dù tôi đang lên cơn đau ông ta vẫn cứ bắt tôi ra sàn diễn, va tôi tin rằng những tối diễn như vậy lại là những buổi công chúng thích nhất. Tôi còn nhớ có lần giữa lúc đang làm trò thì tôi đau quá, ngất xỉu ngay tại chỗ. Khi tỉnh lại được thì thấy người ta xúm xít xung quanh... vừa la ó, hò hét, lại vừa ném vào người tôi bằng các thứ...
- Đừng, ông! Tôi không chịu được nữa! Thôi đi, trời ạ!
Chị đã đứng dậy, đưa cả hai tay lên bịt lấy hai tai. Anh ngừng bặt, và khi nhìn lên, anh thấy nước mắt đã long lanh trong cặp mắt chị.
Anh khẽ nói trong hơi thở:
- Thật đáng nguyền rủa! Sao tôi ngu xuẩn thế.
Chị bước qua phòng, ra đứng bên cửa sổ, nhìn ra ngoài một lát. Khi quay trở lại, chị thấy Ruồi trâu đã lại nằm tựa vào bàn, một tay che lấy mắt. Chắc hẳn là anh đã quên bẵng sự có mặt của mình rồi, chị bèn đến ngồi bên cạnh, không nói gì cả. Mãi hồi lâu sau, chị mới chậm rãi bảo:
- Tôi muốn hỏi ông một điều.
Không nhúc nhích, anh đáp:
- Vâng?
- Sao lúc ấy ông không cắt cổ tự tử?
Anh hết sức ngạc nhiên ngước nhìn chị mà trả lời:
- Tôi không ngờ bà mà lại hỏi như vậy! Thế còn công việc của tôi? Ai sẽ làm công việc thay cho tôi?
- Công việc của ông... À, ra thế! Vậy mà ông vừa nói ngay đây rằng mình là kẻ hèn nhát? Nào, nếu như ông vượt qua hết thảy mà vẫn giữ vững được mục đích của mình, thì ông đích thực là người dũng cảm nhất tôi chưa từng gặp trong đời.
Anh lại lấy tay che mắt, còn tay kia anh sôi nổi siết chặt tay chị. Một bầu im lặng tưởng chừng vô tận bủa vây họ.
Thình lình từ dưới vường vang vọng một giọng nữa cao, trong trẻo và tươi mát, ca lên một đoạn trong một bài hát xoàng xĩnh của Pháp:

Eh, Pierrôt! Danse, Pierrôt!
Danse un peu, mon pauvre Jeannôt!
Vive la danse et l’allégresse!
Jouissons de notre bell’ jeunesse!
Si moi je pleure ou moi je soupire,
Si moi je fais la triste figure-
Monsieur, ce n’est que pour rire!
Ha! Ha, ha, ha!
Monsieur, ce n’est que pour rire!
[29]
[29].
Này, Pierô! Nhảy đi nào, Pierô ơi!

Nhảy một tí nào, Gian ô tội nghiệp của tôi!
Muôn năm, nhảy! Muôn năm, vui tươi!
Hãy tận hưởng tuổi thanh xuân đẹp của chúng ta đi thôi!
Nếu tôi khóc lóc hoặc tôi thở dài,
Hoặc tôi làm ra vẻ mặt buồn đời,
Ông ơi, đó cũng chỉ để cười vui!
Ha! Ha, ha, ha!
Ông ơi, đó cũng chỉ để cười vui!

Thoạt nghe mấy tiếng ca đầu, Ruồi trâu đã buông rời tay Gemma, co người lại và cố nén một tiếng rên. Nhưng chị đã đưa cả hai tay nắm lấy cánh tay anh mà ghì chặt lấy, hệt như ghì lấy tay của một người đang trải qua một ca phẫu thuật vậy. Khi bài ca đã dứt, rồi có những tiếng cười và tiếng vỗ tay đồng thanh từ dưới vườn dội lên, thì anh ngước lên cặp mắt đau thương của một con vật bị hành hạ.
Anh chầm chậm bảo:
- Phải, Zita với lũ bạn sĩ quan của cô ta đấy. Đêm hôm nọ cô ta đã cố tìm cách vào đây trước lúc ông Riccardo tới. Cô ấy mà chạm đến người tôi thì tôi phát điên mất!
Gemma dịu dàng phản đối:
- Nào chị ấy có biết đâu. Chị ấy đâu ngờ làm ông khó chịu.
Từ trong vườn lại rộ lên một trận cười. Gemma liền đứng dậy mở cửa sổ. Zita đỏm dáng quấn trên đầu một chiếc khăn thêu kim tuyến, đang đứng giữa lối đi, giơ cao một bó hoa tím cho ba sĩ quan kỵ binh trẻ tuổi làm ra vẻ tranh nhau với lấy.
Gemma gọi:
- Bà Reni!
Mặt Zita sa sầm lại như một đám mây dông chứa đầy sấm sét. Cô ta quay lại, đưa mắt nhìn lên với vẻ thách thức, hỏi:
- Madame?
- Xin các ông bạn của bà nói khẽ cho một chút được không? Signor Rivarez đang mệt lắm!
Cô gái txigan quăng bó hoa tím xuống đất.
Mấy gã sĩ quan còn đang sửng sốt thì cô đã quay ngoắt lại, bảo:
- Allez-vousen! Vous m’embêtez, mesieurs[30]!
[30]. Allez-vousen! Vous m’embêtez, mesieurs (tiếng Pháp): Các ông đi đi, các ông quấy rầy tôi rồi đấy!

Rồi cô từ từ đi ra đường. Gemma đóng cửa sổ lại. Quay lại anh, chị bảo:
- Họ đi rồi.
- Cảm ơn bà. Tôi... tôi rất tiếc đã làm phiền bà.
- Có gì mà phiền.
Anh nhận ra ngay nét ngập ngừng trong lời chị.
- Có chữ
nhưng
, - anh nói. Thưa signora, bà chưa nói hết câu, đằng sau ý của bà còn có một chữ
nhưng
bà chưa nói ra.
- Nếu ông đã nhìn vào phía sau những ý nghĩ của người khác, thì xin ông đừng nên phật ý về những gì mình đọc được ở đó. Dĩ nhiên đây không phải việc của tôi, nhưng tôi không thể hiểu được tại sao...
- Tại sao tôi lại ghét bà Reni có phải không? Tôi chỉ ghét khi tôi...
- Không, ông đã sống được với chị ấy mà ông lại ghét như vậy. Theo tôi đó là một sự xúc phạm đến chị với tư cách một người phụ nữ và với...
Anh phá lên cười một cách khắc nghiệt.
- Một người phụ nữ! Như thế mà bà gọi là người phụ nữ ư? Madame, ce n’est que pour rire[31].
[31] Bà ơi, đó cũng chỉ để cười vui: Nhại câu cuối trong bài hát Pháp mà Zita vừa hát.

Chị bảo:
- Như thế là không công bằng! Ông không có quyền nói về chị ấy theo kiểu đó với bất kỳ ai, - nhất là với một người phụ nữ khác!
Anh quay mặt đi và nằm với cặp mắt mở to nhìn mặt trời đang lặn phía ngoài cửa sổ. Chị bèn hạ thấp rèm xuống và đóng cả cửa chớp lại để anh khỏi trông thấy cảnh mặt trời lặn. Rồi chị ngồi cạnh chiếc bàn ở bên một cửa sổ khác, và lại tiếp tục đan.
Một lát sau chị hỏi:
- Ông có muốn thắp đèn lên không?
Anh lắc đầu.
Khi trời đã tối mịt không nhìn thấy gì nữa, Gemma cuộn đồ đan lại, cất vào làn. Trong chốc lát, chị ngồi khoanh tay, lặng lẽ nhìn thân hình bất động của Ruồi trâu. Ánh chiều mờ đục phủ lên mặt anh dường như đã làm dịu bớt vẻ khắc khổ, giễu cợt và tự tin của bộ mặt, nhưng lại hằn sâu thêm những nếp bi thảm của làn môi. Do một sự liên tưởng lạ kỳ nào đó, trong trí nhớ của chị đã bay về rõ mồn một chiếc giá chữ thập bằng đá mà ba chị đã trồng để tưởng nhớ Arthur, và đến cả dòng chữ khắc trên đó:

Mọi sóng to gió lớn của người đều đã ập đến qua đầu tôi
.
Một tiếng đồng hồ đã trôi qua trong tĩnh lặng triền miên. Cuối cùng chị đứng dậy, nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng. Khi trở lại với cây đèn, chị dừng bước một lúc, tưởng là Ruồi trâu đã ngủ say. Nhưng ánh sáng vừa lọt tới, anh đã ngoảnh đầu lại.
Chị đặt cây đèn xuống, bảo:
- Tôi đã pha cho ông tách cà phê.
- Bà cứ để đấy một lát. Xin bà lại gần đây, được không?
Anh nắm chặt đôi tay chị bằng cả hai tay mình. Anh bảo:
- Tôi đã suy nghĩ kỹ thấy bà nói rất đúng. Tôi đã dấn cuộc đời mình vào một mối rối ren hiểm hóc rồi. Nhưng nên nhớ, một người đàn ông đâu dễ gặp được một người đàn bà mình có thể... yêu. Mà tôi... tôi lại đã chìm đắm trong cảnh khốn cùng. Nay tôi sợ...
- Ông sợ...?
- Sợ bóng tối. Đôi khi ban đêm tôi không dám ở một mình. Tôi thấy cần phải có một cái gì sống động... một cái gì vững chắc ở bên mình. Cái bóng tối ấy là bóng tối bên ngoài, mà ở đó phải có... Không, không đâu! Không phải cái bóng tối ấy đâu, cái thứ ấy chỉ là hỏa ngục đồ chơi ba xu để dọa trẻ con... Cái tôi sợ là bóng tối bên trong, ở đó không có tiếng khóc lóc hoặc tiếng nghiến răng[32], mà chỉ có im lặng... im lặng...
[32].
tiếng khóc lóc và tiếng nghiến răng
hoặc
khóc và nghiến răng
(to weep and to gnash) là những từ trong Kinh Thánh miêu tả hỏa ngục,
Nghiến răng
ở đây là rên siết, căm hờn.

Đôi mắt anh trợn lên, còn chị thì im lìm, hầu như nín thở cho tới khi anh mở lời.
- Tất cả những cái đó đối với bà phải chăng rặt là những chuyện bí hiểm? Bà không hiểu được - may mắn thay cho bà. Điều tôi muốn nói là nếu tôi thử tìm cách sống một thân một mình thì chắc hẳn tôi sẽ phát điên lên mất... Do đó, nếu có thể được, xin bà chớ xét đoán quá nghiêm khắc về tôi. Dù sao tôi cũng không đến nỗi là kẻ vũ phu độc ác như có lẽ bà đã tưởng tượng đâu.
Chị đáp:
- Tôi không sao phân xử thay cho ông được. Tôi đã không trải qua đau khổ như ông. Thế nhưng... tôi cũng đã từng chìm chốn nước sâu, có điều là theo kiểu khác thôi, nên tôi thiết tưởng – tôi tin chắc – rằng nếu ông để cho nỗi sợ một cái gì đó đẩy ông đến một việc thực sự tàn nhẫn, bất công hoặc thiếu độ lượng, thì ông sẽ phải hối tiếc về sau. Còn như... nếu ông đã chỉ thất bại ở một điểm đó thôi, thì tôi cũng hiểu rằng ví dù tôi ở vào địa vị ông, tôi đã thất bại toàn bộ rồi... và chỉ còn nguyền rủa Thượng đế mà chết nữa thôi.
Anh vẫn giữ hai bàn tay chị trong tay mình.
Anh nói rất dịu dàng:
- Cho tôi biết nhé! Trong đời mình bà đã làm một việc gì thực sự tàn nhẫn chưa?
Chị không trả lời, nhưng đầu chị gục xuống và hai giọt lệ lớn đã rỏ xuống tay anh.
- Cho tôi biết đi!. - Siết chặt hơn tay chị, anh thì thầm tha thiết - Cho tôi biết nào! Tôi đã cho bà biết mọi nỗi thống khổ của tôi rồi.
Vâng.. có một lần... lâu lắm rồi... Và tôi đã từng làm việc tàn nhẫn ấy đối với người tôi yêu nhất trên đời này.
Hai bàn tay anh đang nắm tay chị, bỗng run bắn lên, nhưng không thôi siết chặt.
Chị nói tiếp:
- Anh ấy là một người đồng chí. Vậy mà tôi lại đi tin vào lời người ta vu khống anh, một điều giả dối thông thường và trắng trơn do cảnh sát bịa đặt ra. Tôi cho anh là kẻ phản bội, nên đã tát anh. Thế là anh bỏ đi và nhảy xuống biển tự tử. Mãi hai ngày sau tôi mới biết là anh ấy hoàn toàn vô tội. Kỷ niệm ấy có lẽ còn đau đớn hơn bất cứ một kỷ niệm nào của ông. Tôi sẵn sàng chặt cụt cánh tay phải của mình đi để xóa bỏ điều đã trót làm.
Một cái gì mau lẹ và hiểm nghèo mà trước đây chị chưa từng thấy, lóe lên trong đôi mắt anh. Bằng một cử chỉ thầm vụng và đột ngột, anh cúi xuống hôn lên tay chị.
Chị lùi lại với vẻ hoảng hốt.
Đừng, ông! – giọng đáng thương, chị kêu lên – xin ông đừng bao giờ làm như thế nữa! Ông làm tôi đau lòng!
.
- Vậy bà tưởng bà không làm đau lòng người bà đã giết hay sao?
- Người tôi đã.. giết... Ôi chao, Cesare đã đến ở ngoài cổng kia rồi! Tôi... tôi phải đi đây.


Bước vào phòng, Martini chỉ thấy Ruồi trâu một mình nằm cạnh tách cà phê vẫn còn nguyên vẹn. Anh ta đang nhẹ giọng tự nguyền rủa mình một cách uể oải và...
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Ruồi Trâu.