CHƯƠNG IX
-
THẦY LANG
- Tadeusz Dolega Mostowicz
- 5128 chữ
- 2020-05-09 03:39:09
Số từ: 5198
Một buổi sáng vào trung tuần tháng sáu, chiếc ô tô màu tím than to tướng dừng lại trên bãi chợ. Mọi người ở trấn Ra-đô-li-xki đều biết rằng đó là xe của ông bà chủ Lu-đơ-vi-kốp. Xe dừng lại trước cửa hiệu thực phẩm của ông Mo-rơ-đkô Ra-bi-nốp. Qua cửa sổ cửa hiệu bà Ma-kha-li-na Skốp-kô-va trông rõ mồn một rằng bước xuống xe trước tiên là ông chủ Trưn-xki, tiếp đó là bà chủ Trưn-xki và cuối cùng là cậu chủ Lê-sếch, con trai ông bà.
Ma-rư-sia vội vàng nhảy lùi khỏi cửa sổ. Cô chỉ kịp để ý thấy rằng chàng kỹ sư trẻ tuổi còn gầy tọp đi hơn nữa, chàng mặc một bộ quần áo màu xám rất sáng, nên nom chàng càng gọn gàng hơn thường ngày.
Cô gái tin chắc rằng chỉ lát nữa thôi cánh cửa sẽ mở ra và chàng sẽ bước vào. Cô ngạc nhiên nhận thấy tim cô đập mỗi lúc một nhanh hơn. Cô thầm nghĩ chắc mặt cô phải đỏ lắm đấy, và anh chàng sẵn sàng nghĩ rằng đó là vì anh.
Đã bao lần cô xếp đặt kế hoạch đón anh. Nhưng giờ đây khi anh đã đến gần, cô không tài nào nhớ nổi điều gì trong những kế hoạch ấy nữa. Cô chỉ biết một điều là cô đang vui sướng, đang vui sướng một cách xuẩn ngốc vì anh chàng xuất hiện.
Cô ngồi xuống sau quầy hàng và thêu hấp tấp. Cô muốn khi vào chàng sẽ nhìn thấy cô đang làm việc ấy.
- Tốt nhất là không vạch kế hoạch gì cả, - cô quyết định, - ta sẽ cư xử tùy theo cách chàng xử sự. Có thể chàng chỉ bước vào và đòi mua một gói thuốc lá thôi cũng nên... Như một khách hàng bình thường.
Thế thì đó sẽ điều rất tệ về phía chàng, bởi chỉ nghĩ đến đó thôi Ma-rư-sia đã thấy buồn, thêm vào đó, lúc này hơn bao giờ hết, cô hiểu rằng hồi mùa thu vừa rồi cô đã xử sự thiếu lịch sự và không công bằng đối với chàng.
- Nếu chàng chỉ mua một bao thuốc lá thôi, - cô nghĩ bụng, - mình cũng vẫn phải tỏ ra thân ái với chàng. Cốt sao chàng vào nhanh lên.
Nhưng chàng đã không ghé vào. Sau mười lăm phút đợi chờ, cô thận trọng ghé đứng bên cửa sổ chỉ để thấy rằng gia đình Trưn-xki lên xe. Xe quay đầu lại và chạy về phía Lu-đơ-vi-kốp.
- Anh ấy đi rồi, - cô thốt lên thành tiếng và thốt nhiên cô thấy lòng buồn khôn tả.
Mãi đến đêm, khi đã nằm trên giường, cô mới bắt đầu cân nhắc mọi chuyện và đi đến kết luận rằng việc ấy vẫn chưa có nghĩa gì rõ rệt. Thậm chí nếu chàng có định rẽ vào hiệu cô đi nữa thì chàng cũng cố ý không làm, vì cha mẹ chàng đang rất vội, mà chàng không muốn họ để ý đến mối quan hệ quen biết với cô, mối quan hệ mà chắc chắn không vừa ý họ. Và cô yên lòng thiếp đi.
Nhưng hôm sau, gần trưa, cô chợt giật mình vì tiếng động cơ quen thuộc. Ngay từ xa đã nghe rõ. Song Ma-rư-sia ngạc nhiên khi thấy tiếng máy hình như không hề giảm bớt chút nào. Và quả thực chiếc xe mô-tô rú máy lao vụt qua quảng trường, thoáng vèo qua cửa sổ rồi lại phóng vụt tiếp.
- Có thể chàng sẽ quay trở lại cũng nên? - Cô vẫn nuôi ảo tưởng, dẫu hiểu rằng cô đang ảo tưởng.
Thế là rõ như ban ngày rằng chàng đã quên cô, chàng không hề có chút ý định nào gặp lại cô nữa.
- Thì ra thế... - cô tự nhủ. - Thế càng hay...
Nhưng chẳng hay chút nào. Cô không thể thêu được nữa. Tay cô run cả lên. Mấy lần cô đâm kim vào ngón tay đau nhói. Cô không tài nào nghĩ đến chuyện gì khác. Một khi chàng phóng xe theo đường cái quan, thế thì hẳn là chàng đến thăm ông bà Zê-nô-vich. Ông bà Zê-nô-vich là những người rất giàu có, đang có hai cô con gái đến tuổi gả chồng. Đã từ lâu, người ta gán ghép chàng trẻ tuổi Trưn-xki với một trong hai cô tiểu thư ấy. Nhưng nếu vậy thì có mấy phần sự thật trong tìn đồn về cô nam tước tiểu thư xứ Viên-kô-pôn-xki?...
- Nói cho cùng, - cô cay đắng nghĩ thầm,- thì lạy Chúa! chuyện ấy có liên quan gì đến ta đâu nhỉ? Cứ để anh ta cưới người nào mà anh ta thích. Ta chúc anh ta tìm thấy một người vợ xứng đôi nhất, xinh đẹp nhất. Nhưng thật là xấu xa về phía anh ta vì đã không ghé qua đây để nói đôi lời. Ta có cắn anh ta đâu kia chứ. Ta cũng không hề muốn điều gì ở anh ta cả kia mà.
Gần đến bảy giờ chiều chàng Trưn-xki quay về. cửa hiệu (hoàn hoàn ngẫu nhiên thôi) đang mở rộng và Ma-rư-sia (cũng hoàn toàn ngẫu nhiên) đang đứng ở ngưỡng cửa.
Chàng lướt qua ngay bên cạnh. Thậm chí chàng không hề quay đầu sang lấy một chút. Thậm chí chàng không thèm nhìn cô.
- Có lẽ thế lại tốt hơn, - Ma-rư-sia tự an ủi. - Bà Skốp-kô-va có lý, mình chẳng nên bận óc tới anh ta làm gì mới phải.
Chiều hôm ấy, anh trưởng chi nhánh bưu điện địa phương, anh Xô-bếch, gặp một điều dễ chịu bất ngờ. Anh gặp cô Ma-rư-sia đang đi về phía nhà, và khi anh đề nghị cô đi dạo cùng anh đến Ba Cây Lê thì cô đồng ý ngay, không cần suy nghĩ gì cả. Giá đó là một chuyện xảy ra với một thiếu nữ nào khác ở trấn Ra-đô-li-xki thì cũng chẳng có gì phi thường. Anh chàng Xô-bếch có thể yên tâm tự liệt mình vào số những người đàn ông có nhiều cơ hội để thành công với phái đẹp. Anh còn trẻ, đẹp trai, có chức trách nhà nước và có nhiều triển vọng về đường công danh, vì ai cũng biết rằng ông chú anh là một nhân vật quan trọng trong ban giám đốc sở bưu điện của vùng. Hơn nữa, anh chơi đàn măng-đô-lin tuyệt hay, một chiếc đàn măng-đô-lin có khảm vỏ trai xà cừ mà anh không bao giờ rời, trừ khi đi làm việc.
Chiếc đàn măng-đô-lin kia cùng những ưu điểm đã nêu của anh chàng Xô-bếch tác động một cách đầy cuốn hút đến các cô thiếu nữ trẻ. Đến tất cả các thiếu nữ trẻ, gần như tất cả, chỉ trừ một ngoại lệ mà lại là cái ngoại lệ đáng buồn với chàng Xô-bếch. Mặc dù đối với anh Ma-rư-sia bao giờ cũng nhã nhặn, nhưng chưa bao giờ cô thể hiện ý muốn thắt chặt hơn nữa mỗi quan hệ quen biết, bao giờ cô cũng chối từ việc đi trượt băng, đi dạo chơi hay đi dự các tối vui cùng anh.
Giá như anh chàng Xô-bếch thuộc vào loại thanh niên dễ tự ái, hẳn đã từ lâu anh thôi tìm cách làm thân với Ma-rư-sia. Nhưng bản chất anh là một chàng trai trung hậu, ít đùa, không mắc tội thiếu nhẫn nại mà thể hiện bởi sự lâu bền của những niềm say mê, vì vậy, thỉnh thoảng anh lại nhắc lại những lời đề nghị của mình.
Và ngày hôm ấy anh tin rằng mình đã chọn một chiến thuật khôn ngoan.
Họ đi cạnh nhau trên con đường quen thuộc của tất cả các cư dân già và trẻ trấn Ra-đô-li-xki dẫn tới Ba Cây Lê. Con đường mà ngày trước những người già và bây giờ đám thanh niên từng đi từng đôi một, con đường được bà chủ hiệu dược phẩm gọi một cách ác khẩu là Đường Dạo Chơi Của Bò, vì bò cũng được lùa theo con đường này để đến nơi chăn.
Từ cửa sổ nhà cha xứ nơi mà vị giáo sĩ chăm lo cho đạo đức của địa phận mình có thể trông rõ con đường trên như trên lòng bàn tay, ông cũng có thể dự tính với một độ chính xác khá cao nào đó xem trong năm tới ông sẽ phải ban phước cho bao nhiêu đám cưới, và cho những ai. Chỉ cần biết rằng anh chàng này hay anh chàng kia thường đi dạo trên con đường ấy với cùng một cô gái khá nhiều lần là đủ. Trong ngôn ngữ bình dân người ta thường gọi chuyện đó là "nó đi với con bé ấy", mà mọi người ai cũng hiểu điều đó có nghĩa là chuyện đính hôn, hay trong trường hợp xấu nhất cũng là thể hiện rõ ràng của tình yêu. Còn tại sao người ta lại gắn tình cảm ấy với sự đi chứ không phải với sự đứng ngồi, hay một tư thế nào khác của cơ thể con người ta - điều đó không một ai ở Ra-đô-li-xki nghĩ tới, và chắc chắn anh chàng Xô-bếch cũng không hề nghĩ tới trong lần đầu tiên được cùng Ma-rư-sia đi dạo đến Ba Cây Lê.
Anh chỉ nghĩ và duy nhất chỉ nghĩ đến cô Ma-rư-sia, anh nghĩ rằng tuy cô nghèo, nhưng có học thức và từng trải hơn các cô gái khác, rằng rõ ràng cô cũng xinh đẹp hơn, và một người vợ như cô sẽ không làm cho một nhân viên nhà nước phải hổ thẹn, cho dù đó là nhân viên cấp cao đến chóng mặt đi chăng nữa. Những ý nghĩ của anh được bày tỏ bằng tiếng rung ngân khe khẽ của chiếc nhạc cụ (anh thường thích gọi chiếc đàn măng-đô-lin của mình như vậy) giai điệu của bản tăng-gô đang hợp mốt: "Có ngày nào em yêu anh chăng. Lô-li-ta, người phụ nữ duy nhất trong số tất cả phụ nữ trên đời".
Tiếc thay, mặc dù hiểu cái ẩn ý tinh tế kia của bản tăng-gô, mặc dù đoán được chủ ý của người nghệ sỹ độc tấu, mặc dù cảm thấy một chút hàm ơn vì sự ưu ái đó, nhưng cô Ma-rư-sia vẫn không thể chia sẻ tâm trạng của người bạn đường. Cô cố tình đi dạo với anh chàng Xô-bếch chỉ để khuây khỏa, chỉ để tự thuyết phục chính bản thân cô rằng Xô-bếch là một chàng trai trung hậu, rằng cô không nên né tránh anh, rằng anh là một người chồng lý tưởng. Anh không uống rượu, không gây sự, không bị ngã mô-tô, nhưng cái chính nhất: anh nổi bật lên bởi tính kiên định khác thường. Không như những ai kia!... Thì có làm sao nếu anh không được thông thái lắm, có làm sao nếu anh có những cử chỉ bình dân. Những cái đó chưa mang cho ai điều gì phải xấu hổ kia mà.
Nhưng chẳng có ích chi những lý lẽ dường như không gì bác bỏ nổi kia, chẳng có ích chi một ý định tốt lành nhất, chẳng có ích chi cuộc dạo chơi tay đôi mãi đến khi trăng lên mới chấm dứt, chẳng có ích chi bầu không khí trữ tình thơ mộng được âm nhạc và những lời tâm tình làm đẹp thêm lên: Ma-rư-sia quay trở về nhà chán nản, u sầu và quyết định sẽ không bao giờ cùng ai - dù với anh Xô-bếch hay với ai khác - đi dạo đến Ba Cây Lê nữa.
Trong đêm cô mơ thấy một giấc mơ khủng khiếp. Cô mơ thấy mình và chàng Trưn-xki. Cả hai phóng trên một chiếc xe mô-tô với một tốc độ điên cuồng, chạy trốn đám cháy đang đuổi theo. Đột nhiên một miệng vực há toác ra trước mặt. Họ rơi như hai hòn đá xuống đáy vực... Máu đầm đìa, chàng thốt lên:
- Tôi chết là vì cô.
Cô cảm thấy mình cũng đang chết, cô bắt đầu kêu cứu. Khi cô mở được mắt và tỉnh ngủ hẳn, cô thấy bà Skốp-kô-va đang cúi xuống nhìn mình.
- Ác mộng! Trông ơn Chúa! - bà nói. - Con mơ gì mà thét lên ghê thế? Thoạt tiên, Ma-rư-sia định thuật lại giấc mơ của mình, nhưng chợt nhớ rằng bà Skốp-kô-va biết giải thích các giấc mộng nên nàng thà im lặng còn hơn. Có thể giấc mơ biểu hiện một điều gì đó không có lợi cho cậu Trưn-xki, người mà bà Skốp-kô-va vốn đã không ưa. Bà sẵn sàng nhân cơ hội này để nói chàng thêm một điều gì khó chịu nữa chăng.
- Cháu hét lên à?...Chính cháu cũng không biết tại sao, - Ma-rư-sia nói. - Có thể là cháu mơ phải một điều gì đó. Các giấc mơ thì dễ quên lắm ạ.
Nhưng Ma-rư-sia không hề quên. Sáng hôm sau, khi nhìn thấy mấy con ngựa từ Lu-đơ-vi-kốp, nhìn thấy cậu chủ Lếch (29) trên chiếc xe ngựa nhẹ, cô chợt giật mình. Cô tin chắc rằng lần này cậu sẽ rẽ vào.
Song cả lần này nữa cô cũng vẫn nhầm. Chàng chỉ phái người coi ngựa đi mua thuốc lá. Người coi ngựa.
Rõ ràng chàng quyết chí tránh mặt cô. Những sự kiện diễn ra tiếp theo hoàn toàn khẳng định điều đó. Không ngày nào chàng không đến hoặc không đi ngang qua thị trấn. Khi thì đi xe, khi thì cưỡi ngựa, nhưng thường xuyên chàng phóng mô-tô. Hồi năm ngoái chàng lui tới không thường xuyên như vậy. Còn bây giờ hẳn là chàng làm điều đó để chọc tức Ma-rư-sia hoặc vì những lý do nào khác mà cô không đoán biết nổi.
Những lần chàng không đeo kính đi mô-tô, cô có thể nhận thấy mặt chàng tọp đi, xanh xao hơn và có vẻ gì đó vừa u buồn, vừa cay cú.
- Có thể chàng đã gặp phải chuyện gì không lành? - Cô lo lắng nhưng ngay tức khắc lại tự trách mình vì nỗi lo lắng chẳng đâu vào đâu ấy. - song mình có quyền gì để ý đến chuyện đó nhỉ?!...
Cuối cùng cô đâm ra thờ ơ lãnh đạm. Cô không còn đứng dậy dán mình vào cửa sổ hoặc khi nghe tiếng xe ngựa lóc cóc hay tiếng xe máy xình xình nữa, cô cố gắng để hoàn toàn không nghe thấy những thứ tiếng ấy.
Và khi cô đã hoàn toàn mất sạch niềm hy vọng - thì xảy ra chuyện.
-------------------------------
(29) Lếch - tên gọi tắt thân mật của Lê-sếch (N.D)
Đó là ngày hai mươi tư tháng sáu. Ngay từ sáng, trong cửa hiệu đã tấp nập, như trong ngày lễ tên của cha xứ: người ta đến để mua thiếp chúc mừng. Trẻ em học ở trường, ở nhà trẻ, ở nhà nuôi trẻ mồ côi, các mẹ dòng ba và những người khác đều đến mua. Mãi đến gần mười giờ mới vãn bớt, và cô mới có chút thì giờ xuống hầm lấy thuốc lá lên, để chí ít cũng phải bày vài bao lên giá quảng cáo. Cô đựng chúng trong tạp dề và đi theo chiếc thang nhỏ dựng đứng lên nhà. Cô quay người lại và đột nhiên máu dồn về tim cô: chàng đang đứng ngay trước mặt, chỉ cách cô hai bước chân.
Cô không biết mình có bật kêu lên không, cô không biết những bao thuốc lá rơi tung tóe từ chiếc tạp dề xuống đất. Cô chỉ biết đất trời quay cuồng trong một nhịp điệu điên loạn đến chóng mặt và hẳn cô đã ngã xuống nếu không có chàng đỡ lấy người cô và ghì sát vào mình.
Về sau, biết bao lần cô đã cố gắng dựng lại trong trí nhớ từng giây, từng chớp mắt một cái sự kiện tuyệt vời ấy - mà không tài nào làm nổi. Cô chỉ nhớ được ánh nhìn nhọn sắc, như giận dỗi trong đôi mắt đen của chàng, sau đó là một cái ôm ghì gần như đau đớn, không lời, mà vào lúc ấy cô không hiểu, nhưng nội dung của nó hình như được rót trực tiếp ngay vào máu cô.
Rồi sau đó, có người vào cửa hiệu, cả hai nhảy vội ra xa nhau, nửa tỉnh nửa mơ.
Chắc chắn ông khách hàng nọ phải nghĩ là cô bị thần kinh hoặc đãng trí. Cô không tài nào hiểu nổi ông muốn mua gì, không thể tính được tiền. Khi rốt cuộc ông mang các gói hàng bước ra, cô tự nhiên phá lên cười.
- Tôi thật ngốc quá mất thôi! Không biết tôi đã đưa cho ông ta những gì thay vì giấy văn phòng không biết! Lạy Chúa! Ông trông này!
Cô trỏ tay vào đủ các thứ hàng hóa linh tinh đang bày bừa bộn trên quầy và cười như nắc nẻ, không sao kìm nổi tiếng cười vui sướng nhường kia. Một cái gì trong cổ cô rung ngân, một cái gì đó chào vẫy rối rít. Một cái gì đó chợt nảy sinh, mới mẻ, tươi sáng, tuyệt vời, bay bổng, giống như một con chim khổng lồ màu trắng.
Trưn-xki đứng lặng và ngắm cô đầy ngưỡng mộ. Ngày trước chàng viết gửi cô bức điện tín rằng chàng coi cô là người thiếu nữ xinh đẹp nhất trên đời... Nhưng giờ đây cô đẹp đến mức chưa bao giờ chàng thấy cô đẹp thế.
- Nhưng ông giỏi thật đấy! Rất giỏi, - cô nói, - ông đi qua đây bao nhiêu lần mà không ghé vào chỗ tôi lấy một chốc! Tôi cứ nghĩ rằng ông phật ý.
- Phật ý thôi à? Cô nói đùa đấy chứ! Tôi căm thù cô!
- Vì chuyện gì cơ?
- Vì tôi không thể quên cô, cô Ma-rư-sia. Vì tôi không tài nào có thể vui chơi hay làm việc được.
- Vì thế mà mỗi khi đi qua gần cửa hiệu ông lại ngoảnh mặt đi phải không?
- Phải! Chính vì thế. Tôi hiểu rằng cô không thích tôi, rằng cô khinh thường tôi!... Cho đến nay chưa có một cô gái nào dám coi thường tôi. Vì vậy tôi đã thề rằng sẽ không bao giờ nhìn mặt cô nữa.
- Thế thì khi ấy ông đã phạm phải hai điều xấu đấy nhé: đầu tiên thì thề, rồi sau đó lại vi phạm.
Trưn-xki lắc đầu.
- Cô Ma-rư-sia, cô sẽ không lên án tôi, nếu cô biết thế nào là nỗi nhớ nhung.
- Sao thế? - Cô phản đối. - Sao tôi lại không biết thế nào là nhớ? Có thể tôi còn biết rõ hơn ông ấy chứ.
- Không thể. Cô không thể có một chút khái niệm nào về nỗi nhớ nhung hết. Cô có biết không, đôi khi tôi nghĩ là mình lẩn thẩn!... Phải! Lẩn thẩn!... Cô không tin ư? vậy xin cô hãy nhìn này.
Chàng rút trong túi ra một quyển sổ nho nhỏ, mỏng dính, màu hồng.
- Cô có biết đây là cái gì không?
- Không.
- Đây là vé tàu thuỷ đi Bra-xi-lia. Trước khi tàu rời bến mười lăm phút tôi mang hòm xiểng rời khỏi boong tàu, và thay vì Bra-xi-lia, tôi trở lại Lu-đơ-vi-kốp. Tôi không thể, hoàn toàn không thể! Rồi sau đó là nổi khổ hình lớn nhất kia! Tôi cố giữ lời thề, song không thể từ bỏ nổi những chuyến đi đến Ra-đô-li-xki. Tôi không có quyền tìm cách gặp mặt cô, nhưng có thể ngẫu nhiên được gặp lắm chứ. Đúng không?... Khi ấy tôi sẽ không vi phạm lời thề.
Ma-rư-sia đột nhiên nghiêm mặt.
- Hình như ông đã sai lầm khi không giữ lời thề.
- Sao lại thế? - Chàng phản đối.
- Vì... ông đã có lý khi không muốn gặp tôi.
- Tôi là thằng ngốc! - chàng kêu lên đầy tin tưởng.
- Không, ông là người chín chắn. Cả hai chúng ta... Bởi lẽ chuyện đó chẳng hề có ý nghĩa gì hết.
- À, ra thế? Có thật cô không tài nào chịu nổi tôi, đến mức cô không còn muốn thấy mặt tôi nữa?
Cô nhìn thẳng vào mắt chàng.
- Không đâu, thưa ông! Tôi sẽ rất thành thật. Cả tôi nữa, tôi cũng rất nhớ ông, nhớ lắm...
- Ma-rư-si-en-kô (30)! - Chàng vươn hai tay ra cho cô.
Cô lắc đầu.
- Khoan đã, tôi sẽ nói hết. Xin ông đừng vội. Tôi rất nhớ. Tôi rất khổ... Khổ lắm. Thậm chí... tôi đã khóc...
- Em duy nhất của anh! Phép mầu của anh!
- Nhưng, - cô nói tiếp, - tôi đi đến kết luận rằng tôi sẽ dễ quên ông hơn nếu chúng ta không gặp nhau nữa. Tình quen biết của chúng ta có thể có mục đích gì kia chứ?... Ông đủ thông minh để thấy rõ điều đó hơn tôi.
- Không, - chàng ngắt lời, - tôi đủ thông minh để thấy rằng cô không có lý, cô Ma-rư-khơ-no (31) ạ. Tôi yêu cô. Dĩ nhiên cô không thể hiểu nổi thế nào là tình yêu. Nhưng cô cũng mến tôi. Thật là điên nếu bắt mình phải chia tay nhau. Cô vừa nói đến mục đích! Nhưng phải chăng chỉ riêng việc được gặp nhau, được trò chuyện với nhau, được kết thân với nhau đã không đủ là một mục đích tuyệt vời, chính đáng và quan trọng? Cô có hại gì đâu nếu gặp tôi... Xin cô hãy nghe tôi!...
Cô trang nghiêm lắng nghe và không thể phản đối lý lẽ của chàng, cô không thể phản đối, nhất là cô đang muốn chàng thuyết phục ngay cả bản thân mình. Còn chàng thì giàu khả năng thuyết phục.
Vả chăng cô cũng không thể cấm chàng lui tới cửa hiệu khi bất cứ một người khách hàng nào cũng có quyền vào. Mà đối với khách hàng thì phải lịch sự chuyện trò.
Thế là từ hôm ấy, chàng Lê-sếch Trưn-xki ngày nào cũng đến đấy và con ngựa hoặc chiếc mô-tô của anh đặt trước cửa hiệu bà Skốp-kô-va đã trở thành một chuyện giật gân trong toàn thị trấn, gây nên những lời bình luận đủ màu sắc, và nỗi ghen tức, mà theo lẽ đương nhiên của sự vật thì được nấp dưới danh nghĩa dư luận phản đối của xã hội.
Thực ra không ai biết có gì xấu trong chuyện đó hay chăng. Việc chàng kỹ sư ngồi lâu lâu một chút trong cửa hiệu mà cánh cửa luôn rộng mở đối với bất kỳ ai không thể gây ra điều gì đáng nghi ngờ hoặc ám muội đối với cô Ma-rư-sia. Song tính ghen tức của con người ta đâu kể gì đến những chuyện hiển nhiên. Gần như mỗi một cô gái ở Ra-đô-li-xki đều có thể tự hào khi kể về chyện có anh chàng nào đó ái mộ mình hay cặp kè kề cận luôn luôn, tuy không có chàng nào có thể sánh bằng cậu chủ Trưn-xki. Nhưng thật khó lòng hiểu nổi tại sao chàng trai xinh đẹp tóc đen này lại chọn đúng một cô gái lang bạt từ xa đến như cô Ma-rư-sia làm công ở nhà bà Skốp-kô-va kia. Nếu anh chàng muốn tìm người bạn đời cho mình trong đám thiếu nữ thị trấn thì có thể tìm được khối đám vừa xinh, vừa giàu, vừa xứng đôi vừa lứa hơn về mọi phương diện. Tất nhiên, cha mẹ những cô gái môn đăng hộ đối hơn ấy cũng đồng tình chia sẻ những nỗi bất bình của con gái họ, và các chàng trai thường đi cùng họ đến Ba Cây Lê cũng thế. Mà đó đã là toàn bộ dư luận của Ra-đô-li-xki rồi còn gì.
Nếu như với sự nhạy cảm bẩm sinh của mình, Ma-rư-sia không nhận ngay ra sự thay đổi chiều hướng của dư luận thị trấn, thì chỉ vì cô quá bị cuốn hút vào những chuyện riêng tư mà thôi. Mà những chuyện ấy thì mới mẻ và hấp dẫn đến nỗi toàn bộ đời sống bên ngoài thốt nhiên tan biến ra trong một làn sương mờ huyền ảo nào đó, trở thành một chuyện không thật, thoảng qua và không mấy quan trọng.
Ma-rư-sia biết mình đã yêu. Càng ngày ý thức ấy càng trở nên rõ rệt và nhiều màu sắc hơn. Cô cố chống lại nó nhưng chỉ vô ích. Hay thực ra không phải vô ích, mà chính vì nhờ cuộc đấu tranh ấy, nhờ sự cam chịu nhượng bộ cho bạo lực của tình cảm ấy, mà mỗi ngày qua càng làm mạnh mẽ thêm lên vị ngọt ngào kỳ lạ đến choáng ngợp, cái bàng hoàng sung sướng đang cuốn lấy cô như một cơn gió lốc làm cô nghẹn thở, nó che chắn, bao bọc cô tất cả mọi phương bằng những sự đụng chạm trong suốt vô hình, khiến cô đê mê, ngây ngất, lâng lâng...
- Ta yêu, ta yêu, ta yêu, - mỗi ngày cô nhắc lại hàng nghìn lần, trong những lời ấy có nỗi ngạc nhiên, cả niềm vui sướng, nỗi lo ngại, cả niềm hạnh phúc và sự ngưỡng mộ đối với điều phát hiện lớn lao ngay trong tâm hồn, điều mà trước nay cô không hề biết: rằng chính trong cô có hạt ngọc quý báu nhường kia.
Càng đáng kinh ngạc hơn bởi thực ra chẳng hề có gì mới mẻ cả. Nếu như có một người làm chứng nào muốn và có thể nghe được những câu chuyện của đôi thanh niên nam nữ trong cửa hiệu của bà Skốp-kô-va, hẳn người ấy sẽ phải thất vọng. Chàng Trưn-xki đến, hôn tay Ma-rư-sia, rồi chàng kể cho cô nghe những chuyến du lịch cùng những chuyện phiêu lưu của mình, hoặc cả hai cùng đọc sách, những quyển sách mà bây giờ chàng thường đưa đến. Phần lớn đó là những tập thơ. Đôi khi Ma-rư-sia kể về thời thơ ấu của cô, về người mẹ và những kế hoạch tiếc thay đã bị sụp đổ của bà. Có lẽ chỉ có một điều thay đổi: cô gọi chàng là ông Lê-sếch, còn chàng gọi cô là Ma-rư-sia. Tất nhiên là khi không có ai khác.
Mọi sự có thể thay đổi nhiều hơn nếu Ma-rư-sia ưng thuận. Nhiều lần chàng Lê-sếch muốn ôm hôn cô, nhưng bao giờ cô cũng phản đối với một sự cương quyết và một nỗi sợ sệt, đến nỗi chàng chẳng còn cách nào khác ngoài cách kiên nhẫn đợi chờ.
Rồi chàng ra về, còn cô, suốt phần ngày còn lại, cô chỉ nghĩ về những giờ phút đã qua và về những giờ ngày mai sẽ đến.
Đóng cửa hiệu trở về nhà, lòng cô tràn ngập hạnh phúc, tràn đầy nhân hậu đối với những ngôi nhà nhỏ bé kia, đối với những hàng cây xanh, với bầu trời thăm thẳm, với toàn thế giới, với tất thảy mọi người, những người mà cô nở một nụ cười chân thành thay cho lời chào hỏi.
Cũng chính vì thế, cô không nhận thấy những ánh mắt thiếu cảm tình của họ, vẻ mặt khinh mạn của họ, sự hằn học và chê bai của họ. Không phải ai cũng chỉ tự hạn chế trong khuôn khổ bày tỏ thầm lặng không lời sự chê trách và thù ghét của mình. Và thế là một ngày kia xảy ra một việc sẽ kéo theo hậu quả rất đau lòng.
Ở trấn Ra-đô-li-xki, đã từ nhiều năm nay, có gia đình ông Vôi-đư-uô làm yên cương nổi tiếng trong toàn huyện. Họ nhà Vôi-đư-uô tuy xuất thân từ vùng quê thật đấy, nhưng vốn là dòng dõi quý tộc nhỏ có danh giá, đó là điều đầu tiên để họ được tôn trọng và có địa vị trong thị trấn, hai nữa, từ đời ông đời cha, họ đã nổi tiếng là người thợ làm yên cương giỏi nhất. Yên cương hay đồ thắng ngựa của nhà Vôi-đư-uô trấn Ra-đô-li-xki được chuộng mua, mặc dù đôi khi giá đắt hơn cả yên cương thành Vin-nô. Hồi ấy, người chủ chốt trong gia đình giàu có và được tôn trọng ấy là ông Vôi-đư-uô, hay được người ta gọi bằng cái tên Mô-xte-rơ-giây (32), xuất phát từ câu cửa miệng của ông, còn hai người phó trong xưởng thợ của ông là hai đứa con trai Ju-zép và Kha-lic-xtơ. Đứa con trai thứ ba của ông Mô-xte-rơ-giây, Zê-nôn, thì bị cả gia đình lẫn toàn thị trấn xem là một đứa con hư hỏng.
Cha y muốn đào tạo y thành thầy dòng. Khó khăn vất vả lắm ông mới đẩy được thằng bé lười học ấy qua hết sáu lớp trung học và ấn vào chủng viện. Song tất cả những lo lắng và tiền của kia chẳng được tích sự gì. Trái tim của ông lão Mô-xte-rơ-giây đã quá vội mừng khi trước sự ngạc nhiên của toàn thị trấn, cậu con trai trở về trong chiếc áo chùng của đạo sinh chủng viện. Không đầy một năm sau, người ta đuổi cổ Zê-nôn ra khỏi trường dòng. Mặc dù chính Zê-nôn kể rằng y tự bỏ trường, song người ta vẫn đồn chính thú mê rượu vốt-ca và đàn bà mới là nguyên nhân để y bị tống cổ ra khỏi hàng ngũ các bậc chăn chiên tương lai. Và hành động về sau của cậu cựu chủng sinh kia đã chứng minh rằng những lời đồn đại ấy là đúng. Y thường ngồi trong tửu quán hơn là ở nhà thờ, còn về việc y là khách thường xuyên của đám đàn bà ở phố Kramna thì tốt nhất là chẳng nên nhắc đến làm gì nữa.
Vì biết tiếng La-tinh, y cũng có thể xin làm ở hiệu thuốc. Ít nhất thì cha y cũng nghĩ như thế. Nhưng cả lần này nữa, ông cũng thất vọng. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, Zê-nôn bỏ việc làm ở hiệu dược phẩm. Người ta bàn tán rất nhiều về chuyện ấy, nhưng không có tin đồn nào có thể xác minh được, vì ông Niêmira, chủ hiệu dược phẩm của trấn Ra-đô-li-xki, không thuộc vào số người hay nói, hơn nữa ông lại là bạn thân của ông lão Mô-xte-rơ-giây.
--------------------------------
(30) Tên gọi thân mật của Ma-rư-sia.(N.D)
(31) Cách gọi thân mật khác của Ma-rư-sia.(N.D)
(32) Mô-xte-rơ-giây -có nghĩa là "ông chủ nhân từ" (N.D)